Hệ quả quá trình tiếp xúc tín ngưỡng bản địa của người Việt ỏ vùng đồng bằng Bắc Bộ của công giáo ở Việt Nam

Đồng bằng Bắc Bộ là địa bàn mà ở đó tín ngưỡng bản địa của người Việt

mang tính tiêu biểu. Đây cũng là địa bàn đạo Công giáo xâm nhập sớm nhất. Theo

dã sử mà sách Cương mục ghi lại là năm 1533 đã có sự xuất hiện của giáo sỹ

Inêkhu ở Trà Lũ và Nam Chân (đều thuộc tỉnh Nam Định bây giờ), còn nguồn sử

liệu chính xác là ngày 19/3/1627 với sự có mặt của giáo sỹ dòng Tên Alexandre de

Rhodes (Đắc Lộ) ở Cửa Bạng (Thanh Hoá). Quá trình truyền giáo, phát triển đạo

Công giáo ở Việt Nam thì vùng đồng bằng Bắc Bộ thu được kết quả rất lớn. Hiện ở

vùng đồng bằng Bắc Bộ, Công giáo thiết lập được 7/26 giáo phận trên cả nước. Đó

là các giáo phận: Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh,

Hưng Hoá, với số lượng tín đồ khoảng 1/3 cả nước.

Công giáo là một tôn giáo độc thần, khi truyền giáo, phát triển đạo vào Việt

Nam nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng đã không chấp nhận tôn giáo và tín

ngưỡng bản địa. Vậy quá trình tiếp xúc diễn ra như thế nào? Hệ quả sẽ ra sao? Đó

là những vấn đề mà bài viết đề cập.

pdf 17 trang kimcuc 10600
Bạn đang xem tài liệu "Hệ quả quá trình tiếp xúc tín ngưỡng bản địa của người Việt ỏ vùng đồng bằng Bắc Bộ của công giáo ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ quả quá trình tiếp xúc tín ngưỡng bản địa của người Việt ỏ vùng đồng bằng Bắc Bộ của công giáo ở Việt Nam

Hệ quả quá trình tiếp xúc tín ngưỡng bản địa của người Việt ỏ vùng đồng bằng Bắc Bộ của công giáo ở Việt Nam
HỆ QUẢ QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI VIỆT 
 343 
HÖ QU¶ QU¸ TR×NH TIÕP XóC VíI TÝN NG¦ìNG 
B¶N §ÞA CñA NG¦êI VIÖT ë VïNG §åNG B»NG B¾C Bé 
CñA C¤NG GI¸O ë VIÖT NAM 
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương∗ 
Đồng bằng Bắc Bộ là địa bàn mà ở đó tín ngưỡng bản địa của người Việt 
mang tính tiêu biểu. Đây cũng là địa bàn đạo Công giáo xâm nhập sớm nhất. Theo 
dã sử mà sách Cương mục ghi lại là năm 1533 đã có sự xuất hiện của giáo sỹ 
Inêkhu ở Trà Lũ và Nam Chân (đều thuộc tỉnh Nam Định bây giờ), còn nguồn sử 
liệu chính xác là ngày 19/3/1627 với sự có mặt của giáo sỹ dòng Tên Alexandre de 
Rhodes (Đắc Lộ) ở Cửa Bạng (Thanh Hoá). Quá trình truyền giáo, phát triển đạo 
Công giáo ở Việt Nam thì vùng đồng bằng Bắc Bộ thu được kết quả rất lớn. Hiện ở 
vùng đồng bằng Bắc Bộ, Công giáo thiết lập được 7/26 giáo phận trên cả nước. Đó 
là các giáo phận: Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh, 
Hưng Hoá, với số lượng tín đồ khoảng 1/3 cả nước. 
Công giáo là một tôn giáo độc thần, khi truyền giáo, phát triển đạo vào Việt 
Nam nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng đã không chấp nhận tôn giáo và tín 
ngưỡng bản địa. Vậy quá trình tiếp xúc diễn ra như thế nào? Hệ quả sẽ ra sao? Đó 
là những vấn đề mà bài viết đề cập. 
* 
* * 
Các giáo sỹ Công giáo khi tiến hành truyền giáo ra vùng dân ngoại nói 
chung và Việt Nam nói riêng thường ít hiểu biết về văn hoá - tôn giáo - tín ngưỡng 
vùng đó. Mặt khác họ có một quan niệm cố hữu rằng đó là vùng đất mà cư dân 
thường theo tà giáo, dị giáo nên họ có sứ mệnh cao cả là “đem ánh sáng Tin 
Mừng” đến chiếu rọi. Vì vậy những nơi mà đạo Công giáo hiện diện thường là tôn 
giáo, tín ngưỡng ngoài Kitô giáo đều bị triệt tiêu. 
∗ Viện Nghiên cứu Tôn giáo. 
KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA 
TIEÅU BAN GIAO LÖU VAÊN HOAÙ 
Nguyễn Hồng Dương 
 344 
Về vấn đề này Toà thánh Rôma không phải không biết đến. Thánh Bộ 
Truyền bá đức tin, ngày nay là Bộ Phúc âm hoá các dân tộc, vào năm 1659 – năm 
mà Toà thánh Rôma ban hành sắc chỉ thành lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt 
Nam: Giáo phận Đàng Trong và Giáo phận Đàng Ngoài cử hai giám mục làm Đại 
diện Tông toà là Lamber de le Motte và Pallu đến cai quản hai giáo phận trên đã 
căn dặn hai vị này: “Các ngài đừng lo, cũng đừng thuyết phục vì lý do gì mà bảo 
các dân tộc thay đổi lễ nghi, các tập tục, thói tệ của họ, miễn là các điều đó không 
trái ngược với đạo và các điều luân lý. Còn gì vô lý hơn là đem các thói tục của 
Pháp, Tây Ban Nha, Italia hay một nước nào khác bên Âu châu vào trong nước 
Tàu? Quý vị không cần đem các điều này vào, nhưng chỉ đem đức tin cho họ, đức 
tin này không loại bỏ, không làm tổn thương tới nghi lễ và các phong tục của các 
dân tộc hoặc tập quán của họ”1. Nhưng cả hai vị Đại diện Tông toà hầu như phớt 
lờ lời căn dặn trên. Tuy nhiên, công bằng mà nói về mặt phi quan phương một số 
giáo sỹ dòng Tên mà tiêu biểu là Alexandre de Rhodes ngày từ buổi đầu đã có 
những hiểu biết nhất định về văn hoá Việt Nam, vận dụng một số phong tục, tín 
ngưỡng truyền thống của người Việt vào trong việc thực hành nghi lễ. Sau này 
một vài giáo sỹ dòng Đa Minh và Hội Truyền giáo Paris (MEP) cũng có những 
việc làm tương tự. Tuy nhiên kết quả là nhỏ bé và khiêm tốn. Mục đích của các 
giáo sỹ cũng chỉ nhằm vào việc làm sao để truyền giáo, phát triển đạo cho có hiệu 
quả. 
Ngược với các giáo sỹ là giáo dân tín đồ Công giáo Việt Nam. Những người 
sinh ra, lớn lên trong mạch nguồn văn hoá Việt nên ít nhiều đều bị văn hoá Việt 
chi phối. 
Khi công cuộc truyền giáo, phát triển đạo Công giáo vào Việt Nam thì dân 
tộc Việt Nam đã xác lập được nền văn hoá bản địa hàng nghìn năm. Nền văn hoá 
đó trong cơ tầng chứa đựng hàm lượng lớn tam giáo (Phật, Nho, Đạo) và các loại 
hình tín ngưỡng dân gian như thờ trời, thờ thần, thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên 
Người Công giáo Việt Nam có câu nói rất hay: Trước khi là người Công giáo, 
tôi là người Việt Nam. Về góc độ tín ngưỡng, tôn giáo, câu nói trên hàm ý, người 
Công giáo Việt Nam dù theo Công giáo nhưng trong sâu thẳm tâm linh của họ là 
tâm linh của người Việt. Rộng ra là, người Công giáo Việt Nam theo tôn giáo độc 
thần nhưng sống đạo bằng đời sống tâm linh đa thần. Tất nhiên không phải ai 
cũng như ai; tín đồ vùng miền nào cũng như nhau, nhưng suy nhận trên có thể 
nói là đúng với với đa số tín đồ Công giáo người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. 
1. Tục lệ đón Tết Nguyên Đán 
Đây là tục lệ có từ lâu đời của người Việt. Đó trước hết là nghi lễ tế giao thừa 
ở đình làng. Đó là nghi lễ tế trời đất vào thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm 
mới. Dịp tết đầu xuân là dịp người Việt họp mặt con cháu trong gia đình cúng bái 
HỆ QUẢ QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI VIỆT 
 345 
tổ tiên, họ tộc. Trong ba ngày tết thường là: mùng một tết cha (bên nội), mùng hai 
tết mẹ (bên ngoại), mùng ba tết thầy (thầy dạy học). 
Người Công giáo Việt Nam có cách đón Tết Nguyên Đán theo cách riêng của 
họ. Trong ba ngày Tết thì: mồng một kính lạy Thiên Chúa ba ngôi; mồng hai cầu 
cho Hội Thánh, mùng ba cầu cho ông bà tổ tiên. 
Ở một số xứ họ đạo Công giáo thuộc giáo phận Thái Bình, dịp Tết Nguyên 
Đán đã tổ chức lễ tế giao thừa ở nhà thờ Công giáo. Tế giao thừa ở nhà thờ Công 
giáo có từ bao giờ, hiện vẫn chưa có lời giải đáp chính xác. Một số người cho rằng 
có từ những năm 30 của thế kỷ XX, những người khác chủ trương có từ lâu đời. 
Do đây là nghi thức ngoại lễ, mang tính phi quan phương nên chỉ có ở một số nhà 
thờ xứ, họ đạo thuộc giáo phần Bùi Chu và giáo phận Thái Bình, thuộc quản lý 
của dòng Đa Minh. Đội tế, hình thức ăn mặc, dàn nhạc, các bước tiến hành nghi 
thức tế về cơ bản giống như tế giao thừa ở đình làng người Việt. Đáng tiếc sau 
Cách mạng tháng 8 năm 1945, hình thức tế ở nhà thờ Công giáo ở hai giáo phận 
Bùi Chu và Thái Bình vì những lý do khác nhau đã không còn thực hiện. 
Tháng 8 năm 1993, tiến hành khảo sát ở xứ đạo Châu Bình, xã Tam Châu, 
huyện Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi được biết mấy năm trước đó 
xứ đạo này đã phục hồi nghi thức tế giao thừa ở nhà thờ giáo xứ. 
Châu Bình là xứ đạo của giáo dân di cư từ miền Bắc vào năm 1954. Tín đồ 
trước ngày di cư vốn là những người cư trú rải rác ở hai giáo phận Bùi Chu và 
Thái Bình (Châu Bình là từ ghép của hai giáo phận Bùi Chu và Thái Bình). Các 
linh mục dòng Đức Mẹ đồng công cứu chuộc mà người có công đầu là linh mục 
Phạm Quang Thiều đứng ra chiêu tập họ về định cư trên đất nhà dòng, lập nên 
giáo xứ. 
Đoàn tế của giáo xứ Châu Bình gồm 15 người, một chủ tế, hai bồi tế, (Đông 
xướng và Tây xướng) và 12 tế viên. Phục vụ buổi tế là đội bát âm. Do tế ở nhà thờ 
Công giáo nên nội dung có nhiều điểm khác biệt với tế giao thừa nơi đình trung 
của người Việt không theo Công giáo. 
Sau đây xin trích một phần nội dung: 
Đông xướng: Khởi chinh cổ. 
(một hồi ba tiếng trống, chiêng âm vang) 
Đông xướng: Tế chủ độc chúc. 
Chủ tế quỳ hai gối, cúi đầu giây lát, ngẩng lên đọc bài Nghinh xuân khởi tấu 
theo giọng văn tế: 
 Giáo hội Công giáo Việt Nam. 
Nguyễn Hồng Dương 
 346 
 Tuế thứ  niên  
 Chính nguyệt, nguyên đán, nhật tân. 
 Chúng con cộng đoàn giáo dân Châu Bình xứ 
 Trước thềm năm mới 
 Xuân tới muôn nhà 
 Chung niệm thiết tha 
 Muôn lòng rộng mở. 
Dứt lời văn, chủ tế cúi mình giây lát 
Đông xướng: Ngũ bái vịnh 
Chủ tế (đọc bài bái Vịnh thứ nhất) 
Đệ nhất kính Thượng phụ chi vị 
Đông xướng: Cúc cung bái. 
Chủ tế: Chúng con lạy Chúa Cha nhân đức. 
Tây xướng: Hương 
Ban nhạc: tấu. 
Chủ tế: 
Đã tạo thành vũ trụ bao la 
Cỏ cây muôn vật hằng hà 
Đông qua xuân lại bốn mùa đổi thay. 
Đông xướng: Khởi chinh cổ. 
 (Một hồi ba tiếng trống, chiêng âm vang) 
Nghi thức kết lễ gồm: 
Đông xướng: Nghinh xuân lễ tất giai quỵ 
(Tất cả cùng quỳ, Trống cái điểm: Tùng, tùng, tùng, cắc) 
Lời nguyện kết lễ. 
Chủ tế ban phép lành đầu năm. 
Trên đây chỉ là một đoạn trích dẫn ngắn nội dung của tế giao thừa nơi nhà 
thờ Công giáo. Ở đó là sự suy tôn Thiên Chúa ba ngôi. Là lời nguyện thỉnh cầu: 
Hội thánh, Tổ quốc, Giáo xứ. Một điểm khác biệt nữa trong tế giao thừa ở nhà thờ 
HỆ QUẢ QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI VIỆT 
 347 
Công giáo còn có lời cầu nguyện của Cộng đoàn. Hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo 
là cộng đoàn tín đồ giáo xứ cùng hiệp lễ với ban tế. 
Ví dụ ở chủ đề: Thỉnh cầu cho Tổ quốc có nghi lễ và nội dung sau: 
Đông xướng: Thỉnh cầu cho Tổ quốc. 
Cộng đoàn (hiệp lễ) 
Xin Chúa thương cách riêng đất nước 
Việt Nam con Tổ quốc quang vinh 
Toàn dân vui sống an bình 
Chung xây đất mẹ thắm xinh tình người 
Cho bốn mùa ngát tươi lúa mạ 
Dẹp yên đi sóng cả, giông ba 
Đời này no ấm thái hoà 
Mai sau hưởng phúc hoan ca Thiên đường. 
Ban tế cùng cộng đoàn: 
Chúng ta cùng cầu nguyện 
Xin Chúa nhận lời chúng con2. 
Vào dịp Tết, ngay từ thời Alexandre de Rhodes truyền giáo ở Đàng Ngoài, ở 
các khu tín đồ Công giáo sống tập trung, một số gia đình dựng cây nêu đón Tết 
nhưng bên trên gắn hình Thập giá. 
Ngày nay người Việt theo tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống và người Việt 
theo Công giáo khi đón năm mới không còn dựng cây nêu. Nhưng cây nêu trên 
gắn hình Thập giá lại thấy trồng ở trước cửa nhà Rông của người Bana, người 
Giarai ở Tây Nguyên theo đạo Công giáo. 
Từ khi tín đồ Công giáo ở Việt Nam được Giáo hội cho phép thờ kính tổ tiên 
thì dịp Tết Nguyên Đán là dịp tín đồ thực hiện thờ cúng tổ tiên (Vấn đề này chúng 
tôi sẽ trình bày ở mục thờ cúng tổ tiên của người Công giáo.). 
2. Về tục thờ thần 
Không gian tôn giáo của người Việt nói chung, người Việt ở đồng bằng Bắc 
Bộ nói riêng không chỉ là không gian tam giáo (Nho, Phật, Đạo) mà còn là không 
gian của tín ngưỡng thần. Khi các tôn giáo Nho, Phật, Đạo truyền vào Việt Nam 
thì người Việt đã thờ cúng nhiều vị thần. Chính vì vậy mà tâm thức thờ thần đã 
ảnh hưởng sâu đậm vào tam giáo. Khi đi vào dân gian, tam giáo dần dần bị dân 
Nguyễn Hồng Dương 
 348 
gian hoá để rồi có lớp Phật giáo dân gian ở chùa Việt, có biến thể của Đạo giáo để 
hình thành đạo Mẫu. Nho giáo với cốt lõi “Kính Thiên, tế Tổ” - Vua tế trời, đại 
quan tế thần, dân tế Tổ tiên. 
Các vị thần, thánh ngoài số được thờ cúng ở chùa, quán còn lại hầu hết đều 
được thờ cúng ở cơ sở thờ tự riêng, theo đó là những nghi thức. Người Việt thờ 
thần trước hết là để cầu xin thần ban phát điều may mắn. Đỉnh cao của việc thờ 
cúng là lễ hội với lễ và hội mang sắc thái đặc thù tuỳ theo đối tượng và sự quy 
định bởi văn hoá mỗi làng xã. 
2.1. Thờ Mẫu 
Tín ngưỡng thờ Mẫu có lẽ là một trong những tín ngưỡng lâu đời nhất của 
người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Tín ngưỡng thờ Mẫu ảnh hưởng sâu đậm vào 
Phật giáo, đặc biệt là Đạo giáo. Do ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu mà một 
loại hình tôn giáo biến thể từ Đạo giáo ra đời - Đạo Mẫu. 
Tín ngưỡng thờ Mẫu có ảnh hưởng đối với Công giáo như thế nào? Trong 
các vị thánh mà người Công giáo thờ kính có Thánh nữ Maria. Quan niệm tín lý 
của Giáo hội Công giáo, Đức Maria và các thánh chỉ được thờ kính và không được 
ban ơn cho tín đồ, chỉ giữ vai trò trung gian “cầu bầu mà xin ơn Đức Chúa Trời” 
cho tín đồ. Song cùng với thời gian việc thờ kính Thánh nữ Maria dần dần chịu 
ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ mẫu ở các phương diện: cách gọi tên; quan niệm về 
quyền năng; nghi thức thờ cúng. 
Cách gọi tên: Do là người đản sinh ra Chúa Giêsu nên Thánh nữ Maria được 
tôn xưng là Đức Mẹ (người Việt kiêng gọi tên tục). Không dừng lại ở đó, người 
Việt còn tôn xưng với các tên gọi: Đức Bà, đặc biệt là Thánh Mẫu. Ở một số nhà 
thờ xứ họ đạo Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ như Đồng Trì (Hà Nội), Kẻ Sở 
(Hà Nam) có khắc biển phương danh Thánh Mẫu (danh thơm Thánh Mẫu) 
bằng chữ Hán. Mỗi chữ một biển. Biển được sơn son thiếp vàng. Vào ngày xứ, họ 
đạo đi kiệu, biển được cầm đi trước. 
Hương ước làng Ninh Phú, Thanh Liêm, Hà Nam, Điều thứ 3 ghi: Việc tế tự: 
Làng chúng tôi không có việc tế tự gì, phi có rước Thánh Mẫu Phương Danh là kỳ 
tháng 3 Tây, kỳ tháng 5 Tây và kỳ tháng 9 Tây. Không phải mua lễ vật, không có 
ăn uống gì3. 
Quan niệm về quyền năng: Do tôn xưng Thánh nữ Maria lên hàng Thánh Mẫu 
và chịu ảnh hưởng của tâm linh thờ mẫu nên tín đồ Công giáo vùng đồng bằng 
Bắc Bộ đã tôn quyền cho Thánh nữ Maria. Các quyền năng được tôn thể hiện ở ba 
đặc trưng: che chở; ban ơn; sinh sôi. 
Che chở: ở đây được hiểu như là sự cứu khổ, cứu nạn. Khi khó khăn, hoạn 
nạn, khi đau khổ, lúc ốm đau bệnh tật, người tín đồ quỳ, lạy, cầu nguyện sự chở 
HỆ QUẢ QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI VIỆT 
 349 
che, cầu cho tai qua nạn khỏi. Người ta thường miết tay vào tà áo, vào bàn tay, 
bàn chân Thánh nữ rồi xoa lên mặt hoặc thân thể mình hay lên mặt con trẻ để cầu 
xin sức khỏe; Một số người ốm đau bệnh tật mang thuốc đến đặt dưới chân Thánh 
nữ với hy vọng thuốc đó đưa về uống sẽ khỏi bệnh. 
Ban ơn: Tín đồ Công giáo tìm đến Thánh nữ để xin được ban ơn toại nguyện 
trong cuộc sống hàng ngày: no đủ, bình an, kiếm được công ăn việc làm hợp ý, 
học hành đỗ đạt, tình duyên suôn sẻ, thậm chí cả buôn may bán đắt. Dưới chân 
tượng Thánh nữ thường bắt gặp tín đồ đến cầu xin ban ơn. Những năm gần đây 
còn thấy tín đồ thuộc giới trẻ viết những lời cầu nguyện vào những mảnh giấy 
nhỏ, cầm trên tay cầu nguyện, xong thì “hoá” mảnh giấy đó. Cũng có khi lời cầu 
xin được viết, khắc vào đá (nếu tượng Thánh nữ đặt trên núi đá) viết, trổ trên lá 
cây (nếu xung quanh tượng có nhiều cây) 
Sinh sôi: Nói đến Mẫu/Mẹ là nói đến sinh sôi, nảy nở. Đặc trưng này trở 
thành quyền năng của Mẫu. Thánh nữ Maria cũng được người Việt ở đồng bằng 
Bắc Bộ tôn quyền này. Những người hiếm muộn về đường con cái thường đến cầu 
xin Thánh nữ cho được sinh con đẻ cái. Con trẻ sinh ra khó nuôi, nhiều gia đình 
vùng đồng bằng Bắc Bộ đã đem bán con trẻ cho Đức Bà. Khi trẻ đến 13 tuổi thì 
làm lễ, xin về. Đây là hình thức bán khoán trẻ cho đền phủ hoặc cho chùa (Phật) 
vẫn thấy ở người Việt không theo Công giáo. Tập tục này vẫn được nhiều nơi duy 
trì cho đến ngày nay ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. 
Nghi thức thờ cúng: Từ việc tôn xưng, tôn quyền mà nghi thức thờ cúng 
Thánh nữ cũng có sự khác biệt. Tháng Năm được Giáo hội Công giáo chọn là 
tháng Đức Bà. Với người Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong tháng Đức Bà, 
ngoài thánh lễ được tổ chức ở nhà thờ ra tín đồ ở đây còn tổ chức các nghi thức đi 
kiệu Đức Bà, múa hát dâng hoa cũng còn được gọi là tiến hoa hay rước hoa. Thời 
điểm mà tín đồ Công giáo thực hiện múa hát dâng hoa từ khi nào hiện chưa có tài 
liệu cho biết chính xác về niên điểm. Nhưng qua nguồn tư liệu mà chúng tôi thu 
thập được thì đã có từ đầu thế kỷ XX. 
Múa hát dâng hoa được hiểu là một nghi lễ của tín đồ đối với Thánh nữ. 
Nghi lễ này có cả múa và hát. Lời hát là những văn hoa ca ngợi công lao, đức độ 
Thánh nữ. Giai điệu hát vẫn được cải biên từ những làn điệu dân ca truyền thống; 
chèo, trống quân, hát xoan, hát quan họ, kể cả hát ca trù. Khi hát kèm theo các 
động tác múa như hái hoa, quỳ lạy dâng hoa. Cũng có khi vừa hát vừa xếp hình: 
mỏ neo (Đức Mẹ là niềm trông cậy), ngôi sao (Đức Mẹ là ngôi sao biển), AV (chữ 
đầu của Ave Maria - kính mừng Maria). Thực hiện múa hát dâng hoa là hội con 
hoa. Mỗi hội thường ít nhất có 12 em và một em đánh trống chầu cầm nhịp. Các 
e ...  đến khấn xin ra 
khơi vào lộng an toàn12. Trong mục Về thờ phụng thánh tông đồ và các thánh của 
cuốn: Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam, chúng tôi đã trình bày 
khá kỹ về vấn đề này. Ở đây chỉ viết thêm một nội dung nhỏ. Trước chúng tôi biết 
thánh An tôn được giáo dân chức nghiệp là vị thánh cứu giúp người nghèo, với 
bức tượng là thánh tay cầm bánh mì ban phát. Tuy nhiên đợt điều tra nghiên cứu 
thực tế tại họ Bằng Sở, xứ Sở Hạ, giáo phận Hà Nội, chúng tôi được chứng kiến 
giáo họ dành một gian riêng trong khu nhà dẫy để thờ kính Thánh Antôn. Trước 
cửa vào gian thờ có dán hai tờ giấy ghi kinh cầu xin và kinh khấn Thánh Antôn. 
Xin được dẫn nguyên văn. 
Kinh cầu xin Thánh Antôn 
Lạy Thánh Antôn là đấng cứu thế trước mặt Chúa để cứu chữa người ta khỏi 
chết, khỏi hoạn nạn tai ương và khỏi ma quỷ ôn dịch. Nhờ ơn Người kẻ ốm đau 
bệnh tật được lành mạnh, kẻ giam cầm được ra khỏi tù đày, kẻ mất của tìm lại 
được của đã mất. Vì vậy, con hết lòng trông cậy chạy đến cùng Người xin Người 
lấy quyền pháp mà ban cho chúng con được ơn con cầu xin. 
 Lạy Thánh Antôn hay làm phép lạ 
 Cầu cho chúng con. Amen. 
Kinh khấn Thánh Antôn 
Lạy Thánh Antôn là thánh cả, là cha rất nhân lành, đã được phép riêng của 
Đức Chúa Trời ban để người ta tìm thấy những của đã mất, xin thương giúp con, 
cho con tìm thấy của đã mất, cho con trông cậy vững vàng biết bao thánh ý Chúa 
và cho con được hạnh phúc đời đời. Amen. 
 Lạy Thánh Antôn hay làm phép lạ 
 Cầu cho chúng con. Amen. 
Vậy là vị thánh này, ít ra là với giáo dân giáo họ Bằng Sở đã trở thành vị 
thánh cứu khổ cứu nạn cho tất cả giáo dân, chứ không chỉ cho người nghèo. 
2.4. Vấn đề thờ cúng tổ tiên 
Nguyễn Hồng Dương 
 354 
Trong một số công trình nghiên cứu của mình, chúng tôi đã trình bày khá kỹ 
về vấn đề thờ cúng tổ tiên của người Công giáo13. Vì vậy mà ở đây chúng tôi chỉ 
trình bày có tính tóm lược. 
Về mặt quan phương cho đến trước khi Thánh bộ Truyền giáo La Mã ban 
hành Huấn dụ Plane Compertum est ngày 7/12/1939 thì Công giáo ở Việt Nam không 
được thực hiện thờ cúng tổ tiên. Theo tinh thần Huấn dụ Plane Comper tum est áp 
dụng ở Trung Hoa, Hội nghị Giám mục Việt Nam xin theo và đến ngày 20/10/1964 
được Toà thánh La Mã chấp thuận. Việc thờ cúng hay tôn kính tổ tiên thời gian 
đầu chỉ được áp dụng đối với Giáo hội Công giáo miền Nam vì cho đến trước 
ngày miền Nam giải phóng (30/4/1975) đất nước ta tạm chia làm hai miền. Tuy 
nhiên thời gian này việc áp dụng còn hết sức dè dặt. Phải đợi đến khi đất nước 
thống nhất, Giáo hội Công giáo Việt Nam hoà làm một và đặc biệt khi ra đời Thư 
chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam vấn đề thờ cúng tổ tiên của người 
Công giáo Việt Nam mới được thực hiện rộng rãi. Những cuộc điều tra xã hội học 
của Viện Nghiên cứu Tôn giáo thực hiện cuối thế kỷ XX cho thấy tỷ lệ giáo dân 
thực hành tôn kính Tổ tiên ở Việt Nam có tỷ lệ rất cao từ 90 đến 100%. Cùng thời 
điểm, một đề tài nghiên cứu của người Công giáo cho thấy 100% người Công giáo 
ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quy Nhơn, Xuân Lộc, Cần Thơ, Đà Lạt thực 
hành tôn kính tổ tiên14. 
Nhưng đấy là xét về mặt quan phương. Còn về phi quan phương thì sao? 
Với người Việt, thờ cúng tổ tiên vừa thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn 
vừa là một tín ngưỡng. Có thể người Việt không theo một tôn giáo nào nhưng 
không ai là không thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên được xem là đạo - đạo ông 
bà. Vì vậy người dân Việt khi gia nhập đạo Công giáo, đoạn tuyệt với đạo ông bà 
đã không ít người vẫn bị níu kéo. Ở xứ đạo Lưu Phương (Kim Sơn - Ninh Bình) có 
tín đồ theo đạo lên đến chức trùm trưởng họ đạo vẫn thờ cúng tổ tiên trong chum. 
Ở xứ đạo Đồng Trì (Thanh Trì, Hà Nội) có tín đồ gia nhập đạo để được kết hôn 
với cô gái làng đạo nhưng đến ngày giỗ tổ, giỗ ông bà vẫn lén lút về quê tham dự 
thờ cúng tổ tiên. 
Hương ước các làng Công giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy nhiều làng 
có các hình thức thờ cúng tổ tiên, thờ tiền nhân lập làng hoặc có công khai khẩn làng. 
Hầu hết các làng ấp ở huyện Kim Sơn (Ninh Bình) đều có hình thức tôn kính 
những vị khai canh lập làng được gọi là chiêu mộ, nguyên mộ, thứ mộ dù rất 
nhiều làng ấp là làng toàn tòng Công giáo. Các làng ấp còn thờ phụng quan 
Doanh điền Nguyễn Công Trứ, người mà năm 1829 chiêu dân khai khẩn lập ra 
60 thôn ấp để thành lập một huyện mới, huyện Kim Sơn. 
Làng Công giáo Lưu Phương (Kim Sơn, Ninh Bình), hàng năm vào tháng 7 
âm lịch, tháng báo hiếu, làng tổ chức kỷ niệm chiêu mộ và truy tư tiền nhân 
HỆ QUẢ QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI VIỆT 
 355 
2 ngày. Một ngày tốt được lựa chọn trong tháng mở đầu lễ kỷ niệm. Ngày ấy ở 
miếu Lưu Phương (cơ sở thờ tự của lương dân) có diễn ra lễ tế nhắc đến công lao 
các vị chiêu mộ, nguyên mộ có công khai khẩn đất đai. Dự lễ tế là các dịch mục, kỳ 
mục, trong số họ phần lớn là người Công giáo. Làng Công giáo Văn Hải (Kim Sơn, 
Ninh Bình) có tục thờ các chiêu mộ, nguyên mộ tại miếu Văn Hải (cơ sở thờ tự của 
giáp lương). Đến tiết kỷ niệm chiêu mộ, nguyên mộ, dịch mục, kỳ mục là những 
người theo đạo Công giáo đến dự. Làng Công giáo Tử Nê (Lương Tài, Bắc Ninh) 
có nghi thức thờ kính tổ tiên ngày cuối năm và ngày mùng 2 Tết Nguyên Đán. 
Theo tục lệ, từ trước năm 1945 vào ngày cuối năm con cháu ra nghĩa địa - người 
Công giáo gọi là vườn thánh, sửa sang lại mồ mả, ông bà tổ tiên, thường là vào 
buổi chiều. Buổi tối ngày cuối năm, con cháu chi tộc nội ngoại nào về chi tộc ấy, tề 
tựu tại nhà trưởng tộc, trước giao thừa để cầu nguyện cho tiền nhân. Đây cũng là 
dịp con cháu gặp gỡ, trao đổi, thắt chặt mối dây huyết tộc. Kinh cầu là những kinh 
trong Sách bổn và 50 kinh Kính mừng với ý chỉ cho tổ tiên. Thời gian cầu nguyện 
khoảng 1 giờ, sau đó là giao lưu. Ngày mùng 2 Tết giáo xứ có thánh lễ với nội 
dung: Cầu cho ông bà tổ tiên. Trong thánh lễ linh mục dâng lễ rất long trọng. Sau 
thánh lễ, cộng đồng giáo dân tập trung đến chúc Tết linh mục xứ. 
Lễ cầu cho tiền nhân còn thấy ghi chép trong hương ước một số làng Công 
giáo. Hương ước làng Trung Linh (Xuân Trường, Nam Định), Điều thứ 94 ghi: 
Làng chúng tôi toàn tòng Thiên Chúa giáo, trong một năm có hai kỳ làm lễ. 
1. Lễ quan Thượng thư, hương hội phải hội họp cùng bàn bạc sắm sửa lễ vật 
cho trọng thể. 
2. Lễ Kỳ hồn, cầu cho tiên tổ và viếng mộ15. 
Hương ước làng Vĩnh Trị (Nghĩa Hưng, Nam Định), Điều thứ 26 ghi: Tại 
nhà thờ chính: Lễ cầu cho tiên nhân làng16. 
Giáo hội Công giáo lấy ngày 2 - 11 hằng năm để cầu cho tín hữu đã qua đời, 
cầu cho các đẳng hoặc cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục. Theo quan niệm Công 
giáo, khi chết, nếu một người nào đó phạm tội nhẹ linh hồn không đến mức sa hoả 
ngục và cũng không được lên thiên đàng, thì linh hồn phải ở nơi luyện ngục. Ở nơi 
này nếu linh hồn họ được thân nhân cầu nguyện sẽ có thể được lên thiên đàng. 
Trong hương ước một số làng Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ, lễ ngày 2 - 11 
gọi là lễ kỳ (cầu) hồn. Đây là một lễ trọng của làng. Chẳng hạn như Điều thứ 94 
Hương ước làng Công giáo Trung Linh mà chúng tôi đề cập ở trên. Hương ước 
làng Công giáo Phú Nhai (Nam Định), Điều thứ 118 cho biết làng có lễ kỳ (cầu) 
hồn vào ngày mùng 2 tháng 11 tây17. 
Hương ước làng Lục Thuỷ (Nam Định), Điều thứ 118 ghi: Làng ta toàn tòng 
đạo Công giáo thì phải dự liệu trong một năm có 4 tuần lễ trọng: lễ Phục sinh, 
Quan thầy, lễ kỳ an, lễ kỳ hồn18. 
Nguyễn Hồng Dương 
 356 
Việc cầu nguyện cho người qua đời đối với người Công giáo, ngoài ngày 2/11 
hằng năm là ngày lễ kỳ hồn ra, giáo dân còn có những ngày cầu nguyện khác. Đến 
ngày giỗ người qua đời, giáo dân thường gặp linh mục xin lễ bàn thờ. Cuối thánh 
lễ, linh mục sẽ rao trước cộng đồng tên thánh người quá cố. Sau đó cộng đồng 
hiệp nguyện cho người quá cố. Buổi tối ngày giỗ, nhiều gia đình tụ họp con cháu 
đọc kinh cầu. Bà con, anh em họ hàng, cũng có thể là bà con lối xóm cùng đến 
thông công. 
Với những người không có con trai để lo việc cầu cúng, nếu có điều kiện họ 
thường cúng hậu vào nhà xứ. Việc cúng hậu thường là ruộng đất, cũng có khi là 
tiền. Lập hậu bi ký lập năm 1893 đặt ở giáo xứ Phùng Khoang (Thanh Trì, Hà Nội) 
cho biết: Bà Vũ Thị Lý quê ở phủ Thọ Xương, xuất gia tư 100 quan, ruộng một 
mẫu, một sào, tám thước, chín tấc cho xứ Phùng Khoang. Cũng bia trên còn cho 
biết là Vũ Thị Lãng có số ruộng tư các xứ là 16 thửa của cha mẹ để lại phục canh ở 
làng Phùng Khoang, nay lấy số ruộng này ký hậu cho cha là Bảo Lộc Vũ Đình 
Hưng, mẹ là Anna Nguyễn Thị Tấn và ba em trai là Bảo Lộc Vũ Đình Chính, 
Phêrô Vũ Đình Chung, Bảo Lộc Vũ Đình Dũng vào giáp giáo làng Phùng Khoang. 
Bia hậu ký ở họ đạo Tiên Đôi Ngoại (Hải Phòng) cho biết họ đạo có ngôi vị hậu 
thánh Đinh Bách Cốc. Trong khi đó Xuân hoà hậu bi (Hải Phòng) lại cho biết người 
được bầu vị hậu thánh - cụ Phạm Thị Ẩn, 95 tuổi - vẫn còn sống - Hằng năm đến 
Tết Nguyên Đán, xứ, họ đạo phải sửa lễ đến chúc mừng. Sau này khi cụ qua đời, 
hàng năm đến ngày giỗ, xứ họ phải làm lễ cầu hồn19. Ở xứ đạo Tử Nê (Lương Tài, 
Bắc Ninh) có cụ bà tên là Tình cúng một quả chuông mua ở chùa cho nhà thờ. Vì 
vậy dân làng gọi cụ là cụ Hậu Tình 
Cúng hậu hay gửi hậu để được dân làng thờ hậu và cúng giỗ khi qua đời là 
một loại hình tín ngưỡng có từ lâu đời của người Việt. Loại hình tín ngưỡng này 
đã ảnh hưởng đến người Việt Công giáo ở đồng bằng Bắc Bộ. 
3. Một vài nghi tiết khác 
Người Công giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ngoài việc chịu ảnh hưởng từ tín 
ngưỡng bản địa mà chúng tôi đề cập ở trên còn chịu ảnh hưởng bởi một số nghi 
tiết như: lễ cầu an (kỳ yên), tết Đoan Ngọ, tết cơm mới, lễ hạ điền. Nhân đây 
chúng tôi xin được đính chính khi viết: Làng giáo không có những nghi lễ hạ điền, 
thượng điền, tết cơm mới mà chúng tôi viết trong cuốn: Làng Công giáo Lưu 
Phương (Ninh Bình) từ năm 1829 đến năm 194520. Đó là do hạn chế về nguồn tư liệu 
mà chúng tôi nghiên cứu vào thời điểm đó. 
Về nghi lễ cầu an (kỳ yên) và cầu mùa, ngày 16/4/1872, trong một thư chung 
gửi Giáo phận Tây Đàng Ngoài, Giám mục Bảo Lộc Phước (Puginier) lập trong 
giáo phận phép kiệu cầu được bằng yên và được mùa. Cuối thư chung Giám mục 
Phước đã nêu: 
HỆ QUẢ QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI VIỆT 
 357 
1) Từ nay mà đi các xứ hằng năm phải kiệu cầu cho được bằng an và được mùa 
trong ngày lễ Ông thánh Máccô21 và ba ngày trước lễ Đức chúa Giêsu lên trời22. 
2) Chính phép đi kiệu này thì ra ngoài đồng. 
3) Thầy cả bản xứ phải truyền cho bổn đạo dọn đường đi kiệu cho được rộng 
rãi, bằng phẳng23. 
Hương ước một số làng Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ thấy ghi lễ kỳ an 
(cầu yên) là một trong lễ trọng của làng như Hương ước làng Nam An (Hải 
Phòng)24. Lễ kỳ an là 1 trong 8 lễ trọng của làng. Ở xứ đạo Lưu Phương (Ninh 
Bình) lễ cầu yên và được mùa tổ chức theo đúng nghi thức mà thư chung ngày 
16/4/1872 đã nêu. Hằng năm đến tiết lễ, một thánh lễ được diễn ra ở nhà thờ. Cuối 
buổi lễ xứ đạo tổ chức đi kiệu từ nhà thờ xứ ra ngoài đồng. Linh mục rảy nước 
phép xuống ruộng, cùng giáo dân cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. 
Vào giữa những năm 30 của thế kỷ XX, ở họ đạo Tân An (xứ đạo Lưu Phương) có 
sâu phá lúa, lễ cầu an được tổ chức vào buổi tối. Giáo dân đốt đuốc, rước kiệu ra 
ngoài đồng. Mọi người cùng cầu kinh và cầu xin chúa Trời trừng phạt sâu bọ25. 
Hương ước một số làng Công giáo thấy ghi có thực hiện lễ hạ điền và lễ cơm 
mới. Hương ước làng Mỹ Đình (Thái Bình) Điều thứ 28 ghi: Hằng năm cứ đến 
ngày 29 Jum (Tháng Bảy) đồng dân tề tựu tại nhà thờ xem lễ, cầu nguyện cho 
được mùa rồi bắt đầu cấy gọi là hạ điền26. 
Về lễ cơm mới, thấy ghi ở hương ước một số làng như Hương ước làng Phú 
Nhai (Nam Định), Hương ước làng Lục Thuỷ (Nam Định). 
Về tết Đoan Ngọ. Người Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ thực hiện nghi tiết 
này nhưng lại tạo cho nó một nội dung mới. Tết Đoan Ngọ là dịp để con cháu đi 
tết bố mẹ, ông bà, gặp gỡ anh em họ hàng để nhận nhau. Quà tết là sản vật nông 
nghiệp như đỗ, lạc, có thể là gà. Đây là dịp để anh em, họ hàng gặp gỡ và tỏ sự 
quan tâm tới bố mẹ, ông bà. 
Ảnh hưởng của tín ngưỡng bản địa đến đời sống đạo của cư dân vùng đồng 
bằng Bắc Bộ mang tính phi quan phương nên mức độ có sự đậm nhạt khác nhau ở 
mỗi làng Công giáo. Hoặc có thể thấy ở làng này mà không thấy ở làng khác. Mặt 
khác do hạn chế về mặt tư liệu nên có thể chúng tôi chưa đề cập hết. Vấn đề sẽ 
được trở lại khi có điều kiện và tư liệu mới. 
CHÚ THÍCH 
1 Trần Lục, Sách in từ nước ngoài gửi về. Không rõ nơi xuất bản. Tài liệu khai thác từ phía 
Giáo hội Công giáo Việt Nam. 
Nguyễn Hồng Dương 
 358 
2 Về tế giao thừa ở nhà thờ Công giáo xin xem, Nguyễn Hồng Dương, Nghi lễ và lối sống Công 
giáo trong văn hoá Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001, tr.135 - tr.145. 
3 Hương ước làng Ninh Phú, Thanh Liêm, Hà Nam, Ký hiệu Hư 2382. 
4 Hương ước làng Vĩnh Trị, tổng Ngọc Chấn, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, lập ngày 
30/12/1937. Ký hiệu Hư 3538. 
5 Về khái niệm làng Công giáo xin xem Nguyễn Hồng Dương, Làng Công giáo Lưu Phương 
(Ninh Bình) từ năm 1829 đến năm 1945. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997. 
6 Hương ước làng Vĩnh Trị, tlđd. 
7 Hương ước làng Lục Thuỷ, Xuân Trường, Nam Định, lập ngày 17/11/1937. 
8 Hương ước làng Trung Linh, Xuân Trường, Nam Định, lập ngày 10/4/1939, ký hiệu Hư 4122. 
9 Hương ước làng Vĩnh Trị, tlđd. 
10 Nguyễn Hồng Dương, Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam, NXB Khoa học 
Xã hội, Hà Nội, 2001. 
11 Sách truyện cha thánh Lê Tuỳ, bản in nội bộ, tr.12, 13. 
12 Xem Nguyễn Hồng Dương, Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam, sđd, mục Về 
thờ phụng thánh tông đồ và các thánh, tr.318 - 322. 
13 Có thể xem một số công trình nghiên cứu của Nguyễn Hồng Dương về vấn đề này như, 
- “Vấn đề thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Việt Nam”, Báo cáo khoa học tại cuộc toạ 
đàm, Tôn kính Tổ tiên nơi người Công giáo, Toà tổng Giám mục Huế, tháng 10 - 1999. 
- “Bước đường hội nhập văn hoá dân tộc của Công giáo Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu Tôn 
giáo, số 1 (1) 1999. 
- Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam, sđd. tr.202 - 260. 
14 Phạm Thị Bích Hằng, Vấn đề thờ kính tổ tiên trong nền văn hoá đương đại Việt Nam, Luận văn 
Cử nhân. 
15 Hương ước làng trung linh, tlđd. 
16 Hương ước làng Vĩnh Trị, tlđd. 
17 Hương ước làng Phú Nhai (Nam Định), lập ngày 15 – 11 - 1938. Ký hiệu Hư 4232. 
18 Hương ước làng Lục Thuỷ, tlđd. 
19 Xem, Nguyễn Hồng Dương, “Đời sống đạo của tín đồ Công giáo qua văn bia và hương ước 
vùng đồng bằng Bắc Bộ đến cuối thế kỷ XX”, trong cuốn Sống đạo theo cung cách Việt Nam, 
NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2004. 
20 Nguyễn Hồng Dương, Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ năm 1829 đến năm 1945, 
sđd, tr.184. 
21 Lễ thánh Máccô vào ngày 25 - 4. 
22 Lễ Chúa Giêsu lên trời không cố định vào một ngày cụ thể, nó được tính sau lễ Phục sinh 
40 ngày. 
23 Sách thuật lại các Thư chung Địa phận Tây Đàng Ngoài. In tại Kẻ Sở, 1908. 
24 Hương ước làng Nam An (Hải Phòng), lập tháng giêng, 1936. 
25 Nguyễn Hồng Dương, Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ năm 1829 đến năm 1945. 
sđd, tr.185. 
HỆ QUẢ QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI VIỆT 
 359 
26 Hương ước làng Mỹ Đình (Thái Bình) lập ra 24 - 8 - 1936, ký hiệu Hư 2879. 

File đính kèm:

  • pdfhe_qua_qua_trinh_tiep_xuc_tin_nguong_ban_dia_cua_nguoi_viet.pdf