Hầu hội trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu của người việt ở Đà Lạt, Lâm Đồng

Hầu hội là một trong hai hình thức lên đồng đã và đang tồn tại trong sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt tại Đà Lạt. Nghi lễ này được thực hiện bởi các thanh đồng người Việt gốc Huế và các tỉnh miền Trung di cư đến vùng đất này. Bài viết tìm hiểu những đặc trưng trong nghi lễ hầu hội trong so sánh với nghi lễ hầu đồng theo kiểu miền Bắc, đồng thời nêu ra một số tác động tích cực cùng hạn chế của nghi lễ này trong đời sống tâm linh của một bộ phận cư dân Việt tại Đà Lạt, Lâm Đồng hiện nay.

pdf 14 trang thom 04/01/2024 2800
Bạn đang xem tài liệu "Hầu hội trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu của người việt ở Đà Lạt, Lâm Đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hầu hội trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu của người việt ở Đà Lạt, Lâm Đồng

Hầu hội trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu của người việt ở Đà Lạt, Lâm Đồng
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
67 
HẦU HỘI 
TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU 
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐÀ LẠT, LÂM ĐỒNG 
BÙI THỊ THOA* 
Hầu hội là một trong hai hình thức lên đồng đã và đang tồn tại trong sinh hoạt tín 
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt tại Đà Lạt. Nghi lễ này được thực hiện bởi các 
thanh đồng người Việt gốc Huế và các tỉnh miền Trung di cư đến vùng đất này. 
Bài viết tìm hiểu những đặc trưng trong nghi lễ hầu hội trong so sánh với nghi lễ 
hầu đồng theo kiểu miền Bắc, đồng thời nêu ra một số tác động tích cực cùng 
hạn chế của nghi lễ này trong đời sống tâm linh của một bộ phận cư dân Việt tại 
Đà Lạt, Lâm Đồng hiện nay. 
Từ khóa: hầu hội, lên đồng, thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu, người Việt, Lâm Đồng 
Nhận bài ngày: 18/7/2018; đưa vào biên tập: 20/7/2018; phản biện: 25/8/2018; 
duyệt đăng: 20/12/2018 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hầu đồng hay lên đồng “không phải là 
một tín ngưỡng độc lập mà chỉ là một 
nghi lễ đặc trưng của đạo Mẫu Tam 
phủ, Tứ phủ. Hiện tượng lên đồng 
thực chất là sự nhập hồn nhiều lần 
của các thần linh Tứ phủ vào thân xác 
của các bà Đồng, ông Đồng để trị 
bệnh, cầu sức khỏe, tài lộc, may 
mắn” (Ngô Đức Thịnh, 2007: 7). 
Đầu thế kỷ XX, tín ngưỡng thờ Mẫu 
xuất hiện trên cao nguyên Lang Biang 
cùng với quá trình di dân lập làng, lập 
ấp của người Việt. Trải qua các giai 
đoạn lịch sử, Đà Lạt đã trở thành điểm 
dừng chân của nhiều nhóm người Việt 
đến từ những vùng miền khác nhau 
của đất nước (Xem thêm Ủy ban 
Nhân dân thành phố Đà Lạt, 2008: 
108-116). Với đặc điểm là cộng đồng 
dân cư đa dạng về xuất xứ vùng miền 
và lịch sử di cư, cộng đồng người Việt 
tại Đà Lạt đã phát triển nhiều cách 
thức văn hóa thờ Mẫu khác nhau. 
Chẳng hạn ở đây có sự song song tồn 
tại hai hình thức hầu đồng theo kiểu 
miền Bắc (sau đây gọi là hầu Bắc) và 
hầu đồng theo kiểu miền Trung (sau 
đây gọi là hầu hội/hầu Huế). Hầu Bắc 
tại Đà Lạt được thực hiện bởi các 
thanh đồng gốc miền Bắc và tiến hành 
theo nghi lễ truyền thống của khu vực 
Bắc Bộ. Hầu hội tại Đà Lạt được thực 
hiện bởi những người Việt gốc miền 
Trung và tiến hành theo nghi lễ truyền 
thống của khu vực miền Trung (với 
trung tâm là Huế). Bên cạnh những 
tương đồng về các vị thánh, lễ vật, 
trang phục hai hình thức hầu Bắc và 
* 
Trường Đại học Khoa học Đà Lạt. 
BÙI THỊ THOA – HẦU HỘI TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG 
68 
hầu Huế tại Đà Lạt vẫn có những 
điểm khác biệt. 
Từ kết quả khảo sát thực tế, bài viết 
sẽ làm rõ những đặc trưng của nghi 
thức hầu hội trong sinh hoạt tín 
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Đà 
Lạt; đánh giá những ảnh hưởng của 
nghi lễ này đối với một bộ phận người 
Việt nơi đây. 
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bài viết được thực hiện dựa trên một 
số lý thuyết nghiên cứu như: 
Lý thuyết về tính hệ thống của văn 
hóa: Lý thuyết này được nêu ra bởi 
Bonnemaison. Sau khi ông mất, các 
học trò của ông là Maud Lasseur và 
Christel Thibault đã biên tập lại thành 
công trình La géographie culturelle 
(Địa văn hóa) vào năm 2000. Theo đó, 
một hệ thống văn hóa bao gồm nhiều 
yếu tố, kiến thức, kỹ thuật, tín ngưỡng 
và không gian kết hợp hữu cơ lẫn 
nhau (Bonnemaison, 2000). Vì vậy, sự 
thay đổi ở một yếu tố trong phức thể 
đó sẽ dẫn đến sự thay đổi ở nhiều yếu 
tố khác. Vận dụng lý thuyết này có thể 
giải thích căn nguyên hình thành quan 
niệm và những nét đặc trưng khác 
biệt trong tín ngưỡng thờ Mẫu của cư 
dân miền Trung tại Đà Lạt. 
Lý thuyết về giao lưu - tiếp biến văn 
hóa: Thuyết này được các nhà nhân 
học phương Tây đưa ra vào cuối thế 
kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi tiến hành 
nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa 
của các nhóm di dân người Châu Âu 
đến Mỹ và các nhóm dân tộc thiểu số 
sống lâu đời trên đất Mỹ. Năm 1948, 
tác giả Kroeber đã đề cập đến vấn đề 
này trong công trình Anthropology: 
Race, Language, Psychology, Prehistory. 
Theo đó, kết quả của quá trình giao 
lưu - tiếp biến sẽ khiến một nền văn 
hóa bị hút vào trong nền văn hóa khác, 
hoặc bị thay đổi, hoặc cả hai cùng 
thay đổi (Kroeber, 1948). Lý thuyết 
này giúp giúp tác giả nghiên cứu và lý 
giải nguyên nhân của một số thay đổi 
trong nghi thức hầu hội tại miền Trung 
cũng như tại Đà Lạt so với nghi lễ hầu 
đồng truyền thống ở miền Bắc. 
Lý thuyết tính đồng dạng: Lý thuyết 
này được các tác giả McPherson, 
Lynn Smith-Lovin và James M. Cook 
trình bày trong Homophily in voluntary 
organizations: Status distance and the 
composition of face-to-face groups năm 
1987. Qua đó, các tác giả đã chỉ ra sự 
tương đồng để tạo ra các liên kết. Sự 
tương đồng đó có thể là về tộc người, 
nhóm tuổi, giới tính, vị thế xã hội, tôn 
giáo, giáo dục, nghề nghiệp, hành vi, 
thái độ, khả năng, niềm tin và khát 
vọng... Lý thuyết này giúp hiểu được 
những yếu tố tương đồng của các 
nhóm thành viên cùng chịu tác động 
của hầu hội tại Đà Lạt. 
Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật điền dã 
với một số phương pháp chủ yếu: 
phương pháp quan sát - tham dự (tập 
trung vào những buổi sinh hoạt tín 
ngưỡng thờ Mẫu, đặc biệt là nghi lễ 
hầu đồng tại Đà Lạt); phương pháp 
phỏng vấn sâu được thực hiện với 
tổng số 50 người vào năm 2018 tại Đà 
Lạt với đầy đủ các thành phần: thanh 
đồng, chủ đền, con nhang đệ tử Mẫu. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
69 
3. ĐẶC TRƯNG TRONG NGHI LỄ 
HẦU HỘI CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐÀ 
LẠT 
Hầu hội là một trong những biến thể 
của nghi lễ hầu đồng ở châu thổ Bắc 
Bộ. Trải qua nhiều thế kỷ phát triển, 
đến nay hầu đồng Bắc Bộ (hầu Bắc) 
với một số trung tâm như Nam Định, 
Hà Nội vẫn lưu giữ được những 
nghi lễ truyền thống, trong đó có một 
số đặc trưng nhất định: Mỗi vấn hầu 
chỉ có một thanh đồng thực hiện theo 
tuần tự các giá từ vị thánh cao nhất 
đến vị thánh cuối cùng trong điện thần 
Tứ phủ (tức là từ ba giá Mẫu đến giá 
hàng Quan, hàng Chầu, hàng Ông 
Hoàng, hàng Cô, hàng Cậu) (Xem 
thêm: Ngô Đức Thịnh, 2007: 14-25). 
Cũng có một số thanh đồng hầu thêm 
các giá Chúa Bà, các giá thuộc nhà 
Trần. Các giá Ông Hổ hoặc Ông Lốt 
thường rất ít người thực hiện. Để 
hoàn thành một vấn hầu Bắc, mỗi 
thanh đồng cần sự trợ giúp của hầu 
dâng (còn gọi là tứ trụ). “Hầu dâng 
gồm hai hoặc bốn người, hai nam và 
hai nữ là những con nhang tin thờ 
Thánh Mẫu hay người đã ra đồng, là 
học trò” (Ngô Đức Thịnh, 2007: 13). 
Họ đều là những người có hiểu biết 
nhất định về nghi lễ và khéo léo trong 
quá trình phục vụ khăn áo lễ vật cho 
người hầu. Ngoài hầu dâng còn có 
cung văn. Đây là lực lượng hỗ trợ đặc 
biệt quan trọng trong quá trình thanh 
đồng hầu thánh. Tuy nhiên trong qúa 
trình diễn xướng, cung văn phải tuyệt 
đối tuân thủ các “tín hiệu” do thanh 
đồng đưa ra khi muốn chuyển giá hầu 
hoặc muốn tăng tốc độ và âm lượng 
âm nhạc để làm vui lòng các thánh 
Họ “thường xuyên tập luyện để làm 
sao có thể ứng tác kịp thời, ăn nhịp 
với các hành động của ông Đồng, bà 
Đồng” (Ngô Đức Thịnh, 2007: 13). Một 
nội dung khác đáng chú ý trong vấn 
hầu Bắc là toàn bộ phần kinh phí của 
buổi lễ sẽ do người chủ lễ chi trả. 
Theo thống kê chưa đầy đủ của tác 
giả, hiện Lâm Đồng có 144 cơ sở thờ 
Mẫu, phân bố tại tất cả các địa 
phương. Trong đó, 14/144 cơ sở 
được thờ tự theo dạng thức miền 
Trung (do Thánh Mẫu Thiên Ya Na 
đứng đầu thần điện); 9/14 cơ sở dạng 
này tập trung tại Đà Lạt. Sinh hoạt tín 
ngưỡng chủ yếu của các cơ sở này là 
các buổi hầu hội hay hầu Huế với một 
số đặc trưng cụ thể như sau: 
3.1. Có nhiều thanh đồng trong một 
vấn hầu 
Nếu mỗi vấn hầu Bắc chỉ có duy nhất 
một thanh đồng thực hiện thì vấn hầu 
hội lại có nhiều thanh đồng cùng tham 
gia, có thể từ 3, 4, thậm chí là 10, 15 
người hoặc nhiều hơn nữa. Trong vấn 
hầu tại đền Linh Bửu, ngày 9/11/2016 
nhằm ngày 10 tháng Mười âm lịch 
(vía Ông Hoàng Mười) có 8 thanh 
đồng; lễ trình đồng cho cô L.T.B.T (cô 
đồng tại Đà Lạt được tác giả nhắc đến 
trong bài viết) ngày 25/11/2016 có 12 
thanh đồng cùng tham dự Điện thờ 
Tân Sơn Cảnh trong vấn hầu nhân dịp 
vía Mẫu ngày 31/3/2017 (tức mùng 4 
tháng Ba âm lịch) có 10 thanh đồng 
độ tuổi từ 60 - 84 cùng tham gia; ngày 
9/10/2017 (tức ngày 20 tháng Tám âm 
lịch) nhân tiệc Đức Thánh Trần có 8 
BÙI THỊ THOA – HẦU HỘI TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG 
70 
thanh đồng cùng thực hiện vấn đồng 
hầu thánh. Điện thờ Cảnh Cậu Năm 
(Đa Phú) ngày 2/4/2017 (tức mùng 6 
tháng Ba âm lịch) nhân dịp vía Mẫu 
Liễu Hạnh có 4 thanh đồng tham dự 
vấn hầu. Gần đây nhất là tại Tự Linh 
Điện, ngày 21/4/2018 (nhằm ngày 
mùng 6 tháng Ba âm lịch) trong tháng 
tiệc Thánh Mẫu có 15 thanh đồng 
cùng hầu trong một vấn. 
Một điểm đáng lưu ý là hầu hết những 
người này thường chỉ làm lễ trình 
đồng mở phủ(1) để trở thành thanh 
đồng, họ ít khi xây dựng điện thờ 
riêng như dạng thức thờ Mẫu phía 
Bắc. Do đó vào mỗi dịp lễ, các thanh 
đồng ấy lại tập trung về ngôi đền họ 
đã ra đồng để cùng hầu thánh. Đây 
chính là lý do khiến dạng thức thờ 
Mẫu miền Trung có hình thức hầu hội. 
3.2. Thay đổi thứ tự giá đồng(2) 
Các thanh đồng gốc miền Trung tại 
Đà Lạt thực hiện các vấn hầu đồng 
tuần tự theo các cõi: 
- Giá thứ nhất, đồng đền/chủ đền sẽ 
hầu vị thánh thủ điện - vị thánh được 
thờ chính tại bản điện, là người mà 
đồng đền hợp căn mạng hoặc được vị 
thánh đó cho “ăn lộc”(3). - Tiếp đến, 
các thanh đồng sẽ hầu ba giá Mẫu và 
tuần tự các cõi. 
+ Cõi Thượng Thiên: gồm các giá của 
Ngũ Bà Thượng Thiên (từ Bà Đệ Nhất 
đến Bà Đệ Ngũ); sau đó là các giá 
Tôn Ông Đệ Nhất cho đến Đệ Ngũ ở 
cõi Thượng Thiên. 
+ Cõi Trung Thiên: gồm các giá Ngũ vị 
Thánh Bà và giá Quan Đệ Tam Giám 
sát ngoại cảnh. 
+ Cõi Thượng Ngàn: gồm các giá 
Chầu (nhưng không hầu Chầu Đệ Tứ 
vì bà thuộc cõi Thoải Phủ). Sau đó là 
giá ông, Ông Bảy, Ông Chín Thượng 
Ngàn (theo quan niệm dân gian đó là 
những vị thánh cai quản vùng rừng núi). 
+ Cõi Thoải Phủ: đầu tiên là giá Chầu 
Bà Đệ Tứ, tiếp đến là Quan Lớn Đệ 
Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ, tiếp đến là 
các giá Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng 
Mười. Cuối cùng, các thanh đồng sẽ 
hầu giá các Cô, giá các Cậu và kết 
thúc buổi lễ. 
So với hầu Bắc, thứ tự các giá trong 
vấn hầu hội có nhiều khác biệt: Trong 
vấn hầu Bắc, Chầu Đệ Tứ sẽ được 
hầu cùng với các giá hàng Chầu - tức 
là sau giá các Quan Lớn và trước giá 
các Ông Hoàng; song trong hầu hội, 
bà sẽ được hầu trong cõi Thoải Phủ 
(sau tất cả các Chầu khác vì hầu hết 
các Chầu đều thuộc cõi Thượng Ngàn, 
thậm chí sau cả các giá Ông Hoàng 
Bẩy, Ông Hoàng Chín Thượng Ngàn). 
Một ví dụ khác là trong vấn hầu Bắc, 
Quan Lớn Đệ Tam và Quan Lớn Đệ 
Ngũ sẽ được hầu sau giá Mẫu; nhưng 
trong vấn hầu hội, giá hầu Quan Lớn 
Đệ Tam và Quan Lớn Đệ Ngũ lại 
được thực hiện sau giá các Chầu, giá 
Ông Hoàng. Trường hợp Ông Hoàng 
Bơ cũng thể hiện nét khác biệt rõ ràng 
giữa hai hình thức hầu đồng tại Đà Lạt 
hiện nay. Trong dòng thờ Mẫu phía 
Bắc, Ông được hầu ở giá các Ông 
Hoàng theo tuần tự từ Ông Đệ Nhất 
đến Ông Hoàng Mười; song ở hầu hội, 
Ông lại được hầu sau Ông Bảy, Ông 
Chín với lý do Ông thuộc cõi Thoải 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
71 
Phủ (mà cõi Thoải Phủ lại được hầu 
cuối cùng). 
Ngoài thứ tự giá đồng, sự xuất hiện 
thêm một số vị thánh cũng là một 
điểm khác biệt trong vấn hầu hội so 
với lối hầu Bắc. Những vị thánh ấy 
chủ yếu thuộc cõi Trung Thiên như 
Ngũ Vị Thánh Bà (Kim, Mộc, Thủy, 
Hỏa, Thổ), các vị Tôn Quan, Cô, Cậu 
ngoại cảnh 
3.3. Cung văn linh hoạt 
Khi thực hiện hầu hội, mỗi thanh đồng 
có thể mang trang phục tương ứng 
với một vị thánh nào đó (nhất là đối 
với giá Ngũ Bà cõi Thượng Thiên - từ 
Bà Đệ Nhất đến Bà Đệ Ngũ; Ngũ Bà 
cõi Trung Thiên - gồm Bà Kim, Mộc, 
Thủy, Hỏa, Thổ; giá các Chầu cõi 
Thượng Ngàn, giá các Cô) để cùng 
hầu. Trong cách hầu này, cùng một 
khoảng thời gian sẽ có nhiều vị thánh 
giáng vào các thanh đồng khác nhau. 
Do đó để có thể phục vụ tất cả các 
thanh đồng hầu thánh, cung văn 
không thể hát theo cách ra hiệu của 
từng thanh đồng (như kiểu hầu Bắc) 
mà thường chủ động trong diễn 
xướng các bài văn ca ngợi thánh Tứ 
phủ. Ví dụ trong giá hàng Cô, theo 
quan niệm dân gian thường có 12 Cô 
trong điện thần thờ Mẫu, từ Cô Cả, Cô 
Đôi cho đến Cô Bé. Khi hát văn tại 
giá này, tính chủ động của cung văn 
được thể hiện ở hai trường hợp: 
Trường hợp thứ nhất, nếu cùng lúc 
các thanh đồng chỉ hầu Cô Cả, Cô Đôi, 
Cô Ba, Cô Sáu, Cô Chín, Cô Mười, 
Cô Bé; cung văn sẽ chủ động xe giá - 
hát mời Cô Tư, Cô Năm, Cô Bảy, Cô 
Tám, Cô Mười Một theo hình thức nêu 
tên (hầu như không có lời văn ca 
ngợi). Sau đó, cung văn sẽ lần lượt 
diễn xướng tuần tự các bài hát văn ca 
ngợi Cô Cả, Cô Đôi, Cô Ba, Cô Sáu, 
Cô Chín, Cô Mười, Cô Bé với thời 
gian có thể từ vài đến vài chục phút 
cho mỗi giá. Trường hợp thứ hai, nếu 
số lượng các thanh đồng đông đảo, 
họ có thể hầu cùng một lúc cả 12 Cô. 
Trong trường hợp này, mốc thời gian 
các thánh bắt đầu giáng vào mỗi 
thanh đồng có thể không hoàn toàn 
giống nhau. Tuy nhiên cung văn 
không phải tuân theo thứ tự ra hiệu 
của từng thanh đồng để hát, họ 
thường đợi cho đến khi tất cả 12 Cô 
cùng giáng (biểu hiện ở việc tất cả các 
thanh đồng đã tung khăn phủ diện) rồi 
lần lượt diễn xướng lời văn ca ngợi từ 
Cô Cả đến Cô Bé. 
Thực tế, cung văn N.V.T (người gốc 
Huế tại Đà Lạt) cho biết, vì các tín đồ 
thờ Mẫu dạng thức miền Trung ở Đà 
Lạt hầu theo các cõi nên mỗi hàng 
thánh, người ta chỉ hầu một vài vị (các 
thanh đồng cùng hầu một lượt là hết 
một bậc/giá) chứ không tuần tự hầu 
từng vị từ đệ nhất cho tới vị cuối cùng 
trong một bậc (Chầu hoặc Ông Hoàng, 
Cô) như hầu Bắc. Do đó, cách hát văn 
trong hầu Huế cũng chủ động hơn 
trong việc sử dụng các làn điệu, bài 
bản hát văn để có thể cùng lúc phục 
vụ hết các thanh đồng với nhiều vị 
thánh cùng giáng. 
3.4. Hầu dâng - số lượng ít và không 
cần phải là thanh đồng 
Hầu dâng/tứ trụ là công việc của những 
BÙI THỊ THOA – HẦU HỘI TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG 
72 
tín đồ đạo Mẫu; do am hiểu các nghi 
thức thờ cúng, hành lễ, họ được ông 
đồng bà đồng mời giúp việc trong lễ 
lên đồng như thắp hương, dâng lễ vật, 
thay lễ phục, phát lộc cho người tham 
dự Tuy nhiên so với cách thức 
truyền thống, hầu dâng trong vấn hầu 
hội tại Đà Lạt vẫn có một số nét khác 
biệt. 
Thứ nhất, số lượng hầu dâng phục vụ 
mỗi thanh đồng thường ít và không cố 
định. Mỗi thanh đồng khi thực hiện 
hầu Bắc thường có 4 hầu dâng, trong 
khi mỗi thanh đồng hầu hội thường chỉ 
có 1 hầu dâng, thậm chí 2 hoặc 3 thanh 
đồng mới có 1 hầu dâng. Một số trường 
hợp, thanh đồng không mời hầu dâng 
mà tự xử lý các vấn đề liên quan đến 
y phục hầu để giảm bớt chi phí. 
Thứ hai, không phải hầu dâng nào 
cũng là thanh đồng. Trong hình thức 
hầu Bắc, một trong những tiêu chuẩn 
đầu tiên để trở thành hầu dâng là phải 
là thanh đồng. Tuy nhiên, hầu dâng 
trong hầu hội tại Đà Lạt không hoàn 
toàn như vậy. Một số người có thể là 
chồng, con, hoặc người thân của 
thanh đồng nhưng có một số hiểu biết 
nhất định về các giá đồng Tứ phủ. 
Trong một số trường hợp, cung văn 
cũng có thể trở thành “hầu dâng bất 
đắc dĩ”. 
 Thứ ba: Công việc chủ yếu của hầu 
dâng là phụ giúp dâng lễ vật, đạo cụ; 
điều này khác với các hầu dâng trong 
hình thức hầu Bắc (vì họ phải đảm 
nhận rất nhiều công việc, trong đó q ... ọ dễ bị trở 
lại trạng thái khủng hoảng tâm sinh lý 
ban đầu”. 
Theo bà N.T.K.C, giai đoạn 1980 đến 
1990, khi Đảng và Nhà nước chủ 
trương bài trừ mê tín dị đoan, “[t]rong 
thời gian ấy, mọi hoạt động liên quan 
đến tục thờ, nhất là hầu đồng đều bị 
ngăn cấm. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ 
Mẫu và nghi lễ hầu hội của cư dân 
gốc miền Trung tại Đà Lạt vẫn như 
một mạch nguồn âm ỉ tồn tại cho đến 
tận ngày nay. Bởi đã là thanh đồng, 
thì không thể không hầu thánh. Ít nhất 
một năm phải bắc ghế hầu từ 1 đến 2 
lần nếu không bản thân tôi cũng cũng 
như những thanh đồng khác sẽ cảm 
BÙI THỊ THOA – HẦU HỘI TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG 
76 
thấy thiếu thốn một điều gì đó rất quan 
trọng trong cuộc sống” (Phỏng vấn 
sâu, nữ thanh đồng N.T.K.C, Đà Lạt). 
Với họ, hầu đồng chính là một niềm 
hạnh phúc, nó mang đến cho họ trạng 
thái vui tươi và hưng phấn. 
- Hầu hội giúp các thanh đồng có cơ 
hội sống đúng với bản chất con người 
thật của mình: 
Khái niệm đồng bóng thường được 
dùng để chỉ những ông Đồng bà Đồng. 
Trong thực tế, nhiều người trong số 
họ là những người đồng tính. Nếu là 
nam thường có tính cách ẻo lả, giọng 
nói the thé, tay chân mềm mại, múa 
rất khéo, thích trang điểm hoặc mặc 
đồ có màu sắc sặc sỡ Nếu là nữ lại 
có giọng ồm ồm, tướng nam nhân, 
uống rượu, hút thuốc Trong quá 
trình thực hiện các vấn hầu, ngoài giá 
của các vị Thánh có cùng giới tính, 
mỗi thanh đồng còn hầu rất nhiều giá 
của các vị thánh không cùng giới tính 
với mình: chẳng hạn, các bà Đồng 
trong giá các Quan Lớn, Ông Hoàng, 
Cậu; hoặc các ông Đồng với các giá 
Chúa, Chầu, Cô. Khi thực hiện những 
giá hầu dạng này, bản thân các ông 
Đồng, bà Đồng sẽ có cơ hội thể hiện 
những tính cách bấy lâu tiềm ẩn trong 
con người của họ mà chưa hoặc ít có 
cơ hội được thể hiện trong cuộc sống 
thường nhật. 
4.1.2. Đối với các con nhang, đệ tử 
- Tạo niềm tin trong cuộc sống 
Đại đa số những người tìm đến các 
điện thờ Mẫu thường gặp những khó 
khăn hoạn nạn trong cuộc sống, 
không hạnh phúc trong hôn nhân, hay 
làm ăn thất bại Họ đến để cầu xin 
sự ban tài tiếp lộc, sự phù hộ che chở 
từ các vị thánh Tam phủ, Tứ phủ. 
Điều này có thể được giải thích theo lý 
thuyết tính đồng dạng của McPherson, 
L.S. Lovin. 
Theo quan niệm dân gian, mỗi vị 
thánh trong Tam phủ, Tứ phủ đều có 
những khả năng nhất định phù trợ cho 
con người trong mỗi lĩnh vực khác 
nhau: làm ăn buôn bán thì xin ở giá 
Chầu Đệ Nhị, công danh sự nghiệp thì 
xin ở giá Ông Hoàng Mười; muốn cắt 
duyên âm phải đợi đến giá Quan Đệ 
Ngũ Tuần Tranh,  Do đó các con 
nhang đệ tử ở Đà Lạt thường tham 
gia sinh hoạt tín ngưỡng tại các đền 
thờ Mẫu, đặc biệt là các vấn hầu hội 
để cầu xin sức khỏe, tài lộc, may 
mắn Mỗi khi các thánh giáng đồng, 
con nhang đệ tử và những người 
tham dự thường dâng lễ vật (bằng 
cách dùng tiền với số lượng tùy tâm 
cho vào chiếc dĩa nhỏ để dâng lên các 
thánh) kèm theo lời tấu xin. Sự chứng 
nhận của các thánh trong mỗi vấn hầu 
mang lại sự “đảm bảo” và sự lạc quan 
cho người tham dự về một tương lai 
tươi sáng hơn(!) 
- Nâng cao nhận thức và trân trọng 
những giá trị truyền thống của dân tộc 
Trước hết, cũng như một số hình thức 
sân khấu cổ truyền, lên đồng nói 
chung và hầu hội nói riêng có sự kết 
hợp âm nhạc, lời hát, nhảy múa, điệu 
bộ, lời nói, kịch câm, trang phục và 
các vật dụng. Tuy nhiên, điểm khác 
biệt giữa lên đồng với một số hình 
thức sân khấu truyền thống ở chỗ: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
77 
nếu sân khấu truyền thống chỉ mang 
tính giải trí thì lên đồng - còn mang lại 
giá trị tâm linh cho cả người hầu đồng 
cũng như người xem. 
Lên đồng hay hầu hội là “một nguồn 
văn hóa, là một kho tàng của nhiều 
loại hình nghệ thuật truyền thống, là 
một cái giếng văn hóa” (Proschan, 
2004: 271). Bằng việc diễn tả những 
hành động và điệu bộ đặc trưng của 
các nhân vật huyền thoại và lịch sử, 
lên đồng đã làm sống lại các nhân vật 
này. Mỗi vị anh hùng nào đó trong 
lịch sử Việt Nam đều có đền thờ 
riêng và được tái sinh trong các nghi 
lễ lên đồng như Ông Hoàng Bảy(8), 
Ông Hoàng Mười(9) Thông qua các 
giá đồng, người xem có thể liên 
tưởng những chiến công của các vị 
Thánh và những truyền thống của 
dân tộc. 
Thứ hai, hiểu thêm về những giá trị 
văn hóa vật chất và tinh thần truyền 
thống của dân tộc. 
Trong cuộc sống thường nhật hiện 
nay, những trang phục dạng cung 
đình xưa đã không còn tồn tại. Do đó, 
khi xem những vấn đồng, người xem 
được tận mắt chứng kiến những bộ 
trang phục của giới quyền quý và 
quan lại xưa. Dù hiện nay, qua sự 
sáng tạo của các nghệ nhân, trang 
phục trong các giá đồng không hoàn 
toàn giống trang phục của các quan 
lại xưa mà có phần đẹp hơn, phong 
phú. Những hoa văn được thêu trên 
áo của các vị Quan, Chầu, Ông 
Hoàng, Cô, Cậu là sự tôn vinh nghệ 
thuật thêu truyền thống của Việt Nam. 
Trong những giá hầu của các vị 
Thánh Tứ phủ, xuất thân từ dân tộc 
thiểu số (Dao, Tày, Nùng, Mường) 
người xem có thể hình dung ra trang 
phục truyền thống của một số dân tộc 
thiểu số ở miền Bắc Việt Nam - thậm 
chí cả những trang phục không còn 
sử dụng. Nhờ đó, trang phục nói riêng 
và văn hóa nói chung của các dân tộc 
thiểu số đã được lưu truyền và tái 
hiện. Đúng như nhận định của Frank 
Proschan (2004: 273): “Lên đồng đã 
tạo ra một loại “dân tộc học dân gian” 
- nơi mà ông Đồng, bà Đồng đã bộc lộ 
quan niệm về cách mà người dân tộc 
nhận biết, cách ăn mặc cũng như 
cách ứng xử. Giống như những nhà 
dân tộc học chuyên nghiệp, những 
người hầu đồng đã quan sát quần áo 
và hành vi của những người dân tộc 
láng giềng, rồi giới thiệu một số khía 
cạnh hoặc yếu tố của họ để cho người 
khác cùng chiêm ngưỡng”. 
Bên cạnh trang phục, hát văn cũng là 
một loại hình diễn xướng dân gian 
được thể hiện nhằm phục vụ cho nghi 
lễ hầu đồng. Dù không được đào tạo 
một cách bài bản, song sự biểu diễn 
của các “nghệ sĩ bình dân” trong mỗi 
vấn hầu ít nhiều đã giúp người tham 
gia được thưởng thức thể loại hát 
chầu văn, đặc biệt những điệu cờn, 
điệu xá trong các giá Chầu, giá Cô 
còn tạo ra những xúc cảm mạnh mẽ, 
sự thăng hoa cần thiết trong cuộc 
sống nhiều lo toan, vất vả. 
4.2. Một số tác động không mong 
muốn của tín ngưỡng thờ Mẫu 
Bên cạnh những tác động tích cực, nghi 
BÙI THỊ THOA – HẦU HỘI TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG 
78 
lễ hầu đồng nói chung và hầu hội nói 
riêng vẫn còn tồn tại không ít những 
ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội. Ở 
các đền thờ Mẫu, nhiều trường hợp 
khách hàng là người thường xuyên 
đau ốm, thất bại trong công việc, 
muộn vợ muộn chồng hoặc không 
hạnh phúc trong hôn nhân mỗi khi 
đến đây hay bị phán là có căn đồng. 
Thậm chí một số thầy đồng còn quan 
niệm ai cũng có căn đồng, mỗi người 
sinh ra đã hợp căn mạng với một vị 
thánh nào đó trong Tam phủ/Tứ phủ, 
chỉ là căn nặng hay nhẹ mà thôi(!) Có 
những trường hợp sau khi xem bói 
hoặc trong khi hầu đồng, thầy đồng đã 
phán truyền cho con nhang đệ tử và 
người tham dự những vấn đề như căn 
cao số nặng phải bắc ghế hầu thánh 
mới nhẹ nghiệp, hay duyên âm/tiền 
duyên rất nặng phải cắt nhiều lần với 
nhiều lễ khác nhau (xem thêm Bùi Thị 
Thoa, 2017: 50-64). 
Những lời “khuyên” như trên đã khiến 
không ít người hoang mang, thậm chí 
mù quáng tin theo dẫn đến việc phải 
đội bát nhang bản mệnh(10), nặng hơn 
là làm lễ trình đồng tiễn căn(11) hoặc 
trình đồng mở phủ trở thành thanh 
đồng khiến họ phải chịu nhiều phí 
tổn, có khi lên đến vài chục triệu đồng. 
Một số người, thậm chí xây dựng điện 
thờ và đi theo con đường làm việc 
thánh, nhưng dù vậy những bất ổn của 
bản thân vẫn không được cải thiện. 
Bên cạnh đó, với tâm lý hầu đồng sẽ 
được các thánh ban tài tiếp lộc, nên ở 
Đà Lạt hiện nay một số người có điều 
kiện kinh tế, dù không được phán có 
căn đồng, cũng thực hiện các lễ hầu 
đồng, dẫn đến tình trạng loạn đồng 
bóng mà có người gọi là đồng đua, 
đồng đú. Những vấn hầu dạng này 
đang khiến hầu hội tại Lâm Đồng mất 
đi những giá trị truyền thống tích cực 
của tín ngưỡng này. 
5. KẾT LUẬN 
Hầu hội là một trong hình thức hầu 
đồng đã và đang tồn tại trong sinh 
hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân 
Việt theo dạng thức miền Trung ở Đà 
Lạt, Lâm Đồng. Đặc trưng nổi bật của 
hầu hội là sự tham gia đông đảo của 
các thanh đồng, cách thức hầu theo 
cõi, số lượng hầu dâng ít, vàng mã 
đặc trưng là đồ chìm Từ khi tín 
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người 
Việt được UNESCO công nhận là di 
sản văn hóa thế giới, hoạt động hầu 
hội ở Đà Lạt ngày càng nhộn nhịp hơn. 
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động 
tích cực như là một phương pháp trị 
liệu giúp những người có những bất 
ổn về tinh thần, thể chất hòa nhập 
cộng đồng; giúp một số thanh đồng có 
cơ hội sống thật với tính cách bản 
thân; chuyển tải các giá trị vật chất và 
tinh thần truyền thống của dân tộc; 
hoạt động hầu hội vẫn tồn tại một số 
tác động không mong muốn. Không ít 
con nhang đệ tử trở thành nạn nhân 
của các trò lừa bịp, buôn thần bán 
thánh của một số thầy đồng kém đạo 
đức. Tình trạng biến tướng trong hoạt 
động hầu hội như đồng đua, đồng đú 
hay hầu đồng vì lợi lộc trần thế ít 
nhiều gây ảnh hưởng xấu đến sinh 
hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đà Lạt. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
79 
Để hầu đồng nói chung và hầu hội nói 
riêng tại Đà Lạt phát huy được những 
giá trị văn hóa hướng thiện, cần thiết 
phải có sự vào cuộc sát sao hơn nữa 
của các cấp chính quyền trong quản lý 
và định hướng. Cần nâng cao hiểu 
biết cho các thanh đồng và con nhang 
đệ tử về tín ngưỡng thờ Mẫu cũng 
như giá trị của nghi lễ hầu đồng; đồng 
thời có những biện pháp chế tài đủ 
mạnh đối với những người lợi dụng 
hầu đồng để trục lợi.  
CHÚ THÍCH 
(1) 
Lễ trình đồng mở phủ: Những người có căn đồng ra trình đồng trong khóa lễ trình các giá 
hàng Quan Lớn giáng ứng đồng thầy để làm các thủ tục khai phủ gọi là trình đồng mở phủ. 
Sau lễ này, họ có thể mở phủ riêng để tự mình làm việc thánh và trở thành các thầy đồng 
thực sự. 
(2) 
Giá đồng: là khoảng thời gian từ khi thánh “nhập” đến lúc thánh “thăng” khỏi thân xác ông 
đồng, bà đồng. Do đó, một vấn hầu/buổi hầu có bao nhiêu vị thánh “về” thì có bấy nhiêu giá. 
(3) 
Ăn lộc: Đây là khái niệm dùng để chỉ một người nào đó hợp căn mạng với một vị thánh 
trong Tam phủ hoặc Tứ phủ, được vị thánh đó ban cho những năng lực siêu nhiên, có khả 
năng đoán định nhìn thấu được quá khứ, tương lai, vận mệnh của người khác 
 (4) 
Vấn hầu lễ: Là vấn hầu được tổ chức vào bất cứ ngày nào trong tháng (có thể trùng với 
ngày húy kỵ hoặc đản sinh của vị thánh nào đó trong Tam phủ, Tứ phủ). Trong vấn hầu này, 
các đồng thầy thường thực hiện một số công việc cho các con nhang đệ tử như trình đồng 
mở phủ, trình đồng tiễn căn, cắt duyên âm, trả nợ tào quan cho khách hàng. 
(5) 
Vấn hầu vui: Được tổ chức vào các ngày đản sinh hay húy kỵ của vị thánh nào đó trong 
Tam phủ, Tứ phủ. Mục đích của nghi lễ này nhằm tưởng nhớ và tri ơn đối với các Thánh. 
(6) 
Chủ lễ: Có thể là đồng đền/chủ đền hoặc khách hàng có nhu cầu muốn nhờ các ông đồng 
bà đồng thực hiện nghi lễ nào đó mà cần có sự giáng đồng chứng tâm của các thánh thông 
qua lễ hầu đồng như lễ trình đồng mở phủ, lễ trình đồng tiễn căn, lễ phả độ gia tiên, hoặc 
cắt giải tiền duyên. 
 (7) 
Chấm đồng: Khi các thánh về giáng đồng trong mỗi vấn hầu thường có những động tác 
múa kèm với những đạo cụ đặc trưng cho mỗi giá. Trong số những người tham dự, nếu các 
thánh nhận thấy có đệ tử nào phù hợp với họ, thanh đồng (bấy giờ chính là vị thánh) sẽ 
dùng đạo cụ đang múa để ban cho người ấy. Chẳng hạn trong giá Ông Hoàng Bẩy, khi Ngài 
về giáng và chấm đồng sẽ sử dụng chiếc hèo để ban cho một hoặc một số người tham dự. 
Người nào nhận được hèo có nghĩa là đã được Ông Hoàng Bảy chấm đồng. 
(8) 
Ông Hoàng Bảy: Vào cuối đời Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786), khắp vùng Quy Hóa 
gồm Châu Thủy Vỹ và Châu Văn Bàn (thuộc Lào Cai bây giờ) luôn bị giặc phương Bắc tràn 
sang cướp phá, giết hại dân lành. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Nguyễn 
Hoàng Bảy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của 
ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây 
dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến không cân sức với quân giặc, ông đã 
anh dũng hy sinh, thi thể ông trôi theo dòng sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân 
trong vùng đã vớt, an tang thi thể ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của 
ông (dẫn theo daomauvietnam.net.vn, 2017). 
BÙI THỊ THOA – HẦU HỘI TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG 
80 
(9) 
Ông Hoàng Mười: Theo một số đền thờ vùng Nghệ Tĩnh, ông được coi là Lê Khôi, vị 
tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống 
quân Minh. Vì thế, ông được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”. 
 (10) 
Đội bát nhang bản mệnh: là nghi lễ dành cho những người hợp căn mạng một vị thánh 
nào đó trong Tam phủ, Tứ phủ, thường bị đau ốm không rõ nguyên nhân (dân gian thường 
gọi là “ốm đứng”). Họ được các đồng đền/chủ đền lập cho bát nhang và cho vào đội để trình 
trong giá của vị thánh mà họ hợp căn mạng. Bát nhang ấy sẽ được thờ trong điện để các 
thánh che chở. 
(11) 
Trình đồng tiễn căn: những người có căn đồng nhưng chưa có duyên hoặc mắc các bệnh 
trạng không phù hợp với việc múa đồng (mất chân, gẫy tay), tuổi cao, già yếu và một số 
người có hoàn cảnh đặc biệt khác đều có thể xin tiễn căn để yên bản mệnh, không phải 
trình hầu. Sau khi làm lễ tiễn căn xong, họ được xem là không còn mang mệnh đồng nữa, 
cuộc sống sẽ như những người bình thường khác. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bùi Thị Thoa. 2017. “Cắt tiền duyên trong nghi lễ lên đồng của người Việt ở Lâm 
Đồng”. Tạp chí Khoa học xã hội (TPHCM), số 9. 
2. Daomauvietnam.net.vn. 2017. “Đền Bảo Hà và sự tích ông hoàng Bảy”. 
 truy cập 
ngày 5/7/2018. 
3. Bonnemaison. J. 2000. La géographie culturelle (do Maud Lasseur và Christel 
Thibault biên tập). Paris. 
4. Kroeber. A. L. 1948. Anthropology: Race, Language, Psychology, Prehistory. New 
York and Burlingame: Harcourt, Brace & World, Inc. 
5. Ngô Đức Thịnh. 2007. Lên đồng - Hành trình của thần linh và thân phận. TPHCM: 
Nxb. Trẻ. 
6. Nguyễn Hữu Thông. 2001. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam. Huế: Nxb. 
Thuận Hóa. 
7. Nguyễn Kim Hiền. 2004. “Lên đồng ở Việt Nam một sinh hoạt văn hóa tâm linh mang 
tính trị liệu”, trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam 
và Châu Á. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
8. McPherson, Lynn Smith-Lovin and James M. Cook. 1987. “Homophily in Voluntary 
Organizations: Status Distance and the Composition of Face-to-Face Groups”, 
American Sociological Review. 
9. Proschan, Frank. 2004. “Lên đồng (Hầu bóng) - Kho tàng sống của di sản văn hóa 
Việt Nam”, trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và 
Châu Á. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
10. Trần Đại Vinh. 1995. Tín ngưỡng dân gian Huế. Huế: Nxb. Thuận Hóa. 
11. Trần Đại Vinh. 2017. “Tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Thừa Thiên Huế”. Tạp chí 
Nghiên cứu và Phát triển, số 1. 
12. Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Lạt. 2008. Địa chí Đà Lạt. TPHCM: Nxb. Tổng hợp. 

File đính kèm:

  • pdfhau_hoi_trong_thuc_hanh_tin_nguong_tho_mau_cua_nguoi_viet_o.pdf