Hoàng công chất với việc xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc (1751 - 1769)
Tây Bắc là một phần của lãnh thổ Việt Nam, một bộ phận không thể tách rời của Tổ quốc
Việt Nam. Từ thế kỷ XI đến XVIII, các triều đại phong kiến Việt Nam đã có nhiều biện pháp để
quy phục các tù trưởng, tộc trưởng ở Tây Bắc; thế nhưng, tất cả các biện pháp đó chủ yếu là dùng
uy quyền và vũ lực, lại không mấy hiệu quả. Vì thế, quan hệ này mang tính một chiều, khi triều
đình phong kiến dưới xuôi hưng thịnh thì các tù trưởng tộc trưởng chịu quy phục, lúc suy yếu họ
lại lục đục đánh nhau và trước sự lôi kéo của ngoại bang họ không thể không bị “nghiêng ngả”,
lúc dựa vào Lào chống Việt, lúc lại dựa vào Việt chống Lào. Năm 1751 Hoàng Công Chất kéo
quân vào đất Mường Thanh tiêu diệt giặc Pẻ giải phóng Tây Bắc Ông đã có những biện pháp
vững chắc, lâu bền để xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc và đoàn kết KinhThượng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàng công chất với việc xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc (1751 - 1769)
29 TẠP CHÍ KHOA HỌC Khoa học Xã hội, Số 7 (12/2016) tr 29 – 35 HOÀNG CÔNG CHẤT VỚI VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT GIỮA CÁC DÂN TỘC Ở TÂY BẮC (1751 - 1769) Phạm Văn Lực Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc Tóm tắt: Bài viết đề cập đến công cuộc dựng cờ khởi nghĩa, tiễu trừ giặc Pẻ giải phóng Tây Bắc, cùng những việc làm góp phần củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc của Hoàng Công Chất (1751 - 1769). Từ khóa: Hoàng Công Chất đoàn kết Kinh-Thượng 1. Đặt vấn đề Tây Bắc là một phần của lãnh thổ Việt Nam, một bộ phận không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam. Từ thế kỷ XI đến XVIII, các triều đại phong kiến Việt Nam đã có nhiều biện pháp để quy phục các tù trưởng, tộc trưởng ở Tây Bắc; thế nhưng, tất cả các biện pháp đó chủ yếu là dùng uy quyền và vũ lực, lại không mấy hiệu quả. Vì thế, quan hệ này mang tính một chiều, khi triều đình phong kiến dưới xuôi hưng thịnh thì các tù trưởng tộc trưởng chịu quy phục, lúc suy yếu họ lại lục đục đánh nhau và trước sự lôi kéo của ngoại bang họ không thể không bị “nghiêng ngả”, lúc dựa vào Lào chống Việt, lúc lại dựa vào Việt chống Lào... Năm 1751 Hoàng Công Chất kéo quân vào đất Mường Thanh tiêu diệt giặc Pẻ giải phóng Tây Bắc Ông đã có những biện pháp vững chắc, lâu bền để xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc và đoàn kết Kinh- Thượng. 2. Nội dung 2.1. Khái quát cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1739 - 1769) 2.1.1. Hoạt động của Hoàng Công Chất trước khi tiến lên Tây Bắc (1739 - 1751) Hoàng Công Chất sinh năm 1706, tên thật là Hoàng Công Thư, xuất thân trong một gia đình nghèo (gốc họ Mạc) người làng Hoàng Xá, huyện Thư Trì, trấn Sơn Nam Hạ, nay thuộc xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình [3]. Ông là một lãnh tụ nông dân kiệt xuất, dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình Lê-Trịnh cứu dân nghèo vì nghĩa lớn “Bảo Quốc an dân” diệt cường hào ác bá, lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo, với hoài bão xóa bỏ bất công, lập lại kỷ cương, phục hưng đất nước thống nhất giang sơn, thái bình muôn thưở. Từ năm 1739, Hoàng Công Chất đã tập hợp nông dân nghèo nổi dậy hoạt động ở vùng Sơn Nam. Nghĩa quân có biệt tài về chiến thuật đánh du kích “Khi tan, khi hợp”. Để tăng cường lực lượng và dấy binh chống lại triều đình Lê-Trịnh từ năm 1739 đến 1741, Hoàng Công Chất đã Ngày nhận bài: 26/6/2016. Ngày nhận đăng: 25/12/2016 Liên lạc: Phạm Văn Lực, e - mail: pvldhtb@gmail.com 30 liên kết với các lãnh tụ khởi nghĩa nông dân khác như: Vũ Đình Dung, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ hoạt động khắp vùng hạ lưu sông Hồng. Năm 1740, triều đình Lê-Trịnh cử các tướng Hoàng Công Kỳ, Phạm Trần Tông mang quân đánh dẹp Hoàng Công Chất ở Công An nhưng không thắng nổi. Năm 1743, Hoàng Công Chất lại chống cự thành công cuộc bao vây của thống lĩnh Trương Nhiêu, quân triều đình lại buộc phải rút về. Cuối năm đó, chúa Trịnh Doanh sai sứ đi chiêu an, đòi Hoàng Công Chất phải về yết kiến. Ông đã cự tuyệt, chiếm giữ phủ Khoái Châu (Hưng Yên). Trịnh Doanh liền điều Đinh Văn Giai mang đại quân đi đánh, quân khởi nghĩa của Hoàng Công Chất tổn thất nặng nề ở Đỗ Xá, nhưng vẫn giữ được Khoái Châu. Năm 1745, quân khởi nghĩa tập kích bắt và giết chết trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ. Hoàng Công Chất lại mang quân đánh phá các huyện lân cận và phối hợp với quân khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu. Năm 1746 và 1748, Hoàng Công Chất phối hợp với quân của Nguyễn Hữu Cầu đánh Sơn Nam và Thăng Long nhưng thất bại. Cuối năm 1748, Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng tấn công vào Mã Não và Hương Nhi, quân khởi nghĩa thua to, Hoàng Công Chất cùng con là Hoàng Công Toản đến Mỹ Lương theo thủ lĩnh khởi nghĩa tên là Tương. Sau đó quân của Tương bị đánh tan, cha con Hoàng Công Chất bỏ chạy vào Thanh Hoá. Triều đình ban thưởng ai bắt được Hoàng Công Chất thì được phong tước Quận công, hàm Tam phẩm. Tuy nhiên, năm 1750 ông theo đường núi tiến ra vùng Hưng Hoá. Năm 1750, Hoàng Công Chất liên kết với một thủ lĩnh khởi nghĩa giáp biên giới Vân Nam (Trung Quốc) là Thành, quân triều đình do Đinh Văn Thản tới đánh không dẹp nổi. Năm 1751, Thản chết, Lê Đình Châu được cử thay. Tháng 6 năm 1751, Lê Đình Châu đánh bại nghĩa quân Hoàng Công Chất, ông cùng nghĩa quân phải rút lên động Mãnh Thiên thuộc châu Ninh Biên (tức là Mường Thanh-Điện Biên), xây dựng căn cứ kháng cự lâu dài. 2.1.2. Hoàng Công Chất kéo quân vào đất Mường Thanh tiêu diệt giặc Pẻ giải phóng Tây Bắc (1751 - 1769) Từ giữa thế kỷ XVIII, các chúa Thái, chúa Lự lục đục, triều đình phong kiến Trung ương lại suy yếu không còn đủ sức khống chế đến vùng Tây Bắc, lũ giặc Pẻ (hay còn gọi là Phọng, Nhuồn) - một tộc người trong nhóm cư dân Tày-Thái ở Thượng Lào và miền Vân Nam Trung Quốc do tên tướng tự xưng là Phạ chẩu Tin Tòng tràn sang cướp phá miền biên giới giữa nước ta với Lào, sau đó kéo vào chiếm cứ đất Điện Biên; các chúa Lự không chống nổi phải chạy lên vùng Mường Lự (Bình Lư), Sìn Hồ, kết thúc 19 đời chúa Lự ngự trị ở đất Mường Thanh [2]. Đã nhiều lần các chúa Thái tập hợp lực lượng đánh lại nhưng không thắng nổi và bị giặc Pẻ tàn sát dã man; tất cả các thủ lĩnh và nghĩa quân cùng người thân ruột thịt đều bị chúng chặt đầu, đầu lâu mang xếp dưới chân thành Tam Vạn. Trước sự tàn ác của giặc Pẻ, thể theo nguyện vọng của các dân tộc Tây Bắc, Hoàng Công Chất từ Mường Ét (Xốp Ét), Mường Xằm (Sầm Nưa), Mường Xon, Mường Pở, Mường Cảu (nay là địa bàn tỉnh Hủa Phăn nước Lào) kéo quân vào đất Mường Thanh tiêu diệt giặc Pẻ giải phóng 31 Tây Bắc [9]. Ngay từ khi kéo quân vào đất Tây Bắc, Hoàng Công Chất chủ động liên kết với các thủ lĩnh dân tộc thiểu số người: Lự, Lào, Thái, Mường...; tiêu biểu nhất là hai thủ lĩnh dân tộc Thái: “Lò Ngải, Lò Khanh đánh giặc Pẻ cứu dân, bảo vệ miền biên giới tổ quốc” [7]. Được sự ủng hộ của các chúa Thái và các dân tộc giúp đỡ, nghĩa quân Hoàng Công Chất từ Sông Mã tiến lên bao vây thành Tam Vạn. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Giặc Pẻ không sao chống cự được, cuối cùng phải bỏ thành Tam Vạn chạy đến Pú Vằng (Khu đồi Độc Lập) hiện nay. Đến đây, giặc Pẻ đã huy động toàn bộ lực lượng và dùng các loại vũ khí lợi hại nhất lúc bấy giờ như: súng to châm mồi thuốc súng, bắn đạn chì gém tầm gần, nghĩa binh của Hoàng Công Chất bị thương vong rất nhiều, không sao tiến lên được. Lúc này giặc Pẻ lại bắt được Lò Thị Nương - vợ 4 của Hoàng Công Chất cùng con trai là Hoàng Công Trực (bà là con của một thủ lĩnh dân tộc Thái được Hoàng Công Chất quy phục, cảm phục tài đức nàng đã tự nguyện làm vợ thứ 4 của Ông); chúng trói hai người vào chiếc cột gỗ chôn giữa cánh đồng Tòng Khao, xung quanh chất củi cao ngập đầu. Nếu tướng Hoàng Công Chất muốn chuộc vợ, con thì phải mở cổng thành. Bằng không, chúng sẽ thiêu cháy. Từ dưới đồng, bà Lò Thị Nương thét to: “Không được mở cổng thành”. Lửa cháy ngùn ngụt. Hai mẹ con bà bị thiêu chết. Sau này khi phá tan được giặc Pẻ, xót thương người vợ hiền, Hoàng Công Chất cho trồng một cây đa trên mộ nàng. Nơi đây bốn mùa hoa nở, hoa vàng và hoa đỏ. Trong lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra hết sức quyết liệt, một số nghĩa binh của Hoàng Công Chất là người Lự, người Lào và hai tướng Lò Ngải, Lò Khanh hiến kế: cho một bộ phận người Lào, người Lự tới trước cửa thành của Phạ Chẩu Tin Tòng (tướng giặc Pẻ) xin hàng, chúng tin là thật nên nhận. Đêm đến, quân Hoàng Công Chất tiến đánh, được bộ phận trá hàng làm nội gián đánh ra nên quân của Ông thắng lớn, chém được Tin Tòng. Tàn quân giặc Pẻ phải ngược sông Nậm Nú và Nậm Rốm chạy sang Lào. Đuổi được giặc Pẻ, từ Mường Thanh, Hoàng Công Chất mang quân đi đánh chiếm lại miền Thập Châu thuộc An Tây xưa đã bị bọn quan lại Trung Quốc, tỉnh Vân Nam cướp đoạt từ trước, tức các châu: Chiêu tấn (vùng Sìn Hồ hiện nay): châu Quỳnh Nhai; Châu Lai (Mường Lay, Mường Tè, Mường Xo tức Phong Thổ hiện nay). Luân Châu (một phần huyện Tuần Giáo hiện nay và khu vực Mường Mùn) thuộc tỉnh Lai Châu (nay thuộc tỉnh Điện Biên) và các đất Quảng Lãnh, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm Châu nay thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Ông còn liên kết với nghĩa quân của Lê Duy Mật lúc đó lập căn cứ ở núi Trình Quang, thuộc tỉnh Trấn Ninh. Sử sách cũ chép có nhiều lần hai toán nghĩa quân này liên kết với nhau khống chế suốt một dải miền thượng Thanh Hoá, Nghệ An đến miền Hưng Hoá tức miền Tây Bắc ngày nay, Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật lại uy hiếp triều đình bằng những cuộc tập kích vào vùng sông Thao, mạn Sơn Tây. Hoàng Công Chất chiếm toàn bộ 12 Châu Thái, tức miền Sơn La, Nghĩa Lộ và Bắc Hoà Bình. Các tù trưởng Thái như: Bun Phanh, Hà Công Ứng và tù trưởng Mường như Đinh Công Hồ (Mường Bi) chống lại nhưng đều bị thua. Thế là toàn thể các chúa đất của cả một dải sông Đà, sông Thao, sông Mã đều thuần phục Hoàng Công Chất và không chịu 32 cống nạp về triều đình nữa. Trong khoảng thời gian từ 1754 - 1769, Mường Thanh trở thành khu trung tâm văn hóa, chính trị của đất Tây Bắc [2]. Như vậy, thể theo nguyện vọng của các dân tộc Tây Bắc, Hoàng Công Chất đã liên kết với các thủ lĩnh người dân tộc thiểu số: Thái, Lự, Lào... tiêu diệt giặc Pẻ giải phóng Tây Bắc; việc làm này chính là điều kiện đồng thời cũng là cơ sở nền tảng để xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc. 2.2. Hoàng Công Chất củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc và tính kế lâu dài ở Tây Bắc 2.2.1. Hoàng Công Chất củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc Để có thể án ngữ lâu dài ở Tây Bắc, Hoàng Công Chất một mặt ra sức củng cố lực lượng, tu sửa thành lũy để chống lại triều đình phong kiến dưới xuôi; một mặt không ngừng củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc. Lúc đầu Hoàng Công Chất chọn thành Tam Vạn làm nơi đóng đại bản doanh được người Lự xây dựng từ thế kỷ IX (tiếng Thái gọi là Xam Mứn). Sau đó, nhận thấy thành tuy rộng nhưng bố phòng sơ lược, không hợp với các loại vũ khí mới xuất hiện thời kỳ này như súng thần công, súng hỏa mai lại không hợp với việc phòng thủ từ mặt Lào sang cũng như từ dưới xuôi đánh lên, ông đã quyết định cho xây thành ở Chiềng Lề (tức thành Bản Phủ, thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện biên). Thành Bản Phủ rộng 80 mẫu, có vị trí lợi hại, dựa lưng vào sông Nậm Rốm, tiến thoái đều tiện lợi, có đường thành đắp bằng đất ngoài trồng tre gai mang từ xuôi lên (tre ngà), bên ngoài có hào sâu 10 mét, rộng 4-5 mét voi ngựa có thể đi trên mặt thành. Thành có 4 cửa: đông, tây, nam, bắc; ở mỗi cửa có đắp đồn cao, có vọng tiêu và lính gác. Trong thành có khu ngoại vi là nơi lính đóng. Trong thành Hoàng Công Chất còn cho quân lính đào 133 giếng và ao thuộc nhiều hình dạng khác nhau, mục đích để trữ nước cho nghĩa quân vào mùa khô. Hiện nay ở Điện Biên còn tìm thấy nhiều di tích của nơi nhà ở của quân lính, nơi làm xưởng sản xuất vũ khí, kho lương, nơi chăn ngựa, giữ voi. Gữa thành là phủ của thủ lĩnh Hoàng Công Chất và bộ tham mưu. Cho đến nay ở Điện Biên còn lưu truyền bài hát ca ngợi thành Bản Phủ: “Thành to, thành đẹp Thành vững đứng giữa cánh đồng Giặc nào chẳng khiếp vía Hào vây quanh thành sâu hơn mười sải Mặt thành rộng hai chục sải tay Ngựa phi, voi chạy, lính đứng gươm trần sáng loáng Chúa cưỡi ngựa đứng trên mặt thành uy nghiêm Nào ta hãy lấy tre về trồng cho khắp Tre Mường Thanh chúa bảo đừng lấy Hãy lấy tre có gai vàng như ngà Tận miền xuôi về trồng mới tốt Lấy hơn 40 ngàn khóm Bao quanh thành, thành vững, chúa yên lòng” [2] 33 Bộ máy chính quyền do Hoàng Công Chất xây dựng không giống với chính quyền phong kiến Trung ương dưới xuôi; trong bộ máy chính quyền của ông ngoài người Kinh còn có đông đảo các tù trưởng dân tộc thiểu số: Thái, Mường, Lào, Lự và Hoa Tất cả các thủ lĩnh đã liên kết cùng ông trong công cuộc tiễu trừ giặc Pẻ và trong quá trình thống nhất các châu, mường vùng Tây Bắc đều có mặt trong bộ máy lãnh đạo của Hoàng Công Chất đóng đô ở thành Bản Phủ. Mặc dù truyền thống cha truyền con nối vẫn được duy trì, nhưng ông có một quan niệm khác các vua nhà Lý, Trần, Lê ở chỗ: trong bộ máy chính quyền của ông người tài giỏi và có công được trọng dụng, cho dù người đó là ai và thuộc thành phần dân tộc gì ?; sau đó mới nói đến con cháu, anh em họ tộc. Trong Quam tô mương của người Thái vùng Mường Lay (Điện Biên) ca ngợi: “Then Chất lựa chọn người trung thành và tài giỏi tham gia cầm quân cai quản bản mường”; hoặc trong sách mo của người Lự vùng Điện Biên cũng có nói đến “Thiên Chất cho dân tiến cử người thạo việc ra làm thủ lĩnh cai quản bản mường”. Với quan niệm tiến bộ đó nên trong trong bộ máy chính quyền của Hoàng Công Chất từ trên xuống dưới có đầy đủ thành phần các dân tộc và đều “thạo việc”, được dân “kính nể” [9]. Để cai quản vùng Tây Bắc được hiệu quả và đủ sức chống lại các thế lực ngoại bang, Hoàng Công Chất cắt cử tướng lĩnh và phân bổ lực lượng án ngữ các vị trí hiểm yếu trong vùng Tây Bắc, đúng như sách Mo của người Lự có viết: “có người thu cống nạp, có người điều binh khi chiến trận, mọi việc được cắt cử uy nghiêm”; nhiều tù trưởng và quí tộc Thái, Mường, Lự, Lào... đã được Hoàng Công Chất ban cấp sắc phong và được giao cai quản các châu, mường. Quam tô mương của vùng Tạ Bú (Mường La) viết: “Chúa Thái Lò Ban được Then Chất giao cho cai quản suốt một vùng rộng lớn từ Mường Bú đến Mường Chiến giáp Mường Lò...” [9]. Cho đến nay dân tộc Thái vùng Tây Bắc còn lưu truyền một bài hát tự hào ca ngợi vị thủ lĩnh Hoàng Công Chất, trong đó có câu: “Dưới xuôi có vua Trên này có chúa Những miền từ Mường Puồn, châu Ét Từ Đà Bắc, chợ Bờ Lại phía trên từ chợ Xo, La trở xuống Tất cả đều quy phục chúa Mường Thanh... ... Chúa thật lòng yêu dân Chúa xây dựng bản Mường Mọi người mới được yên ổn làm ăn”[9] 2.2.2. Hoàng Công Chất xây dựng khối đoàn kết Kinh - Thượng Sau khi thống nhất Tây Bắc, Hoàng Công Chất đã làm nhiều điều tốt cho dân: định và thu cống nạp, chia ruộng đất, bảo vệ dân, chống được mọi cuộc xâm lấn, duy trì an ninh trật tự trong vùng, điều binh khi chiến trận, cắt cử, phong ấn, cấp sắc cho các tù trưởng và quí tộc trong vùng. Sách Phiết mương của Mương Muổi, Mường Mụa đều có nói đến: “...sản vật cống nạp cho Thiên Chất không đáng bao nhiêu...” và “...mọi người đều yêu mến Thiên Chất”. Hoặc ở vùng Điện 34 Biên, hiện còn lưu hành một số câu vè nói lên phạm vi thế lực của nghĩa quân Hoàng Công Chất và lòng yêu mến của nhân dân địa phương đối với ông: “Đây ! Nghe chăng tiếng hát của quân Keo Chất trong phủ Ngân vang khắp cánh đồng Mường Thanh bao la” [9]. Vào dịp xuống đồng, Hoàng Công Chất thường đi kiểm tra sản xuất và nắm bắt tình hình dân bản trong vùng, nhất là quan hệ giữa “quân của Thiên Chất với dân trong các bản mường”. Đặc biệt, để xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc, Hoàng Công Chất “khuyến khích mọi người tôn trọng phong tục của nhau” và “khuyên nhủ thanh niên nam, nữ kết duyên vợ chồng” [9]; những việc làm trái với đạo lý, phong tục tập quán của các dân tộc và đặc biệt những kẻ làm ảnh hưởng đến khối đoàn kết Kinh – Thượng đều bị Hoàng Công Chất nghiêm trị. Sách Quam tô mương của Mương Muổi (Thuận Châu) có nói đến hình phạt những kẻ làm “tổn hại đến uy danh của Thiên Chất”. Có thể nói, tất cả những việc làm của Hoàng Công Chất đã đáp ứng đúng được nguyện vọng của các dân tộc và thực tế cuộc sống yên bình của đồng bào các dân tộc Tây Bắc dưới thời trị vì của “Thiên Chất” đã làm cho đồng bào thực sự tin yêu, cảm phục Ông. Sau này khi nghĩa quân bị đàn áp, Hoàng Công Chất bị quan quân triều đình trả thù hèn hạ; với lòng cảm phục, nhân dân trong vùng đã đùm bọc tìm cách cất dấu thi hài Ông, lập đền thờ và thể theo nguyện vọng của Ông khi còn sống đã cho trồng cây đa, đề, si trong khu đền thờ để thể hiện tình đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc và đoàn kết Kinh-Thương [8]. Trước đây, trong các lễ hội được tổ chức bao giờ cũng có màn diễn tả lại cảnh Hoàng Công Chất uy nghiêm dẫn đầu đoàn quân đi đánh giặc Pẻ giải phóng Tây Bắc và cảnh các dân tộc Kinh, Thái, Lào, Lự, Mường mở hội xòe “đoàn kết tay trong tay mừng chiến thắng giữa ánh lửa bập bùng thâu đêm” [9]. 3. Kết luận Có được sự đoàn kết giữa các dân tộc và cuộc sống yên bình ở Tây Bắc như hôm nay là kết quả của cả một quá trình gây dựng qua nhiều thế hệ, trong đó người đầu tiên đặt nền móng và cũng là người có công lao to lớn đối với việc củng cố, xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc chính là Hoàng Công Chất. Công lao, đóng góp của Hoàng Công Chất không chỉ góp phần củng cố, xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Bắc và đoàn kết Kinh - Thượng mà còn để lại cho dân tộc ta nhiều bài học kinh nghiệm quí báu, nhất là trong việc hoàn thiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] (1987) Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, tr.392 [2] Đinh Xuân Lâm (1979): “Điện Biên trong lịch sử”. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 35 [3] Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (2000): “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”. NXB Giáo dục, Hà Nội. [4] Nguyễn Quang Ngọc (2006): “Tiến trình Lịch sử Việt Nam”. NXB Giáo Dục Hà Nội. [5] Nguyễn Phan Quang (1996): “Phong trào nông dân và các dân tộc miền núi dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX: Tóm tắt luận án Phó tiến sỹ Lịch sử”; Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Tài liệu lưu tại Thư viện Đại học sư phạm Hà Nội. [6] Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001): “Đại cương lịch sử Việt Nam”. Toàn tập. NXB GD. HN. [7] Sách Mo của người Lự, Sách Mo của người Mường. Tài liệu lưu tại Sở văn hóa tỉnh Điện Biên. [8] Quam tô mương của Mường Quày (Bản chữ Thái) [9] Kinh Chất đánh giặc ở Lào (Keo Chất tặp xớc nẳng Mương Lao). Bản tiếng Thái, sưu tầm năm 1963 ở Sông Mã. HOANG CONG CHAT AND HIS EFFORTS OF ESTABLISHING THE SOLIDARITY AMONG ETHNIC GROUPS IN THE NORTHWESTERN AREA IN VIETNAM (1751- 1769) Pham Van Luc Faculty of History and Geography, TayBac University Abstract: The article mentions HoangCongChat’s process of uprising, expelling Phe invaders to liberate the Northwestern border region. It also discusses his contribution to strengthen the unity among ethnic groups in the Northwest of Vietnam (1751-1769). Keywords: Hoang Cong Chat, the solidarity of Kinh – Thuong
File đính kèm:
- hoang_cong_chat_voi_viec_xay_dung_khoi_doan_ket_giua_cac_dan.pdf