Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Từ nghiên cứu đến giảng dạy và chia sẻ tài nguyên thông tin

Từ lâu, giới nghiên cứu ở nước ngoài

đã quan tâm đến Việt Nam với những

vấn đề khác nhau: khảo cổ học, dân tộc

học, lịch sử từ cổ đại đến hiện đại, ngôn

ngữ, văn học, văn hoá dân gian, tín

ngưỡng-tôn giáo, kinh tế, pháp luật,

v.v.

Sự quan tâm của các học giả ngày

một nhiều đến mức từ 1993, một tổ chức

mang tính khu vực là EUROVIET được

hình thành theo sáng kiến của các học

giả châu Âu nghiên cứu về Việt Nam.

Cho đến nay đã diễn ra 6 cuộc hội thảo

EUROVIET tại các địa điểm khác nhau,

gần đây nhất là Hội thảo lần thứ sáu,

tại Hamburg (Đức) (1, tr. 28-74).

Đáp ứng lòng mong mỏi của giới

nghiên cứu trong và ngoài nước, các

cuộc hội thảo quốc tế Việt Nam học lần

lượt được tổ chức tại Việt Nam. Hội thảo

lần thứ nhất (1998), với sự tham dự của

700 nhà khoa học, trong đó có 300 học

giả nước ngoài đến từ 26 nước trên thế

giới. Hội thảo lần thứ hai (2004) tại Tp.

Hồ Chí Minh, với 300 báo cáo và có 189

học giả đến từ 26 quốc gia, trong đó 118

đại biểu có tham luận (2, tr.19).

 

pdf 8 trang kimcuc 6120
Bạn đang xem tài liệu "Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Từ nghiên cứu đến giảng dạy và chia sẻ tài nguyên thông tin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Từ nghiên cứu đến giảng dạy và chia sẻ tài nguyên thông tin

Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Từ nghiên cứu đến giảng dạy và chia sẻ tài nguyên thông tin
Hội thảo quốc tế Việt nam học lần thứ ba: 
Từ nghiên cứu đến giảng dạy và chia sẻ tài nguyên thông tin 
V−ơng toàn(*) 
1. Việt Nam học: từ hội thảo đến Hội thảo 
Từ lâu, giới nghiên cứu ở n−ớc ngoài 
đã quan tâm đến Việt Nam với những 
vấn đề khác nhau: khảo cổ học, dân tộc 
học, lịch sử từ cổ đại đến hiện đại, ngôn 
ngữ, văn học, văn hoá dân gian, tín 
ng−ỡng-tôn giáo, kinh tế, pháp luật, 
v.v... 
Sự quan tâm của các học giả ngày 
một nhiều đến mức từ 1993, một tổ chức 
mang tính khu vực là EUROVIET đ−ợc 
hình thành theo sáng kiến của các học 
giả châu Âu nghiên cứu về Việt Nam. 
Cho đến nay đã diễn ra 6 cuộc hội thảo 
EUROVIET tại các địa điểm khác nhau, 
gần đây nhất là Hội thảo lần thứ sáu, 
tại Hamburg (Đức) (1, tr. 28-74). 
Đáp ứng lòng mong mỏi của giới 
nghiên cứu trong và ngoài n−ớc, các 
cuộc hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 
l−ợt đ−ợc tổ chức tại Việt Nam. Hội thảo 
lần thứ nhất (1998), với sự tham dự của 
700 nhà khoa học, trong đó có 300 học 
giả n−ớc ngoài đến từ 26 n−ớc trên thế 
giới. Hội thảo lần thứ hai (2004) tại Tp. 
Hồ Chí Minh, với 300 báo cáo và có 189 
học giả đến từ 26 quốc gia, trong đó 118 
đại biểu có tham luận (2, tr.19). 
Hội thảo lần này – lần thứ ba có chủ 
đề “Việt Nam: Hội nhập và Phát triển” 
đã diễn ra từ ngày 4-7/12/2008 tại Hà 
Nội, với 868 báo cáo gửi đến, 174 tác giả 
từ 23 n−ớc là các chuyên gia, nhà khoa 
học thuộc các tr−ờng đại học, các viện/ 
cơ quan/ tổ chức nghiên cứu ở trong 
n−ớc và n−ớc ngoài dành sự quan tâm 
đến các lĩnh vực nghiên cứu Việt Nam 
nói chung, và đặc biệt là có cả các tổ 
chức phi chính phủ tham gia phát triển 
kinh tế, văn hoá và du lịch, góp phần 
giải quyết các vấn đề gắn với quá trình 
hội nhập và phát triển của Việt Nam. 
Nét độc đáo của Hội thảo này là lớp học 
giả trung niên và trẻ chiếm −u thế và 
khá thành thạo trong sử dụng tiếng 
Việt.(*) 
Đúng nh− nhận xét của GS. Furuta 
Motoo cho rằng: “quan niệm khu vực 
học thuộc về nghiên cứu của các nhà 
khoa học ngoài n−ớc đã chấm dứt, thay 
vào đó các nhà khoa học trong các quốc 
gia sẽ trở thành nhân tố chính, quan 
trọng nhất của khu vực học nh− nghiên 
cứu ở Việt Nam, Nhật Bản” (3, tr.412). 
Khoảng 500 công trình nghiên cứu 
chuyên ngành và liên ngành đ−ợc trình 
bày cho thấy Hội thảo đã có sự quan 
tâm lớn đến việc nâng cao nhận thức 
ngày càng toàn diện về Việt Nam, góp 
phần thúc đẩy công cuộc hội nhập sâu 
rộng của Việt Nam với cộng đồng quốc 
tế, đồng thời cũng sẽ nâng cao chất 
lựơng nghiên cứu và đào tạo về Việt 
Nam học.Tuy có những vấn đề cần tiếp 
tục nghiên cứu và trao đổi, song nguồn 
(*) PGS., TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội. 
Hội thảo quốc tế Việt Nam học... 13 
t− liệu thật sự phong phú và có nhiều 
cái mới. 
2. Các lĩnh vực nghiên cứu của Việt Nam học 
Phần lớn các báo cáo đ−ợc trình bày 
và thảo luận sôi nổi ở 18 tiểu ban 
chuyên môn. Hội thảo lần này xuất hiện 
nhiều tiểu ban mới, tập trung vào các 
vấn đề pháp lý, nông thôn, đô thị, tài 
nguyên, quan hệ quốc tế và đào tạo. 
Không ít báo cáo mang tính liên ngành 
cao. Bài viết này giới thiệu nội dung 
theo các lĩnh vực nghiên cứu, chứ không 
hoàn toàn theo cách phân tiểu ban. 
-Về nghiên cứu lịch sử 
Theo dòng lịch sử, các tác giả đề cập 
đến sự hình thành và mô hình thiết chế 
xã hội các quốc gia cổ ở Việt Nam hoặc 
một số nhân vật lịch sử: Hồ Quý Ly, 
Nguyễn Huệ - Quang Trung, và một số 
phong trào “khai sáng văn hoá”. 
Có báo cáo đề cập đến sự ra đời và 
hoạt động của các tổ chức vũ trang tiền 
thân và sự thành lập Quân đội nhân 
dân Việt Nam, hoặc bản sắc cách mạng 
ở quần chúng đ−ợc thể hiện rõ trong 
chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. 
Một số tác giả khẳng định đóng góp 
của Nguyễn Văn Vĩnh trong phát triển 
báo chí tiếng Việt và truyền bá chữ quốc 
ngữ, hoặc đề cập đến thể chế Sài Gòn 
cũ, khảo sát và đánh giá hoạt động của 
các tổ chức cứu trợ xã hội ở Sài Gòn từ 
1950 đến 1970. 
Một số tác giả khác lại quan tâm 
đến vai trò của Thục Phán – An D−ơng 
V−ơng, hoặc của thủ lĩnh, tù tr−ởng 
cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, các thủ 
lĩnh của tơring ở Tây Nguyên hoặc các 
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp 
của đồng bào miền núi Nam Trung Kỳ 
đầu thế kỷ XX, phong trào n−ớc Xu [Đỏ] 
những năm 1930 ở Tây Nguyên. 
Xác nhận vai trò của ng−ời Hoa 
trong lịch sử Việt Nam, có tác giả xem 
đây là một thành phần dân tộc đặc biệt 
với những yếu tố tích cực và tiêu cực 
đã bộc lộ, cần biết để huy động lực l−ợng 
này cho sự đổi mới đất n−ớc hiện nay. 
Hội thảo cũng đề cập đến triết lý 
quân sự truyền thống của tổ tiên cần kế 
thừa và nâng lên một tầm cao mới. 
-Về những vấn đề kinh tế 
Ng−ợc dòng thời gian, một số báo 
cáo hình dung lại vị trí của Việt Nam 
trong hệ thống th−ơng mại biển Đông 
thời cổ-trung đại qua ba thời kì chính: 
thế kỉ X, thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV, 
giữa thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVI, với 
các trung tâm kinh tế x−a nh− Mỹ Tho 
đại phố ở Nam bộ hoặc M−ờng Thanh ở 
Tây Bắc. 
Phần lớn báo cáo tập trung vào các 
vấn đề kinh tế nổi cộm, tranh luận về 
bản chất nền kinh tế, cơ cấu kinh tế vĩ 
mô thúc đẩy tăng tr−ởng, đổi mới,mở 
cửa, chủ tr−ơng hội nhập kinh tế để 
phát triển bền vững, giữ vững độc lập tự 
chủ. 
Một số tác giả đi vào cội nguồn, thực 
trạng hiện tại và triển vọng của kinh tế 
thị tr−ờng cùng với những vấn đề lý 
luận và thực tiễn của văn hoá doanh 
nghiệp: thực trạng và giải pháp nhằm 
nâng cao nhận thức về đạo đức kinh 
doanh, văn hoá kinh doanh. Vấn đề 
phát triển vùng kinh tế chiến l−ợc đ−ợc 
đề cập đến nh−: khu công nghiệp, cửa 
khẩu, khai thác các nguồn tài nguyên 
biển. 
Tr−ớc các yếu tố thuận lợi và cơ hội 
phát triển, cần những b−ớc đột phá về 
thể chế, hành chính, tiếp tục cải cách: 
khắc phục rào cản trong thu hút đầu t− 
và bất cập trong đăng kí kinh doanh, 
14 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2009 
những tác động tích cực và tiêu cực của 
di chuyển lao động quốc tế và lựa chọn 
hợp lý với hoàn thiện chính sách xuất 
khẩu dịch vụ, kinh tế cửa khẩu, chính 
sách sử dụng FDI và các nguồn nhân 
lực vào các ngành mang lại hiệu quả. 
Kinh tế liên ngành đ−ợc phân tích 
kết hợp: tiềm năng biển (thuỷ sản, dầu 
khí và du lịch) và các giải pháp đảm bảo 
lợi ích của nông dân tr−ớc tác động tiêu 
cực của xu thế công nghiệp hoá, đô thị 
hoá và những thách thức đang đặt ra 
cho kinh tế hộ nông dân. 
-Lĩnh vực pháp lý 
Ng−ợc dòng lịch sử, có thể nhận ra 
một số giá trị của những bộ luật cổ và lệ 
làng đối với đ−ơng đại. Nhìn lại những 
chặng đ−ờng phát triển của pháp luật 
từ 1945 đến nay, đặc biệt là việc cải 
cách t− pháp, hoàn thiện pháp luật và 
xây dựng Nhà n−ớc pháp quyền, tạo 
thuận lợi cho khả năng tiếp cận thông 
tin. Phát triển dịch vụ pháp lý, t− vấn 
pháp luật, dịch vụ y tế, việc làm cũng 
chính là góp phần bảo vệ Nhà n−ớc và 
pháp luật. 
Định h−ớng thị tr−ờng là nghệ 
thuật, cần giải quyết mối quan hệ giữa 
hình sự hoá và dân sự hoá các hành vi 
phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế, chống 
tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. 
Cần chủ thuyết về hệ thống pháp 
luật, mô hình tổng thể: đồng bộ, triệt để, 
liên tục, có năng lực tiếp nhận minh 
bạch, hình thành văn minh pháp lý, 
thấy hết thuận lợi và khó khăn khi thực 
thi giám sát và phản biện xã hội. Giải 
quyết tranh chấp quốc tế cũng nhằm 
đạt tới hoà bình và an ninh khu vực. 
-Về những vấn đề xã hội 
Kinh ngiệm lịch sử, nh− thiết chế 
quản lý nông thôn tr−ớc đây có thể vận 
dụng vào giải quyết vấn đề nổi cộm hiện 
nay của xã hội trong quá trình đổi mới 
để phát triển và hội nhập quốc tế. 
Phân tích xã hội quá trình phân giải 
và tái tạo cơ cấu xã hội và sự hình 
thành tầng lớp “−u trội”. Đặc tr−ng nổi 
bật của xã hội dân sự, tiềm lực xã hội và 
quyền lực của pháp luật, vai trò của 
Nhà n−ớc, một khi công bằng, bình đẳng 
xã hội không bó hẹp ở kinh tế. Hoàn 
thiện hệ thống an sinh xã hội. Những 
vấn đề nảy sinh và giải pháp tr−ớc biến 
đổi của hôn nhân gia đình, giới. 
Vai trò của làng nghề trong xã hội 
cổ truyền và những vấn đề nhằm bảo 
tồn và phát triển bền vững. Giải quyết 
các vấn đề mới nảy sinh do biến đổi 
xã hội, biến đổi văn hoá truyền thống 
làng xã trong quá trình chuyển đổi mục 
đích sử dụng đất, đô thị hoá, nông 
nghiệp và sức khoẻ đ−ợc nhiều đại 
biểu quan tâm. 
-Về những vấn đề đô thị và đô thị 
hoá 
Xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá 
quản lý đô thị. Phát triển mô hình mới 
về chính quyền, phát huy vai trò nhân 
dân trong xây dựng và quản lý đô thị. 
Những đặc tr−ng cơ bản của di dân vào 
đô thị,các khía cạnh thay đổi tác động 
đến tính cố kết cộng đồng đ−ợc chú ý. 
-Về những vấn đề nông nghiệp,nông 
thôn và nông dân 
Ng−ợc dòng thời gian, tác giả vận 
dụng kinh ngiệm lịch sử vào giải quyết 
các vấn đề nổi cộm hiện nay. 
Phần lớn báo cáo đề cập đến vấn đề 
nông nghiệp, nông thôn và nông dân 
Việt Nam sau WTO và các h−ớng đột 
phá cho chính sách hiện nay: Đ−a ra 
những luận cứ khoa học cho chuyển đổi 
khi cơ cấu kinh tế không đồng đều ở các 
Hội thảo quốc tế Việt Nam học... 15 
vùng, khó khăn trong chuyển đổi lao 
động và kinh tế thể hiện ở chuyển dịch 
lao động của hộ nông dân, biến đổi trong 
đời sống gia đình nông thôn. B−ớc vào 
thời kỳ chuyển đổi, những ngành nghề 
truyền thống vẫn luôn ở trạng thái sản 
xuất tự phát và không ổn định. Một 
định h−ớng tầm vĩ mô cho sự phát triển 
vùng nghề, ngay cho nông thôn đồng 
bằng sông Hồng, vẫn là bài toán khó 
giải. 
-Về văn hoá và nghệ thuật 
Văn hoá Việt Nam là nơi hợp l−u 
của khu vực và thế giới: tiếp xúc văn 
hoá đã để lại dấu ấn sâu đậm trong 
nhiều lĩnh vực: văn học, sân khấu, điện 
ảnh, mỹ thuật, giáo dục, đào tạo, nghiên 
cứu khoa học Sắc thái văn hoá Thăng 
Long - Hà Nội cho thấy sức sống, bản 
sắc và bản lĩnh đ−ợc hình thành, kết 
luyện trong và qua tiếp xúc, giao l−u. 
Một số báo cáo đề cập đến lịch sử 
hình thành, phát triển và suy tàn của 
một số loại hình sản phẩm văn hoá cần 
phục hồi và phát huy giá trị. Môi tr−ờng 
văn hoá hiện nay vừa phong phú, lại có 
nhiều cơ hội và lắm thách thức. “Đa 
dạng và đa chiều, nh−ng có tình trạng 
cản trở nhau, mâu thuẫn với nhau, 
thậm chí triệt tiêu lẫn nhau trong sự 
phát triển”. Vì thế cần có cách nhìn 
“sáng suốt”. Những thay đổi tích cực và 
hạn chế sau 20 năm đổi mới cho thấy 
đời sống văn hoá cần đ−ợc quản lý khoa 
học và hợp lý. 
D−ới góc độ văn hoá kiến trúc nhà ở 
dân gian, kỹ thuật tạo hình, chế tác. 
Một số nghiên cứu giới thiệu mỹ thuật, 
âm nhạc cung đình, ca khúc Trịnh Công 
Sơn. 
Tr−ớc thực tế lịch sử tự c−ờng, văn 
hoá dân tộc không thui chột trong thời 
kỳ khu vực hoá, với ngoại bang, có báo 
cáo chỉ rõ những tiếp biến khi tiếp xúc 
với văn hoá khu vực và văn hoá Ph−ơng 
Tây, hoặc nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc 
bên cạnh xu h−ớng toàn cầu hoá, có báo 
cáo nhấn mạnh dến doanh nhân, doanh 
nhân với văn hoá mới. 
Cần chủ động hội nhập, không san 
bằng mọi sự khác biệt, phản đối đơn 
tuyến, cần đa tuyến, một số báo cáo coi 
đó nh− một trong những đặc tr−ng cơ 
bản của bản sắc văn hoá, tính cộng đồng 
của ng−ời Việt, sự khác biệt với các dân 
tộc Đông Bắc á. Có nhà nghiên cứu đề 
xuất khung lý thuyết, khung phân tích 
và ph−ơng pháp mô hình hoá nhằm 
nghiên cứu mối quan hệ của văn hoá 
Việt Nam với văn hoá Đông Nam á. 
-Những vấn đề về tôn giáo 
Một số báo cáo cho rằng tôn giáo là 
một hiện t−ợng xã hội và cũng là một 
hiện t−ợng văn hoá, trình bày nguyên 
nhân ra đời các tôn giáo bản địa: thờ 
cúng tổ tiên, tín ng−ỡng thờ Mẫu Liễu, 
h−ớng tới nghiên cứu điểm tín ng−ỡng 
này từ góc độ nhân học lịch sử. 
Có báo cáo khẳng định vấn đề quan 
trọng nhất trong việc lựa chọn mô hình 
nhà n−ớc thế tục là việc tìm ra một mô 
hình phù hợp để công nhận các tổ chức 
tôn giáo, mà trong môi tr−ờng đa dạng 
cần chú ý đến cái bất biến và cái khả 
biến. 
Có báo cáo “vạch ra ranh giới giữa 
cái thiêng liêng và cái thế tục, giữa sự 
quá đà và sự lùi lại” ở “không gian tôn 
giáo” thời kỳ hậu Cách mạng và ảnh 
h−ởng tới giá trị của “tôn giáo” hợp pháp 
ở Việt Nam hiện tại: Phật giáo, Thiên 
chúa Giáo, đạo Islam. Từ góc độ của tín 
ng−ỡng của tôn giáo, có thể hiểu tính 
cách, nếp sống đôi lúc trái ng−ợc nhau. 
-Về những vấn đề văn học 
16 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2009 
Có báo cáo tập trung vào lý luận 
văn học đ−ơng đại trên con đ−ờng hội 
nhập với thế giới, mà chủ yếu là hội 
nhập với văn học hiện đại và hậu hiện 
đại ph−ơng Tây, trong đó, trí thức, văn 
nghệ sĩ là một bộ phận của nguồn nhân 
lực. 
Những hiện t−ợng cụ thể thời kỳ đổi 
mới cho thấy để tác phẩm văn ch−ơng có 
giá trị đích thực lâu dài, nó phải phản 
ánh đ−ợc bản chất của thời đại trong 
cách cảm nhận riêng sáng tạo của nghệ 
sĩ, phải có sự trau chuốt về nghệ thuật. 
Khẳng định văn học dân gian 
truyền thống vẫn là “những viên ngọc 
quý”, một số báo cáo bàn về truyền 
thuyết, sử thi, tuồng cổ. Có tác giả đề 
cập đến truyện ngắn, văn xuôi, truyện 
ký, thơ. 
Có báo cáo đã đặt vấn đề về vị trí và 
vai trò của “văn học hải ngoại” trong 
lịch sử văn học Việt Nam từ tr−ớc đến 
nay. Có tác giả nhấn mạnh hoạt động 
dịch thuật văn học. 
Tác động của toàn cầu hoá và thị 
tr−ờng và vai trò quản lý của Nhà n−ớc 
đứng tr−ớc “môi tr−ờng văn học mới”, có 
tác giả cho rằng, cần thoả mãn những 
nhu cầu tiêu dùng và giải trí mới, và để 
ngành du lịch phát triển. 
-Về những vấn đề ngôn ngữ 
Về tiếng Việt, một số tác giả nhận 
thấy trong phát triển và hội nhập, câu 
ngắn hơn, vốn từ tăng lên, song có hiện 
t−ợng sử dụng từ mới khá tuỳ tiện, cách 
viết không nhất quán, ngay cả về quan 
niệm. Về vị thế ngôn ngữ quốc gia của 
tiếng Việt, có nên quy chuẩn hay không 
và chuẩn thế nào: chữ viết thống nhất, 
phân biệt âm theo vùng? 
Bên cạnh đó, tác giả khảo sát hệ 
thống ngữ âm đ−ợc phản ánh trong cấu 
tạo chữ Nôm vào thế kỷ XV, hoặc 
ph−ơng ngữ Nam kỳ thế kỷ XVIII. 
Nhiều bàn thảo về việc quảng bá 
tiếng Việt ra n−ớc ngoài, dạy tiếng Việt 
cho ng−ời bản ngữ, cho học sinh dân tộc 
thiểu số. Một số báo cáo nghiên cứu đối 
chiếu tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng 
Nhật và một số ph−ơng ngữ Trung Quốc. 
Về chính sách ngoại ngữ, một số tác 
giả đặt vấn đề cần xác định vị thế của 
tiếng Anh là ngoại ngữ hay công cụ 
dạy/học? Nếu tiếng Anh trở nên công cụ 
dạy/học thì ảnh h−ởng đến sự phát triển 
của tiếng Việt, và nh− thế có trái với 
Luật Giáo dục hay không? Trong khi đó, 
có học giả Nhật Bản nhấn mạnh: “việc 
học chữ Hán sẽ rất hữu ích cho việc học 
các thứ tiếng á Đông”, và vì các mục 
tiêu văn hoá, hội nhập và quốc tế. 
-Về giáo dục và đào tạo 
Mặc dù đạt đ−ợc nhữnh thành công 
lớn không thể phủ nhận, nh−ng thực tế 
cũng cho thấy “có sự chênh lệch rõ ràng 
ở một số lĩnh vực” và những câu hỏi mới 
về năng lực của hệ thống giáo dục-đào 
tạo trong việc đáp ứng chất l−ợng,sự 
cạnh tranh, sự minh bạch, công bằng và 
về hệ quả của những sự điều chỉnh. Đào 
tạo nguồn nhân lực không chỉ là do yêu 
cầu của kinh tế mà còn do yêu cầu phát 
triển xã hội và con ng−ời, h−ớng tới một 
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
Để khắc phục những yếu kém - chậm 
đ−ợc khắc phục và “có xu h−ớng gia 
tăng” - hiện nay, nhiều ý kiến thấy cần 
phải tiến hành cải cách giáo dục “sâu 
sắc”, “một cách đồng bộ”. Tr−ớc hết là 
cải cách cơ cấu hệ thống, sau đó là cải 
cách nội dung và ph−ơng pháp giáo dục, 
cải cách tổ chức và quản lý giáo dục. 
Nguồn nhân lực đang trong “tình 
trạng mâu thuẫn giữa l−ợng và 
chất”,”thiếu sự cộng lực” giữa các nguồn 
Hội thảo quốc tế Việt Nam học... 17 
nhân lực. Bài toán cho chính sách phát 
triển nguồn nhân lực là nâng cao chất 
l−ợng đào tạo, đáp ứng nhu cầu xã hội 
trong xu thế toàn cầu hoá. 
-Về những vấn đề khu vực 
Tại Hội thảo, các khu vực cụ thể 
đ−ợc nghiên cứu đ−ợc chia theo vùng 
miền,theo cách phân chia trong lịch sử 
và hiện tại. 
Các nghiên cứu miền Bắc đ−ơng đại 
tập trung vào đồng bằng sông Hồng và 
đặc biệt là Thăng Long-hà Nội. 
Bên cạnh đó, bản sắc của ng−ời Việt 
miền Trung, không gian văn hoá Tây 
Đô, quan x−ởng trong việc tạo nên diện 
mạo văn hoá đô thị Huế, sự thay đổi 
trong kiến trúc truyền thống, lễ hội 
truyền thống của các dân tộc bản địa ở 
Tây Nguyên cũng đ−ợc khảo sát. 
Tìm về miền Nam trong lịch sử, có 
các báo cáo viết về Nam Bộ thời sơ 
sử,lịch sử xã hội đa sắc tộc ở đồng bằng 
sông Mê Kông, đô thị Sài Gòn thế kỷ 
XVII-XIX;Văn hoá vùng, văn hoá tộc 
ng−ời và sự phát triển kinh tế -xã hội ở 
đồng bằng sông Cửu Long 
-Về những vấn đề bảo vệ môi tr−ờng 
và phát triển bền vững 
Đề cập đến những thành tựu, thách 
thức và giải pháp cho chiến l−ợc phát 
triển bền vững, trong định h−ớng phát 
triển thời kỳ 2011-2020, cần cân đối 
giữa kinh tế, xã hội với tài nguyên và 
môi tr−ờng, có báo cáo phan tích sự 
đánh đổi giữa bảo tồn thiên nhiên và 
phát triển, cảnh báo diễn biến chất 
l−ợng môi tr−ờng trong giai đoạn công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong quá 
trình đô thị hoá. Do những thay đỏi khí 
hậu, con ng−ời cần có những ứng phó 
với thay đổi khí hậu và bệnh tật. Về tổ 
chức lãnh thổ-xã hội, có thể tìm cách 
thích nghi và vô hiệu hoá những biến 
đổi của khí hậu cho các vùng dễ bị tổn 
th−ơng. 
Có báo cáo cho rằng xây dựng bản 
đồ chỉ số nhạy cảm hệ sinh thái có thể 
giúp cho bảo tồn đa dạng sinh học. 
Quản lý tài nguyên đất rừng và nguồn 
tài nguyên động vật có thể dựa vào cộng 
đồng thôn bản ở miền núi, khai thác tri 
thức bản địa giải quyết vấn đề môi 
tr−ờng. Có thể xã hội hoá công tác bảo 
vệ môi tr−ờng cùng với việc nâng cao 
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 
Vai trò của Bảo tàng lịch sử tự nhiên 
bảo vệ môi tr−ờng cần đ−ợc tính đến. 
-Về những vấn đề giao l−u giữa Việt 
Nam với quốc tế 
Lịch sử đã ghi nhận chủ nhân miền 
đất này có mối bang giao từ lâu đời với 
các n−ớc láng giềng xa và gần. 
Bên cạnh quan hệ với Liên Xô cũ, 
nhiều báo cáo cho thấy từ công cuộc đổi 
mới, Việt Nam thực thi đ−ờng lối mới 
trong quan hệ quốc tế đa ph−ơng, đa 
dạng hoá quan hệ, h−ớng tới những đối 
tác bền vững. Tuy nhiên có báo cáo 
quan tâm đến việc xác định rõ các khái 
niệm đối tác, đối tác chiến l−ợc; phát 
huy ngoại giao nhân dân với Bắc Mỹ: 
Hoa Kỳ, Canada; với Đông á và Đông 
Nam á, đặc biệt là Trung Quốc, ấn Độ, 
Thailand, Lào, Campuchia và cộng đồng 
ASEAN; với Châu Âu: Nga, Mông cổ, 
Pháp. Có báo cáo đi sâu vào thực trạng 
và triển vọng trong quan hệ với EU. Có 
báo cáo đề cập đến tình hình cộng đồng 
ng−ời Việt ở một số n−ớc. 
3. Chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy và tài nguyên 
thông tin về Việt Nam học 
-Chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy về 
Việt Nam học 
18 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2009 
Một số báo cáo cho thông tin về đào 
tạo Việt Nam học ở khu vực và quốc tế 
nh−: Nga, Hoa Kỳ, Malaysia 
Về sự hình thành, phát triển và 
thực trạng đào tạo ở Viện Việt Nam học 
và Khoa học phát triển và các tr−ờng 
đại học Việt Nam, cho thấy năm học 
2007-2008 đã có 76 cơ sở đào tạo, 32 
tr−ờng đại học, 43 tr−ờng cao đẳng và 
01 viện đào tạo, giảng dạy về Việt Nam 
học. Tr−ớc thực trạng lâu nay nghiên 
cứu Việt Nam học có nhận thức ch−a 
thật thống nhất, gần đây xuất hiện tình 
trạng đào tạo Việt Nam học t−ơng đối 
tràn lan trên quy mô cả n−ớc, rất nhiều 
tr−ờng đại học đã mở ra ngành Việt 
Nam học để đào tạo. ở nhiều nơi, kiến 
thức mới chỉ là tính cộng chuyên ngành, 
trong khi khoa học này có bản chất là 
liên ngành. Vì thế, đội ngũ đ−ợc đào tạo 
ra ch−a đ−ợc sử dụng hết. 
Hội thảo đã chia sẻ kinh nghiệm và 
kiến nghị cần sớm hình thành một 
khung ch−ơng trình chuẩn, nội dung 
thống nhất, đảm bảo cho chiến l−ợc 
phát triển Việt Nam học. 
-Chia sẻ tài nguyên thông tin về Việt 
Nam học 
Thông qua các báo cáo, các nhà 
nghiên cứu đ−ợc nghe giới thiệu về 
nhiều nguồn t− liệu mới ở n−ớc ngoài 
(nh− các nguồn tài liệu có thể tiếp cận 
miễn phí, tài liệu đã số hoá tại Trung 
tâm Việt Nam học và L−u trữ, Đại học 
Texas (thành lập năm 1989); dự án 
Chatsea [Challenge of Agrarian 
Transition in Southeast Asia] của 
Chính phủ Canada 20 năm nghiên cứu 
về Đông Nam á, tạp chí Nghiên cứu 
Việt Nam xuất bản bằng tiếng Anh của 
đại học California (ra đời năm 2006), 
một số hình ảnh về Việt Nam trong kho 
t− liệu của các nhà du khảo, truyền giáo 
và th−ơng gia Italia từ thế kỷ XVI đến 
đầu thế kỷ XIX. 
Từ việc yêu thích đến dịch và cho 
phát hành ở Mỹ năm 2000, cuốn sách 
“thi ca Hồ Xuân H−ơng” bằng tiếng Anh, 
chữ quốc ngữ và chữ Nôm gốc, dẫn đến 
sự ra đời của Quỹ bảo tồn chữ Nôm Việt 
Nam - một tổ chức phi lợi nhuận phục 
vụ cho việc bảo tồn d−ới dạng kỹ thuật 
số và nghiên cứu các văn bản đ−ợc viết 
bằng chữ Nôm từ thế kỉ X đến thế kỉ XX. 
Một “th− viện số thức” trên mạng 
Internet đ−ợc quan niệm là tiền đề để 
các tổ chức, cá nhân hiện đang sở hữu 
những kho th− tịch cổ Hán Nôm trong 
và ngoài n−ớc có cơ hội tăng c−ờng hợp 
tác và chia sẻ tài nguyên thông tin quý 
giá này. 
Để khắc phục hạn chế hệ thống đơn 
lẻ l−u trữ, thống kê, có thể chia sẻ dữ 
liệu kinh tế-xã hội từ Ch−ơng trình Dữ 
liệu Gia tốc của Ngân hàng thế giới. 
Một số báo cáo giới thiệu hệ thống 
t− liệu có thể khai thác tại Việt Nam 
(nh− nguồn sử liệu cận, hiện đại ở Bảo 
tàng Cách mạng Việt Nam, văn bia Lê 
Sơ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tài liệu 
địa chính Hà Nội, hệ thống văn bản 
hành chính thời thuộc Pháp (1789-1945) 
ở Cục văn th− L−u trữ Nhà n−ớc, các 
nguồn t− liệu tại các Trung tâm L−u trữ 
Quốc gia I, II, và IV, Phòng L−u trữ của 
Sở Tài nguyên –Môi tr−ờng và nhà đất 
Hà Nội,Th− viện Khoa học xã hội). Dựa 
vào những cứ liệu từ văn bia, khoa thi 
và hiện vật khảo cổ học, có thể khắc 
phục đ−ợc những nhầm lẫn và sai sót để 
xây dựng các niên biểu chi tiết và yếu 
l−ợc phản ánh chân thực lịch sử. 
Sách địa chí ở miền Nam Việt Nam 
(1054-1975), hàng trăm tập châu bản 
thời Nguyễn, hàng chục tập văn khắc, 
gần trăm tập sử thi Tây Nguyên,hàng 
Hội thảo quốc tế Việt Nam học... 19 
chục ngàn địa bạ, cung cấp nhiều tài 
liệu cần thiết. 
Nguồn t− liệu gia phả cũng giúp ích 
nhiều cho nghiên cứu dân số học. 
Một số tác giả nhấn mạnh đặc biệt 
những kết quả khai thác khảo cổ học 
cho thấy những vết tích văn hoá x−a, 
nh− quần thể mô hợp chất, gốm Chu 
Đậu, 
Nhờ sự phát triển các kĩ thuật phân 
tích: hệ thống bản đồ GIS, có tác giả 
h−ớng vào lập bản đồ số hoá phản ánh 
kết quả thu thập thông tin kinh tế-
xã hội. Bài toán không gian phải giải 
bằng liên ngành, xuyên ngành, cần sự 
hợp tác của chuyên gia trong và ngoài 
n−ớc, thuộc nhiều ngành khác nhau. 
Đáng quan tâm là từ ý t−ởng hợp 
tác bổ sung nguồn t− liệu, trao đổi 
thông tin và dự báo, Hội thảo đã kiến 
nghị xây dựng một địa chỉ điện tử 
(website) kêu gọi sự hợp tác của các th− 
viện và tận dụng ph−ơng tiện truyền 
thông hiện đại với Viện Việt Nam học 
và Khoa học phát triển làm đầu mối. 
4. Kết luận 
Việt Nam học ở Việt Nam đang 
chuyển dần từ nghiên cứu chuyên 
ngành sang nghiên cứu liên ngành và 
khu vực học gắn truyền thống với hiện 
đại,phân tích sâu sắc các mặt, đ−a Việt 
Nam vào các mối liên kết khu vực và hội 
nhập quốc tế. Hội thảo kiến nghị thành 
lập một Hội đồng khoa học quốc tế về 
Việt Nam học, hoạt động không biên 
giới, với Viện Việt Nam học và Khoa học 
phát triển làm đầu mối. 
Với tinh thần thẳng thắn, chỉ ra một 
cách khách quan nhữnh chỗ mạnh và 
điểm yếu, nhằm phát huy tốt nhất nội 
lực của đất n−ớc, trong nghiên cứu rất 
cần có những cách nhìn nhận sự vật, 
hiện t−ợng từ những góc nhìn khác 
nhau; vì thế, dự báo cũng có thể khác 
nhau. Mỗi ngành khoa học có thể xuất 
hiện nhiều xu h−ớng và nhiều tr−ờng 
phái nên việc có những ý kiến trái chiều 
nhau còn phải bàn luận và minh chứng 
thêm là cần thiết. Để phát huy dân chủ 
trong nghiên cứu khoa học cần tránh 
mọi sự quy kết, chụp mũ vội vàng, thiếu 
khách quan. Các ý kiến trái chiều cần 
đ−ợc phân tích, trao đổi cho thấu tình 
đạt lý, để bảo vệ chân lý, tôn trọng hiện 
thực khách quan. Nguyện vọng của các 
nhà nghiên cứu có tâm huyết là mong 
sao các kiến nghị của giới nghiên cứu 
đến đ−ợc các nhà quản lý. Những 
khuyến nghị hợp lý sớm đ−ợc thể chế 
hoá, đ−a vào cuộc sống, chứ không chỉ 
để ở các th− viện, hoặc nằm trong vốn t− 
liệu cá nhân, “làm mồi cho côn trùng 
gặm nhấm dần”. 
CHú THíCH 
1. Vũ Minh Giang. Tình hình nghiên 
cứu Việt Nam ở một số n−ớc trên thế 
giới. Trong cuốn “20 năm nghiên cứu 
Việt Nam học”. H.: Thế giới, 2008. 
2. Các kỳ Hội thảo quốc tế về Việt Nam 
học. Bản tin Đại học quốc gia Hà Nội, 
số 213, 2008. 
3. Hội thảo quốc tế Việt Nam học, 
Tuyển tập báo cáo tóm tắt. H.: Đại 
học quốc gia Hà Nội, 2008. 

File đính kèm:

  • pdfhoi_thao_quoc_te_viet_nam_hoc_lan_thu_ba_tu_nghien_cuu_den_g.pdf