Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức yêu nước cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1924 – 1930

Trong tiến trình phát triển của lịch sử, sự

hưng thịnh của bất kỳ quốc gia nào cũng phải

dựa vào trí tuệ của muôn dân, trong đó trí tuệ

của người trí thức đóng một vai trò quan trọng

và đã để lại những dấu ấn đậm nét. Hồ Chí

Minh sinh thời đã sớm khẳng định vai trò quan

trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng.

Người không chỉ quý trọng trí thức trên phương

diện nhận thức về vị trí, vai trò của họ mà

bằng nhiều hành động cụ thể, Người đã cố

gắng xây dựng, tổ chức, đào tạo một đội ngũ

trí thức ngày càng hùng hậu, trở thành lực

lượng cách mạng tiên phong của dân tộc, nhất

là trong giai đoạn 1924 – 1930.

pdf 8 trang kimcuc 7360
Bạn đang xem tài liệu "Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức yêu nước cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1924 – 1930", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức yêu nước cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1924 – 1930

Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức yêu nước cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1924 – 1930
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
207 
HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ 
TRÍ THỨC YÊU NƯỚC CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN 1924 – 1930 
ThS. Nguyễn Thị Thu Trang 
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt 
Trong tiến trình phát triển của lịch sử, sự 
hưng thịnh của bất kỳ quốc gia nào cũng phải 
dựa vào trí tuệ của muôn dân, trong đó trí tuệ 
của người trí thức đóng một vai trò quan trọng 
và đã để lại những dấu ấn đậm nét. Hồ Chí 
Minh sinh thời đã sớm khẳng định vai trò quan 
trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng. 
Người không chỉ quý trọng trí thức trên phương 
diện nhận thức về vị trí, vai trò của họ mà 
bằng nhiều hành động cụ thể, Người đã cố 
gắng xây dựng, tổ chức, đào tạo một đội ngũ 
trí thức ngày càng hùng hậu, trở thành lực 
lượng cách mạng tiên phong của dân tộc, nhất 
là trong giai đoạn 1924 – 1930. 
Từ khóa 
Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc, trí thức, 
thanh niên, đào tạo, bồi dưỡng. 
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về trí 
thức 
Trí thức là từ có nguồn gốc từ tiếng 
Pháp: intellectuel, xuất hiện vào cuối thế 
kỷ 19 được dùng để chỉ một tầng lớp công 
dân ở Pháp là những người không chỉ có 
trình độ học vấn và chuyên môn cao mà 
còn phải có chính kiến trước những vấn đề 
chính trị xã hội lúc bấy giờ. Từ khi xuất 
hiện cho đến nay, đã có rất nhiều cách 
định nghĩa khác nhau về trí thức. Trước 
Hồ Chí Minh, Lênin – người lãnh đạo vĩ đại 
của giai cấp công nhân và nhân dân lao 
động thế giới đã cho rằng trí thức chính là 
niềm tự hào vĩ đại của nhân loại. Trí thức 
không phải là giai cấp, mà chỉ "là một 
tầng lớp đặc biệt" trong xã hội. Do đặc 
điểm lao động của mình, tầng lớp trí thức 
luôn phải gắn với những giai cấp nhất định 
và thường là giai cấp thống trị. 
Kế thừa các quan điểm trước đó, trải 
qua quá trình học tập và nghiên cứu, 
trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc 
(1947), Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm 
về trí thức như sau: “Trí thức là hiểu biết. 
Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: 
một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. 
Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là 
hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu 
xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. 
Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào 
khác. Một người học xong đại học, có thể 
gọi là trí thức. Song y không biết cày 
ruộng, không biết làm công, không biết 
đánh giặc, không biết làm nhiều việc 
khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y 
không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức 
một nửa. Trí thức của y là trí thức học 
sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y 
muốn thành một người trí thức toàn toàn, 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
208 
thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào 
thực tế [1]. 
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò, vị 
trí của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp 
cách mạng giải phóng và công cuộc xây 
dựng đất nước, là một bộ phận quan trọng 
trong lực lượng cách mạng. Trong Cương 
lĩnh đầu tiên của Đảng, Người đã chỉ rõ 
Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, 
trí thức, trung nông, Thanh niên và Tân 
Việt, v.v... để kéo họ đi vào phe giai cấp 
vô sản, bởi lẽ không có trí thức hợp tác 
với công nông thì sự nghiệp cách mạng 
không thể thành công. Đây là mối quan 
hệ ràng buộc lẫn nhau, tác động vào 
nhau, bổ sung cho nhau, tạo thành sức 
mạnh công – nông – trí. 
Chính vì đánh giá cao vai trò của trí 
thức nên Hồ Chí Minh rất quan tâm tới 
công tác đào tạo cán bộ trí thức có văn 
hoá, có lối sống lành mạnh, những người 
có đủ cả tài đức và coi vấn đề huấn luyện, 
đào tạo cán bộ là công việc rất lớn, rất 
quan trọng của Đảng và Nhà nước. Người 
khẳng đinh: “Đảng và Chính phủ biết 
kháng chiến và kiến quốc thì phải cần 
trong mọi ngành: kinh tế tài chính, quân 
sự, văn hóa có những người trí thức để 
giúp vào mới thành”[2]. Đảng và Chính 
phủ phải biết tôn vinh trí thức và trí thức 
phải biết tôn trọng Đảng, Chính phủ, tôn 
trọng nhân dân lao động. 
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những 
khuyết điểm mà trí thức còn mắc phải là 
cá nhân chủ nghĩa, không kiên quyết, 
bàng quang, óc bảo thủ. Người phân tích: 
“Tính bảo thủ tức là không có sáng kiến. 
Trước thế nào là sau cứ làm thế. Không 
có chịu suy nghĩ ra cái mới. Nghĩ đến cái 
mới là ngại, không muốn tiến bộ”[3]. Vì 
vậy mà Người yêu cầu người trí thức 
ngoài tài năng ra thì phải có cuộc sống 
lành mạnh, có đạo đức và tư cách tốt, 
phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện 
đạo đức cách mạng. 
Có thể nói quan điểm của Hồ Chí 
Minh về trí thức là những luận điểm hết 
sức quan trọng để Đảng ta sau này áp 
dụng vào trong chính sách đối với trí 
thức, sử dụng nhân tài cho sự phát triển 
đất nước. 
2. Những tiền đề đầu tiên cho việc 
đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị lực lượng 
cho cách mạng Việt Nam của Hồ Chí 
Minh 
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đất 
nước ta đắm chìm trong đêm trường nô 
lệ. Trước tình cảnh ấy, nhân dân ta đã 
phát huy truyền thống yêu nước từ bao 
đời để đứng dậy tiến hành nhiều cuộc 
đấu tranh chống thực dân Pháp và bè lũ 
tay sai nhưng đều thất bại. Nhiều chí sĩ 
yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu 
Trinh đã xuất dương tìm đường cứu nước 
nhưng vẫn không tìm ra được một con 
đường mang lại hiệu quả đích thực. Trước 
tình hình đó, ngày 5/6/1911, chàng 
thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành đã rời 
Tổ quốc để ra nước ngoài tìm đường cứu 
nước cứu dân. 
Sự thất bại của các phong trào yêu 
nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế 
kỷ XX đã giúp cho Người rút ra kết luận 
rằng muốn làm cách mạng thắng lợi thì 
phải có lý luận dẫn đường, không thể làm 
liều, làm ẩu, làm nhanh một sớm một 
chiều là có thể thành công được. Vì vậy 
năm 1917, ngay khi trở lại Pháp, Người 
đã có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà văn 
hóa, trí thức, tham gia các cuộc sinh hoạt 
chính trị sôi nổi. Với nhiệt huyết của tuổi 
thanh niên, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập 
ra “Nhóm những người Việt Nam yêu 
nước” tại Pháp. Thành viên của nhóm hầu 
hết là thanh niên công nhân, binh lính, trí 
thức, sinh viên. Do công tác tuyên 
truyền, tổ chức của nhóm được tiến hành 
tích cực nên cơ sở của nhóm phát triển 
khá mạnh. 
Trải qua quá trình hoạt động không 
mệt mỏi, uy tín của Người bắt đầu hình 
thành từ năm 1919 với Bản Yêu sách của 
nhân dân An Nam gửi đến hội nghị 
Vecxai đòi chính phủ Pháp phải thừa 
nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền 
bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Với bản 
yêu sách này, Nguyễn Ái Quốc đã gây 
tiếng vang lớn không những trong dư 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
209 
luận xã hội nước Pháp mà còn dội mạnh 
về trong nước, tạo nên một bước chuyển 
mới trong phong trào giải phóng dân 
tộc. Cùng với đó là những hoạt động 
chính trị hết sức sôi nổi càng làm cho 
tên tuổi của Người lan truyền nhanh 
chóng, đặc biệt là ở các nước thuộc địa 
và phụ thuộc. Ở trong nước, nhiều thanh 
niên trí thức còn trăn trở với vận nước 
đã được khích lệ, thôi thúc họ ra nước 
ngoài tìm Nguyễn Ái Quốc. 
Năm 1920 đánh dấu một bước phát 
triển mới trong tư tưởng của Nguyễn Ái 
Quốc khi Người đọc được bản sơ thảo lần 
thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc 
và vấn đề thuộc địa của Lênin. Luận 
cương của Lênin đã chỉ cho Người con 
đường giải phóng dân tộc, mở đầu cho 
một sự chuyển biến cách mạng thực sự 
trong lịch sử tư tưởng nước ta. Sau đó 
tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở 
Tua (12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ 
phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 
III, và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản 
Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt 
lớn trong hoạt động của Người, từ chủ 
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - 
Lênin và đi theo con đường cách mạng 
vô sản. Tháng 6/1923, khi rời nước Pháp 
sang Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã để lại 
cho những người bạn chiến đấu của 
mình trong Hội Liên hiệp thuộc địa và 
Tòa soạn báo Le Paria một lá thư thắm 
tình đồng đội, chan chứa sự đồng cảm 
của những người cùng cảnh ngộ và bày 
tỏ ý định của Người: 
“Chúng ta phải làm gì? Đối với tôi 
câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào 
quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, 
đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra 
đấu tranh giành tự do, độc lập” [4]. 
Tại Liên Xô, một mặt Người thường 
xuyên tham gia các đại hội và hội nghị 
quốc tế nhằm thu hút sự quan tâm của dư 
luận đối với phong trào đấu tranh ở các 
nước thuộc địa. Mặt khác Người còn tìm 
hiểu, nghiên cứu hệ thống giáo dục ở đây 
lúc bấy giờ và tìm khả năng cử người Việt 
Nam sang đây học tập. Có thể thấy 
Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm đã chuẩn bị 
cho việc gửi cán bộ cách mạng Việt Nam 
sang đào tạo tại Liên Xô. 
Như vậy từ nhận thức muốn cứu 
nước cứu dân, không còn con đường nào 
khác ngoài con đường cách mạng vô sản, 
Nguyễn Ái Quốc đã ra sức chuẩn bị mọi 
mặt cho việc thành lập một chính Đảng vô 
sản ở Việt Nam. Mà muốn như vậy thì việc 
đầu tiên là phải xây dựng được một lực 
lượng cách mạng. Vì vậy Người đã quan 
tâm, phát hiện những thanh niên trí thức 
Việt Nam có tinh thần yêu nước đang sống 
và làm việc trong nước và đưa đi đào tạo, 
bồi dưỡng họ thành lực lượng cách mạng 
tiên phong. 
3. Hồ Chí Minh và việc đào tạo, bồi 
dưỡng đội ngũ trí thức yêu nước cho 
cách mạng Việt Nam giai đoạn 1924 – 
1930 
Sau khi xem xét những điều kiện 
khó khăn và thuận lợi, tháng 11/1924, với 
danh nghĩa là phái viên của Quốc tế Cộng 
sản, Nguyễn Ái Quốc đã từ nước Nga đến 
Quảng Châu (Trung Quốc) và chọn nơi 
đây làm đầu cầu cho cách mạng Việt 
Nam, là nơi mở đầu cho việc tiến hành 
đào tạo lực lượng thanh niên trí thức yêu 
nước và chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ 
chức cho sự ra đời của một Đảng cách 
mạng chân chính ở Việt Nam, gây dựng cơ 
sở cho cách mạng vùng Đông Nam Á và 
Châu Á và chỉ đạo phong trào cách mạng 
trong nước. 
Ngay sau khi đến Quảng Châu 
(Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến 
một tổ chức của những người yêu nước 
Việt Nam là Tâm Tâm xã lúc bấy giờ đang 
băn khoăn trước các ngả đường cứu nước 
khác nhau. Đây là cơ hội và là mảnh đất 
tốt để Nguyễn Ái Quốc gieo mầm lý luận 
cách mạng. Có thể nói từ tháng 12/1924 
đến tháng 2/1925 là thời gian Nguyễn Ái 
Quốc làm việc mật thiết với nhóm thanh 
niên trong tổ chức này. 
Tâm Tâm xã là tổ chức của trí thức 
tiểu tư sản yêu nước tiến bộ được thành 
lập năm 1923 do một nhóm thanh niên 
gồm 7 người Việt Nam xuất dương sang 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
210 
Trung Quốc. Mặc dù mục đích, tôn chỉ và 
lập trường tư tưởng của Tâm Tâm xã có 
bước phát triển hơn nhưng nhìn chung 
vẫn còn sự mơ hồ về giai cấp và còn 
chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư 
sản. Tiếng bom Sa Diện (1924) và sự hi 
sinh của Phạm Hồng Thái (1895-1924) 
là một biểu hiện cụ thể nhất của tổ chức 
này. Qua sự kiện trên đã thể hiện tính 
chất manh động trong nhận thức và 
hành động nhất thời của tầng lớp trí 
thức tiểu tư sản. 
Vì vậy cùng với việc tìm hiểu hoạt 
động, bày tỏ sự khâm phục tinh thần yêu 
nước của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Ái 
Quốc đã thẳng thắn nhận xét, nêu lên sai 
sót trong nhận thức, hành động của 
nhóm. Sau đó Người đã tiến hành những 
lớp bồi dưỡng nhỏ, giới thiệu về Cách 
mạng tháng Mười Nga, về Quốc tế Cộng 
sản, về chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa 
đến kết luận cách mạng muốn thành 
công phải dựa vào nhân dân, đặc biệt là 
công nhân và nông dân, phải có Đảng 
tiên phong lãnh đạo. Với lý luận sắc bén, 
phong phú, cởi mở, Người đã tạo niềm tin 
mạnh mẽ và đưa dần họ đến với chân lý 
cách mạng. 
Chính từ Tâm Tâm xã đã cung cấp 
cho cách mạng Việt Nam những người 
chiến sĩ cộng sản đầu tiên và xuất sắc như 
Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng 
Mậu, Trong bản báo cáo đầu tiên cho 
Chủ tịch đoàn Quốc tế Cộng sản ngày 
18/12/1924, Nguyễn Ái Quốc đã viết: 
“Sau khi đã tán thành kế hoạch này, ông 
đã đưa cho tôi một bản danh sách 10 
người An Nam đã cùng ông hoạt động. Tôi 
đã chọn 5 người quê ở 5 tỉnh khác nhau. 
Chúng tôi sẽ cử một người An Nam đưa họ 
tới Quảng Châu. Tôi sẽ huấn luyện cho họ 
về phương pháp tổ chức. Chúng tôi sẽ gửi 
họ trở về Đông Dương hoạt động sau 3 
tháng học tập; và chúng tôi sẽ lấy ra một 
đoàn khác. Trong lúc này, đây là biện 
pháp duy nhất” [5]. 
Như vậy từ cuối năm 1924, Nguyễn 
Ái Quốc đã tìm được lực lượng để gieo 
mầm cách mạng, đó là những thanh niên 
có lòng yêu nước, hăng hái cách mạng, có 
học thức, nhạy cảm với cái mới, từ đó 
hình thành tổ chức tiền thân của Đảng 
Cộng sản Việt Nam. 
Tháng 2/1925, từ lớp huấn luyện 
về công tác tổ chức và tuyên truyền, 
Nguyễn Ái Quốc đã chọn ra chín người 
tích cực nhất lập ra một nhóm bí mật 
làm hạt nhân cho tổ chức rộng lớn sau 
này lấy tên là Cộng sản Đoàn. Trong báo 
cáo gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản 
đề ngày 19/2/1925, Nguyễn Ái Quốc đã 
viết: “Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật 
gồm 9 đội viên trong đó: 2 người được 
phái về nước; 3 ngưởi ở tiền tuyến 
(trong quân đội của Tôn Dật Tiên); 1 
người đang đi công tác quân sự (cho 
Quốc dân Đảng). Trong số hội viên đó có 
5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng 
Cộng sản” [6]. 
Có thể nói con đường truyền bá tư 
tưởng giải phóng dân tộc theo chủ 
nghĩa Mác - Lênin vào giai cấp công 
nhân và nhân dân yêu nước Việt Nam 
mà Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện lúc đó 
là dựa vào thanh niên, lớp người trẻ 
tuổi có lòng yêu nước, căm thù giặc, 
hăng hái, có học thức, được học tập lý 
luận cách mạng do chính Người đào tạo. 
Sự ra đời của nhóm Cộng sản Đoàn này 
tuy còn quá nhỏ bé nhưng nó đã đánh 
dấu thời điểm khai sinh ra một thế hệ 
thanh niên trí thức mới theo xu hướng 
Cộng sản chủ nghĩa. 
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc lập 
ra tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh 
niên và cho ra đời tờ báo Thanh niên làm 
cơ quan ngôn luận của tổ chức. Thông qua 
tổ chức này, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp 
được những người Việt Nam yêu nước tiêu 
biểu nhất, làm cơ sở cho một tổ chức 
đảng lớn hơn. Cùng với đó, Người gấp rút 
đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt cho 
phong trào cách mạng, tiến hành tuyên 
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin trong quần 
chúng nhân dân. Cuối năm 1925, Người 
mở trường huấn luyện chính trị tại trụ sở 
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên 
ở số nhà 13 và 13B đường Văn Minh, 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
211 
Quảng Châu mà Người là giảng viên 
chính. Ngoài ra còn có hai giáo viên phụ 
giảng là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. 
Các giáo viên Liên Xô ở trường Quân chính 
Hoàng Phố như V.K.Bluikhe, B.A.Páplốp, 
M.V.Quybưsép, cũng đến giảng bài cho 
các lớp huấn luyện. 
Mục đích học tập của các lớp chính 
trị này là học làm cách mạng, học cách 
hoạt động bí mật. Học xong họ lại bí mật 
về nước truyền bá lý luận giải phóng dân 
tộc và tổ chức nhân dân. Học viên tuy là 
những người có trình độ văn hóa nhưng 
còn hết sức bỡ ngỡ với biết bao khái niệm 
chính trị, triết học... mà họ chưa hề biết 
đến. Tất cả những điều mới mẻ trên có 
sức hấp dẫn kỳ lạ đối với lớp thanh niên 
đang khát khao lý tưởng, khát khao tìm 
đường cứu nước, cứu dân. 
Chương trình học tập của lớp huấn 
luyện khá rộng, bao gồm cả lý thuyết 
lẫn thực hành. Qua chương trình huấn 
luyện, học viên được vũ trang cả về lý 
luận cách mạng vô sản và phương pháp 
cách mạng; hiểu thêm về lịch sử tiến 
hoá của nhân loại, đặc biệt là thời kỳ 
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc; 
về phong trào cách mạng giải phóng dân 
tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc; 
những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Tam 
dân Tôn Dật Tiên, học thuyết chủ nghĩa 
Mác – Lênin, lịch sử Cách mạng tháng 
Mười Nga; lịch sử ba Quốc tế; về nguyên 
tắc hoạt động bí mật; về kỹ năng thực 
hành công tác vận động và tổ chức quần 
chúng, kỹ năng thực hiện các công việc 
cách mạng như làm báo, diễn thuyết, 
v.v... Trong những môn học được nghiên 
cứu ở lớp huấn luyện thì những vấn đề 
cách mạng Việt Nam được nghiên cứu kỹ 
hơn cả, ví dụ như cách mạng Việt Nam 
mang tính chất gì, giai cấp nào có thể 
tham gia tích cực vào cuộc cách mạng 
ấy, v.v 
Trong phương pháp vận động cách 
mạng, Hồ Chí Minh nêu phương pháp để 
vận động công nhân, nông dân, trí thức 
và các tầng lớp khác. Đối với trí thức thì 
Người nhấn mạnh đến vai trò, đặc điểm 
của trí thức Việt Nam và cách sử dụng 
trí thức như thế nào cho hiệu quả. Ngoài 
ra trong những bài giảng của mình, 
Nguyễn Ái Quốc thường có những ví dụ 
cụ thể, đưa ra những số liệu để làm sáng 
tỏ những vấn đề lý luận phức tạp, so 
sánh với tình hình thực tế giúp cho học 
viên có thể tiếp thu nhanh, dễ hiểu và 
nhớ lâu. Người thường khuyên các học 
viên cần phải đặc biệt chú ý đến ý nghĩa 
của số liệu. Đó là số liệu chứng minh tốt 
nhất. Từ tư liệu sẽ toát lên thực trạng 
của sự vật. Người nói: “Người cách mạng 
phải luôn luôn nắm được tình hình chính 
trị nóng nổi. Hãy đọc báo nhiều hơn nữa, 
vì rằng báo chí chứa đựng bản thân cuộc 
sống. Và như vậy, các đồng chí sẽ hiểu 
được tình hình một cách tốt hơn”[7]. 
Người còn thường xuyên đến dự những 
buổi thảo luận, diễn đàn của học viên để 
nắm vững tình hình học tập của họ, từ 
đó có kế hoạch đào tạo đúng đắn, khắc 
phục những thiếu sót, giúp cho việc học 
có hiệu quả hơn. Kết quả tổng số học 
viên cho đến tháng 4/1927 là 10 lớp với 
khoảng hơn 250 học viên. 
Tiếp đến, Người đưa thanh niên về 
trong nước thực hiện cùng một lúc hai 
nhiệm vụ là xây dựng một hệ thống tổ 
chức cách mạng từ chi bộ lên kỳ bộ trên 
toàn quốc và lực chọn những thanh niên 
trí thức yêu nước sang Quảng Châu dự các 
lớp huấn luyện chính trị. Cụ thể với sự 
phân công của Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn 
Công Thu và Nguyễn Danh Thọ về Bắc 
hoạt động; Trần Phú, Phan Trọng Quảng 
và Nguyễn Ngọc Ba về Trung; Phan Trọng 
Bình và Nguyễn Văn Lợi về Nam, v.v... Với 
sự nỗ lực của những người tiên phong, 
đến những tháng đầu năm 1927, một hệ 
thống tổ chức Cách mạng Thanh niên 
được phủ khắp đất nước, nhịp độ và quy 
mô thanh niên trong nước bí mật sang 
Quảng Châu học ngày một tăng. Riêng ở 
Bắc kỳ và Trung kỳ, trong năm 1926 và 
đầu năm 1927 đã có khoảng 180 người 
sang theo học, từ đó mở ra triển vọng lớn 
trong việc đào tạo đội ngũ những người 
tuyên truyền và những người tổ chức, và 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
212 
bước đầu thực hiện có kết quả kế hoạch 
mà Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra. 
Có thể nói những thế hệ thanh niên 
đầu tiên được Nguyễn Ái Quốc đào tạo đã 
trở thành những chiến sĩ Cộng sản ra sức 
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt 
Nam, đẩy lùi các khuynh hướng cải lương 
và dân tộc hẹp hòi của các Đảng phái tư 
sản và tiểu tư sản, đấu tranh chống lại 
các khuynh hướng tả và hữu, làm cho 
chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vị trí chủ đạo 
trong phong trào cách mạng. Lần đầu 
tiên họ đã lăn lộn vào phong trào quần 
chúng, tổ chức, cổ vũ quần chúng đấu 
tranh với địch đòi quyền dân sinh, dân 
chủ, giác ngộ quần chúng công nông, 
chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập tổ 
chức tiền thân của Đảng. Như vậy từ lớp 
huấn luyện này đã đào tạo nên một đội 
ngũ hùng hậu các nhà cách mạng chuyên 
nghiệp cống hiến suốt cuộc đời cho cuộc 
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng 
xã hội. Được thế, có thể nói trước hết 
nhờ tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ 
Nguyễn Ái Quốc. 
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc 
tại lớp huấn luyện chính trị còn được 
tập hợp và in thành sách với tên gọi là 
Đường Kách mệnh (1927). Tác phẩm đã 
trở thành vũ khí chiến đấu của những 
người cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. 
Trong đó bài học đầu tiên là tư cách của 
một người cách mạng trong ba mối 
quan hệ: đối với bản thân, đối với người 
và đối với công việc. Người đề ra yêu 
cầu đối với người cách mạng là “tự mình 
phải cần kiệm. Hoà mình không tư. Cả 
quyết sữa lỗi của mình. Cẩn thận mà 
không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại 
(chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị 
công vong tư. Không hiếu danh, không 
kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ 
nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham 
muốn về vật chất. Bí mật” [8]. Đây là 
những tư chất cần phải có, phải thường 
xuyên tu dưỡng, rèn luyện nếu muốn 
trở thành một người cán bộ cách mạng 
chân chính. 
Như vậy sự ra đời của tác phẩm là 
một bài học hết sức có ý nghĩa đối với đội 
ngũ thanh niên trí thức lúc bấy giờ chưa 
trải qua nhiều thử thách. Tác phẩm không 
chỉ nêu lên những vấn đề thuộc chủ nghĩa, 
đường lối, sách lược mà còn hướng dẫn 
công việc tổ chức, tuyên truyền rất cụ thể 
để mỗi học viên sau khi học xong có thể 
bắt tay thực hành. 
Đồng thời với việc mở lớp huấn 
luyện chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã sử 
dụng một phương thức đào tạo khác là 
lựa chọn và cử học sinh đi học tại trường 
đại học Phương Đông và các trường khác 
trên đất nước Xô Viết nhằm tranh thủ 
thời gian đào tạo được đội ngũ cán bộ đa 
dạng, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong 
nước và tạo được mối quan hệ quốc tế 
giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng 
thế giới. 
Ngày 25/6/1927, Nguyễn Ái Quốc đã 
gửi thư tới chi bộ Đảng trường đại học 
Matxcơva, yêu cầu nhà trường chăm lo 
việc đào tạo, giáo dục cách mạng cho 
nhóm trí thức Việt Nam đang học tại 
trường, nhóm trí thức cách mạng đầu tiên 
theo học tại một trường đại học nổi tiếng 
của châu Âu lúc bấy giờ. Trong thời gian 
từ 1924 đến 1929, Nguyễn Ái Quốc đã gửi 
hơn 30 thanh niên Việt Nam sang đào tạo 
ở trường đại học Phương Đông (Liên Xô), 
trong đó có Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà 
Huy Tập, Lý Tự Trọng, Phạm Văn Đồng, 
v.v Ngoài ra Người cũng rất quan tâm tới 
tình hình học tập, sinh hoạt của nhóm 
thanh niên trí thức này. Trong thư gửi chi 
bộ Đảng trường đại học Phương Đông, 
Người viết: “Vì các đồng chí đó đều là sinh 
viên trường các đồng chí và để cho họ có 
thể học cách làm việc, chúng tôi yêu cầu 
chi bộ đồng chí chỉ định một hay hai đồng 
chí chăm lo việc giáo dục cộng sản cho 
nhóm đó, để đào tạo các đồng chí đó theo 
sinh hoạt của Đảng”[9]. Như vậy, Nguyễn 
Ái Quốc ngay từ đầu đã có ý thức chuẩn bị 
cho cuộc cách mạng tương lai một đội ngũ 
lực lượng gồm những người trẻ tuổi, đầy 
nhiệt huyết đó. 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
213 
Ngoài việc gửi đi đào tạo cán bộ 
chính trị, Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm đã 
chuẩn bị cho cách mạng một đội ngũ 
cán bộ quân sự. Người đã gửi nhiều 
thanh niên Việt Nam theo học trường 
Quân sự Hoàng Phố của Tôn Trung Sơn 
dưới sự huấn luyện của các chuyên gia 
quân sự Xô Viết. Trong 5 khoá, nhiều 
cán bộ đã tốt nghiệp, trong số đó tiêu 
biểu có Nguyễn Sơn, Phùng Chí Kiên, Lê 
Quảng Đạt, Đỗ Huy Liêm, Nguyễn 
Tường Loan, Lê Thiết Hùng, v.v Như 
vậy lần đầu tiên, những thanh niên yêu 
nước Việt Nam đã tiếp thu những kiến 
thức cơ bản về nghệ thuật quân sự, về 
chiến tranh hiện đại, nắm vững những 
nguyên tắc cơ bản về tổ chức quân đội 
và kinh nghiệm tác chiến trong mọi điều 
kiện hoàn cảnh khác nhau. Hơn ai hết 
những học viên này hiểu rằng để giành 
lấy chính quyền về tay công nông, phải 
cầm vũ khí chiến đấu và chỉ có tri thức 
quân sự mới giúp cho họ bảo vệ được 
thù trong giặc ngoài. Vì vậy mà họ đã 
học hành hết sức nghiêm túc, chăm chỉ, 
cần cù. 
Ngoài ra trong quá trình học tại 
đây, các học viên Việt Nam còn tham gia 
hoạt động trực tiếp và đóng góp vào 
công cuộc giải phóng của nhân dân 
Trung Quốc. Đây là điều kiện thuận lợi 
để họ có thể vận dụng sáng tạo những 
điều đã học ở trường vào thực tiễn, đồng 
thời làm giàu thêm tri thức và kinh 
nghiệm quân sự của mình. Có thể kể ra 
như Phùng Chí Kiên trở thành đại đội 
trưởng Hồng quân, Nguyễn Sơn công tác 
ở Xô Viết Trung ương, sau này được cả 
Việt Nam và Trung Quốc phong tướng, 
trở thành Lưỡng quốc tướng quân, đồng 
chí Lê Hồng Phong gia nhập Đảng Cộng 
sản Trung Quốc. 
Có thể thấy trong giai đoạn này, 
lực lượng thanh niên trí thức yêu nước 
chính là chỗ dựa cơ bản, chủ yếu của 
Nguyễn Ái Quốc trong quá trình đưa chủ 
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Trước 
Nguyễn Ái Quốc, các lãnh tụ của phong 
trào cách mạng chỉ nhìn nhận và sử 
dụng thanh niên như một phương tiện 
để đạt tới mục đích của mình. Nhưng với 
Nguyễn Ái Quốc thì trong toàn bộ hoạt 
động cách mạng của mình, Người hoàn 
toàn và thực sự đặt sự tin cậy vào lớp 
người trẻ tuổi, đặc biệt là lớp thanh 
nhiên trí thức yêu nước. Người thu hút 
lực lượng trẻ, giáo dục họ, dìu dắt họ, 
thử thách họ qua công việc và cuối cùng 
trao cho họ những trọng trách trong các 
tổ chức cách mạng, góp phần quan trọng 
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt 
Nam đầu năm 1930. 
Thế giới hiện nay đang chuyển từ 
kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri 
thức, đó là quá trình chuyển đổi từ nền 
kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài 
nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ 
yếu dựa vào tri thức con người. Do vậy 
đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa 
quyết định đối với sự phát triển của mỗi 
quốc gia, dân tộc. Kế thừa quan điểm 
của Hồ Chí Minh, năm 2008, lần đầu tiên 
Đảng ta ban hành Nghị quyết số 27-
NQ/TW về trí thức, trong đó khẳng định: 
“Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động 
sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến 
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, 
xây dựng kinh tế tri thức, phát triển văn 
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc 
dân tộc”[10]. Nếu như trong thời đại Hồ 
Chí Minh, nhiệm vụ chính của đội ngũ 
thanh niên trí thức là chiến đấu cho lý 
tưởng cách mạng chân chính thì trong 
giai đoạn hiện nay đó còn là nhiệm vụ 
xây dựng và phát triển đất nước. Muốn 
như vậy thì khâu đào tạo, bồi dưỡng đội 
ngũ trí thức trẻ của Đảng và Nhà nước 
ta hiện nay phải hết sức chặt chẽ và 
nghiêm túc. Việc quy hoạch, đào tạo đội 
ngũ trí thức phải gắn liền với nhu cầu 
thực tiễn, trên cơ sở đó bố trí đúng 
người, đúng việc để phát huy tốt năng 
lực của lực lượng này. Đổi mới công tác 
trí thức, phát huy dân chủ, lắng nghe ý 
kiến của tầng lớp trí thức, tin dùng họ 
trong công việc, tạo các điều kiện để họ 
tham gia hoạt động sáng tạo, đóng góp 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
214 
thật nhiều cho đất nước. Đó là một trong 
những điều kiện bảo đảm cho sự thành 
công của sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế 
của nước ta. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, 1995. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 235. 
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, 2000. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 36. 
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, 1995. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 35-36. 
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, 1995. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 192. 
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, 1995. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 8 – 9. 
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, 1995. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 141. 
[7]. Trình Quang Phú, 2011. Đường Bác Hồ đi cứu nước, NXB Thanh niên, tr. 139. 
[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, 2000. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 260. 
[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, 2000. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 240. 
[10]. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, 2008. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
tr. 90-91. 

File đính kèm:

  • pdfho_chi_minh_voi_viec_dao_tao_boi_duong_doi_ngu_tri_thuc_yeu.pdf