Góp thêm vài suy nghĩ về vị trí, lịch sử một số địa danh ở Nam Bộ xưa và nay

Lịch sử vùng đất Nam Bộ từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà

khoa học trong và ngoài nước. Sự tồn tại của vương quốc cổ Phù Nam gắn liền với nền

văn hóa Óc Eo, quá trình khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi, khẳng định chủ quyền về

phía Nam, các chính sách phát triển kinh tế của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn,

của lưu dân Việt, là những vấn đề được nghiên cứu khá nhiều. Bài viết này góp thêm

cách nhìn về vấn đề tồn tại và biến mất của vương quốc cổ Phù Nam, sự tồn tại của cư dân

Phù Nam cổ sau khi vương quốc cổ Phù Nam biến mất. Ngoài ra, bài viết cũng góp phần

giải thích về một số tên gọi của các địa danh gắn liền với lịch sử Nam Bộ xưa và nay, như

Cần Giờ, Đồng Nai, Sài Gòn, Bến Nghé,.

pdf 11 trang kimcuc 4660
Bạn đang xem tài liệu "Góp thêm vài suy nghĩ về vị trí, lịch sử một số địa danh ở Nam Bộ xưa và nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Góp thêm vài suy nghĩ về vị trí, lịch sử một số địa danh ở Nam Bộ xưa và nay

Góp thêm vài suy nghĩ về vị trí, lịch sử một số địa danh ở Nam Bộ xưa và nay
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân và tgk 
98 
GÓP THÊM VÀI SUY NGHĨ VỀ VỊ TRÍ, LỊCH SỬ 
MỘT SỐ ĐỊA DANH Ở NAM BỘ XƯA VÀ NAY 
GÓP THÊM VÀI SUY NGHĨ VỀ VỊ TRÍ, LỊCH SỬ MỘT 
SỐ ĐỊA DANH Ở NAM BỘ XƯA VÀ NAY 
NGUYỄN ĐỨC QUÂN và TRẦN VĨNH THANH 
 ThS. Trường Đại học Văn Lang, Email:nguyenducquan@vanlanguni.edu.vn 
 CV. Nguyên tổ trưởng tổ Lịch sử Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố 
Hồ Chí Minh 
TÓM TẮT: Lịch sử vùng đất Nam Bộ từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà 
khoa học trong và ngoài nước. Sự tồn tại của vương quốc cổ Phù Nam gắn liền với nền 
văn hóa Óc Eo, quá trình khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi, khẳng định chủ quyền về 
phía Nam, các chính sách phát triển kinh tế của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, 
của lưu dân Việt,là những vấn đề được nghiên cứu khá nhiều. Bài viết này góp thêm 
cách nhìn về vấn đề tồn tại và biến mất của vương quốc cổ Phù Nam, sự tồn tại của cư dân 
Phù Nam cổ sau khi vương quốc cổ Phù Nam biến mất. Ngoài ra, bài viết cũng góp phần 
giải thích về một số tên gọi của các địa danh gắn liền với lịch sử Nam Bộ xưa và nay, như 
Cần Giờ, Đồng Nai, Sài Gòn, Bến Nghé,... 
Từ khóa: Nam Bộ, Phù Nam, Cần Giờ, Đồng Nai, Sài Gòn, Bến Nghé. 
ABSTRACTS: Lịch sử vùng đất Nam Bộ từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà 
khoa học trong và ngoài nước. Sự tồn tại của vương quốc cổ Phù Nam gắn liền với nền 
văn hóa Óc Eo, quá trình khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi, khẳng định chủ quyền về 
phía Nam, các chính sách phát triển kinh tế của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, 
của lưu dân Việt,là những vấn đề được nghiên cứu khá nhiều. Bài viết này góp thêm 
cách nhìn về vấn đề tồn tại và biến mất của vương quốc cổ Phù Nam, sự tồn tại của cư dân 
Phù Nam cổ sau khi vương quốc cổ Phù Nam biến mất. Ngoài ra, bài viết cũng góp phần 
giải thích về một số tên gọi của các địa danh gắn liền với lịch sử Nam Bộ xưa và nay, như 
Cần Giờ, Đồng Nai, Sài Gòn, Bến Nghé,... 
Key words: Nam Bộ, Phù Nam, Cần Giờ, Đồng Nai, Sài Gòn, Bến Nghé. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
“Lịch sử Việt Nam cần được quan 
niệm là lịch sử của tất cả các cộng đồng cư 
dân đã từng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam 
hiện nay dù có bộ phận cư dân trong thời 
gian nào đó thuộc một quốc gia khác. Với 
quan niệm như vậy, ngoài dòng lịch sử từ 
Văn Lang - Âu Lạc dẫn đến Việt Nam, còn 
phải tính đến dòng lịch sử Champa dẫn đến 
Việt Nam và dòng lịch sử Phù Nam dẫn 
đến Việt Nam 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
99 
Hơn nữa văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa 
Óc Eo và những dòng văn hóa kế tục là 
những bộ phận tạo thành của di sản văn 
hóa Việt Nam” [17, tr.459-460]. Do đó, 
Nam Bộ có vị trí vô cùng quan trọng 
trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Lịch sử 
vùng đất này trở thành đối tượng nghiên 
cứu của nhiều nhà khoa học trong và 
ngoài nước. Là những người con của 
vùng đất Nam Bộ mến yêu, chúng tôi 
mong muốn góp phần "giải mã" một số 
địa danh gắn liền với lịch sử của vùng đất 
Nam Bộ. Các vấn đề được đề cập gắn liền 
với lịch sử vương quốc cổ Phù Nam - một 
phần không thể thiếu của lịch sử Nam Bộ, 
cùng một số địa danh vẫn còn được sử 
dụng ở Nam Bộ nước ta ngày nay. 
2. NỘI DUNG 
Từ thế kỉ I đến thế kỉ VI, Nam Bộ là 
một phần lãnh thổ chủ yếu của vương quốc 
cổ Phù Nam (một quốc gia Ấn Độ hóa, ra 
đời sớm ở Đông Nam Á). "Một bộ lạc của 
nhóm Môn cổ - Nam Á đã rời nam Trường 
Sơn" (phải chăng đây là nhóm người Mạ, 
chủ nhân của Thánh địa Nam Cát Tiên?), 
"tiến xuống gần biển, gặp người Biển - 
Nam Đảo, cùng nhau cộng cư, xây dựng 
quốc gia mới, có tên là Pnong (Bnơm), tên 
phiên âm theo chữ Hán là Phù Nam". Như 
vậy, Phù Nam chỉ là tên phiên âm, không 
có nghĩa là "Đất nổi" [14, tr.39]. 
Nhiều sử liệu cho biết, nước Phù Nam 
đã cai quản cả một vùng rất rộng lớn, nếu 
chỉ giới hạn trong vùng lãnh thổ nước Việt 
Nam, thì gồm cả Nam Bộ hiện nay. Nhưng 
vua Phù Nam cai trị như thế nào với một 
vùng lãnh thổ rộng lớn như thế? Với năng 
lực quản lý vào thời điểm đó, chắc chắn 
rằng vua Phù Nam phải cai trị thông qua 
một số tiểu quốc, với hình thức cống 
nạp."Kinh đô của Phù Nam là Angkor 
Borei Toàn bộ vùng núi, làng mạc và 
kinh thành này nằm trên một vùng đất 
thuộc huyện Kirivông (tỉnh Tà Keo, nay đổi 
là tỉnh Kirivong của Campuchia) Quốc 
gia Phù Nam không thể không gắn với hệ 
thống rạch biển, với trục kênh chính đông - 
tây trên miền tây sông Hậu, đầu tây là 
Angkor Borei và đầu đông là cảng thị Óc 
Eo" [14, tr.43]. 
Đoạn bia ký tại Gò Tháp chứng minh 
rằng, mãi đến cuối thế kỷ thứ V, Phù Nam 
mới quản lý được vùng Gò Tháp. "Nội 
dung của bia ký K5 (tại Gò Tháp) cho 
chúng ta biết vị Thái tử Phù Nam 
Gunavarman (con vua Jayavarman) với 
chiến công trị thủy của mình, Ngài xứng 
đáng được xem như là một vị "Tiền hiền" 
đầu tiên của Gò Tháp đưa kinh tế của 
vùng đất "chinh phục từ đầm lầy" phát 
triển Đó chính là những cơ sở vật chất, 
những tiền đề để xây dựng Gò Tháp thành 
một trong những trung tâm tôn giáo tín 
ngưỡng lớn của vương quốc Phù Nam lúc 
bấy giờ. 
Vua Jayavarman làm vua Phù Nam 
trong khoảng thời gian từ năm 470-513. 
Phân tích C14 cho niên đại sớm nhất của 
khu di tích Gò Tháp vào khoảng thế kỷ thứ 
II trước Công nguyên, như vậy Gò Tháp đã 
được người Phù Nam khai hoang từ rất 
sớm nhưng mãi đến triều vua Jayavarman 
thì chính sách quản lý hành chánh của 
vương quốc vẫn chưa được thiết lập một 
cách chặt chẽ ở nơi đây. Vì vậy, vua 
Jayavarman mới cử con trai của mình đến 
cai quản Gò Tháp" [8, tr.92-93]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân và tgk 
100 
Trong thời đế quốc La Mã phát triển, 
một nền kinh tế biển cũng đã phát triển từ 
Tây sang Đông. 
Có thể nước Phù Nam cường thịnh 
cũng song hành với thời đế quốc La Mã đi 
tìm hương liệu của phương Đông bằng con 
đường ven biển, nên nhà địa dư học người 
Ai Cập gốc La Mã Claudius Ptolémée đã 
viết trong bộ Geographica, vào khoảng cuối 
thế kỷ II, những giao lưu giữa La Mã và 
vùng Đông Nam Á, với những địa danh mà 
tới nay đã có nhiều nhà nghiên cứu cố gắng 
giải mã nhưng cũng chưa có thể khẳng định 
được cụ thể đó là vùng nào hiện nay. 
Trong số những thương điếm, vùng đất 
mà Claudius Ptolémée đã viết, có Thinai. 
Địa danh Thinai được "Louis Malleret xác 
định ở vùng ven biển Nam Bộ ngày nay, 
hoặc ở gần Sài Gòn hoặc ở gần Bà Rịa." 
[10, tr.16-17]. 
Ngày nay, những công trình khảo cổ 
của các nhà khảo cổ trong và ngoài nước đã 
cho phép chúng ta suy đoán rằng, địa danh 
Thinai chính là cảng Cần Giờ. Theo đó, 
"Dân cư ở vùng quanh Cần Giờ là cư 
dân khai thác tài nguyên tự nhiên vùng sinh 
thái rừng sác chế tạo đồ gốm để trao đổi 
với bên trong và bên ngoài, buôn bán bằng 
thuyền với trong nội địa và ngoài tây Ấn 
Độ Dương - nam Thái Bình Dương. Họ lệ 
thuộc - giao lưu với vùng trên/trong nội địa 
bởi lúa gạo và nước ngọt (thuyền lên đến 
Cai Vạn mới có nước ngọt), họ có thể bán 
ngược sông tôm cá - hải sản nói chung và 
đồ gốm Cần Giờ - ở miền Đông - cũng 
như Óc Eo - ở miền Tây (Kiên Giang) là 
những cảng thị quốc tế ở trước sau Công 
nguyên cùng với Hội An - Chiêm cảng 
Chămpapura cổ - ở miền Nam Trung Bộ." 
[3, tr.223-234]. 
Như vậy, vương quốc Phù Nam ngoài 
việc có ít nhất hai cảng thị quan trọng là Óc 
Eo và Cần Giờ (phát triển nhờ nền kinh tế 
hướng biển), còn có ít nhất bốn trung tâm 
hành chánh - quyền lực (được biểu hiện 
qua các trung tâm tôn giáo): 
Khu vực Sài Gòn - Gia Định, có thể là 
"khu rừng" từ khoảng cầu Ông Buông qua 
Gò Cây Mai - Chùa Gò - Trường đua Phú 
Thọ đến đường Cách mạng tháng Tám và 
có thể xa hơn nữa; 
Khu vực Bình Tả (ấp Bình Tả, xã Ðức 
Hòa Hạ, huyện Ðức Hòa, tỉnh Long An); 
Khu vực Gò Tháp (xã Tân Kiều, huyện 
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp); 
Khu vực Thánh địa Nam Cát Tiên (tả 
ngạn sông Đồng Nai từ xã Quảng Ngãi đến 
xã Đức Phổ và Gia Viễn, huyện Cát Tiên - 
tỉnh Lâm Đồng). 
Chính vì có nhiều trung tâm hành 
chánh - tôn giáo, nên khi nước Phù Nam 
suy vong và bị nước Chân Lạp thôn tính, 
rất nhiều vấn đề nan giải, cần phải giải 
thích là: nước Phù Nam mất hẳn hay vẫn 
tồn tại với nhiều tiểu quốc? Và những tiểu 
quốc này độc lập hay phải cống nạp nước 
Chân Lạp, nhất là dưới thời nước Chân Lạp 
phát triển mạnh và “ham chiến trận nhất 
Đông Nam Á” [20, tr.51]. 
Đến thế kỷ VII, vương quốc Chân Lạp 
(ở vùng Nam Lào) tiêu diệt vương quốc 
Phù Nam và tranh chấp vùng Nam Bộ 
(ngày nay) với vương quốc Champa. Tác 
giả Lương Ninh cho rằng: "Vua (Phù Nam) 
cai trị ở thành Đặc Mục (Angkor Borei), 
bỗng chốc (bị Bhavavarman), vua nước 
Chân Lạp xâm chiếm (khoảng năm 611), 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
101 
phải di chuyển sâu về phía nam, đến thành 
Na Phất Na, tức Naravaranagara (đoán là 
địa bàn quanh núi Ba Thê - Óc Eo), tiếp tục 
trị vì khoảng 40 năm nữa, nơi kênh rạch 
chằng chịt, ngập nước, khó đi, khó đến, 
được gọi tên mới là Naravaranagara - 
Nước Chí Tôn. 
 Vua Chân Lạp chiếm được kinh đô 
Phù Nam nhưng không lập kinh đô của 
mình trên địa điểm này mà chỉ xây đền, 
dựng bia rồi thì rút về gần đất gốc của 
mình, trên bờ đông bắc Biển Hồ, gần trung 
lưu sông Mê Kông, nay là tỉnh Kompong 
Thom, ở địa điểm Sambor Prei Kuk lập 
kinh đô và xây đền thờ." [14, tr.154-155]. 
Nhưng, có phải vua Phù Nam chuyển 
kinh đô đến vùng quanh núi Ba Thê - Óc 
Eo hay đến một nơi nào khác, xa hơn và có 
địa hình hiểm trở hơn? Lòng đất đã hé lộ 
một chút lịch sử: "Tại di chỉ Bình Tả (tỉnh 
Long An), đã khai quật được một quần thể 
kiến trúc và một khu mộ táng Óc Eo quan 
trọng. Một hiện vật phát hiện trong tầng 
văn hóa có mang tên Bhavavarman, hoàng 
thân Phù Nam, viết bằng chữ Phạn cổ: đây 
là một cứ liệu chính xác cho phép gắn liền 
văn hóa khảo cổ Óc Eo với vương quốc 
Phù Nam trong lịch sử" [6]. 
Theo tác giả Lý Tùng Hiếu, "vào 
khoảng năm 650, vương quốc Chân Lạp 
tiêu diệt Phù Nam. Nền văn hóa Óc Eo vẫn 
còn tiếp diễn ở một số nơi trên đồng bằng 
sông Cửu Long nhưng đến cuối thế kỷ VIII 
thì tàn lụi hẵn, trùng hợp với các cuộc tấn 
công tàn phá của người Java” [13, tr.16]. 
Câu hỏi được đặt ra là, nền văn hóa Óc 
Eo có thể bị lụi tàn, nhưng người dân nước 
Phù Nam có biến mất hay không? 
Qua các sử liệu của Trung Quốc, 
chúng ta thấy nước Phù Nam bị Chân Lạp 
xâm chiếm vào khoảng năm 611, nhưng 
nước Phù Nam vẫn tiếp tục tồn tại một thời 
gian sau đó. Sử liệu của Trung Quốc ghi 
nhận sự tồn tại của vương quốc Phù Nam 
lần cuối vào năm 650. 
Theo suy luận chủ quan của chúng tôi, 
vua Phù Nam chạy về "nơi kênh rạch 
chằng chịt, ngập nước, khó đi, khó đến" 
chính là khu rừng ở vùng Sài Gòn - Gia 
Định mà dân Phù Nam gọi là Prei Nokor, 
với tên nước, theo sử Trung Hoa ghi là Thù 
Nại (Chu Nại, theo Lương Văn Lựu) [1]. 
Vùng Prei Nokor kết hợp với vùng Bình Tả 
(ấp Bình Tả, xã Ðức Hòa Hạ, huyện Ðức 
Hòa, tỉnh Long An) và Gò Tháp (xã Tân 
Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp) 
tạo nên thế chân vạc giúp cho nước Thù 
Nại tồn tại đến thế kỷ XVII, mặc dù ngày 
càng suy yếu hơn. 
Trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, có 
nhiều dấu tích khảo cổ học liên quan đến 
sự tồn tại ở vùng đất này một thành phổ cổ, 
một trung tâm quan trọng trong thời kỳ văn 
hóa Óc Eo - hậu Óc Eo. 
* Tại Trường đua Phú Thọ qua những 
hình ảnh chụp từ máy bay xuống cho thấy 
dấu vết của một khu cư trú cổ rộng lớn, 
gồm những đường thẳng đan chéo hình bàn 
cờ như những con đường của một thành 
phố. Đó là nhận định ban đầu của L. 
Malleret về khu di tích lớn này. 
* Di chỉ Chùa Gò (Phụng Sơn Tự - 
Quận 11 – Thành phố Hồ Chí Minh) có 
niên đại từ thế kỷ thứ V về sau. 
* Nhiều dấu tích, di vật của một kiến 
trúc khá lớn cũng được ghi nhận ở Gò Cây 
Mai (Quận 11 - Thành phố Hồ Chí Minh). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân và tgk 
102 
Trên một gò đất lúc trước có lẽ có hào bao 
quanh, nền móng của một kiến trúc cổ còn 
nhận rõ vào giữa thế kỷ XIX. Theo Trịnh 
Hoài Đức, năm 1816, khi đào đất để trùng 
tu ngôi chùa, người ta đã gặp nhiều di vật 
thời cổ xưa (thời Óc Eo - hậu Óc Eo) [9, 
tr.122-133]. 
 Có thể một nhánh của nước Phù Nam 
đã lui về vùng bản địa của mình, vùng rừng 
núi mà ngày xưa họ đã từ đó phát triển 
xuống vùng biển, đó là Thánh địa Nam Cát 
Tiên, nơi mà các nhà khoa học Việt Nam 
vẫn đang tranh cãi: ai là chủ nhân của 
Thánh địa Nam Cát Tiên? Tiểu quốc này 
lúc bấy giờ đang trong quá trình suy yếu rất 
nhanh, nhưng vẫn tồn tại tới ngày người 
Pháp đánh chiếm miền Nam nước ta. 
Về tên gọi Phù Nam, chúng tôi 
nghiêng về quan điểm của tác giả Nguyễn 
Công Tài: "Đồng có gốc là Đờng (chứ 
không phải cái nghĩa theo từ nguyên dân 
gian là đồng ruộng). Nai không có nghĩa là 
con nai và Đồng Nai cũng không có nghĩa 
là cánh đồng nhiều nai ra gặm cỏ. Đồng 
Nai có ngữ nguyên Nam Á Đờn - N' gai 
cũng như Sài Gòn, Sài Côn, Thày Gòn 
không phải là vùng lắm cây gòn mà bắt 
nguồn từ Prey Nokor của ngữ hệ Nam Á 
[3, tr.215-216]. Theo suy luận của chúng 
tôi, nhóm người Môn (Nam Á) từ nam 
Trường Sơn xuôi ra biển, cộng cư với 
người Nam Đảo, họ vẫn mang theo trong 
tâm thức dòng sông lớn: Đờn - N' gai, đó 
cũng là tên gọi nước của họ, trước sau cũng 
vẫn là một tên. Tuy nhiên, khi phiên âm 
qua sử liệu Trung Quốc, do cách phiên âm 
khác nhau vào những thời gian khác nhau 
mà có thể phát sinh những tên gọi khác 
nhau làm chúng ta ngày nay khó định danh 
chính xác tên gọi của một số vương quốc 
cổ đã từng xuất hiện, tồn tại trên vùng đất 
Nam Bộ. Do đó, Phù Nam, Thù Nại hay 
Chu Nại (theo Lương Văn Lựu) hoặc Nông 
Nại cũng chỉ là những tên gọi khác nhau 
của một nước Đờn - N' gai. 
Còn lưu dân người Việt, khi đến vùng 
đất Nam Bộ sống chung với người Phù 
Nam cổ vào khoảng nửa sau thế kỷ XVI đã 
phiên âm Đờn - N' gai thành Đồng Nai. 
Chúng tôi xin nhấn mạnh, với người Phù 
Nam cổ chứ không phải với người Chân 
Lạp hoặc những tên gọi khác của người 
Chân Lạp như Khmer, Cambốt, Cao Miên 
như sử Việt và Miên đều ghi. 
Tác giả Vương Hồng Sển đã có một 
nhận xét khá thú vị: "người Khmer sanh đẻ 
tại Nam Việt, phát âm không y giọng trên 
Nam Vang Đối với người Khmer, trên 
Nam Vang, dùng nhiều chữ "r" có thể nói 
mỗi tiếng nói, gần như mỗi có đánh lưỡi. 
Trái lại miền Nam Lục tỉnh, dân Khmer 
nuốt gần mất chữ "r" [15]. Đây là một hiện 
tượng ngôn ngữ vẫn còn xuất hiện vào đầu 
thế kỷ XX. Như vậy, vào thế kỷ XVI, chắc 
rằng những sự khác nhau còn lớn hơn 
nhiều. Người Phù Nam, sau gần một ngàn 
năm sống gần với người Chân Lạp, đất 
nước lại không có điều kiện phát triển nên 
bị đồng hóa với người Chân Lạp (họ bị 
đồng hóa chứ không biến mất) và lưu dân 
người Việt khi vào Nam Bộ sinh sống vẫn 
nghĩ đó là người Chân Lạp. 
Như vậy, “về cơ bản, sứ mệnh lịch sử 
của vương quốc Phù Nam đã kết thúc vào 
thế kỷ VI, nhưng đó không phải là sự triệt 
tiêu tuyệt đối. Đế chế trung tâm không còn 
nữa, nhưng các tiểu quốc của Phù Nam vẫn 
có thể duy trì được quyền lực, đồng thời 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
103 
tiếp tục tồn tại trong một thời gian tương 
đối lâu dài” [18, tr.369]. “Nhiều khả năng 
việc quản lý xứ Thủy Chân Lạp vẫn phải 
giao cho những người thuộc dòng dõi quý 
tộc, quan lại thuộc vương quốc Phù Nam 
trước đây” [19, tr.23], [18, tr.338]. 
“Trong ... ày: 
" rồi từ Chiêm Thành xuôi gió chừng 
nửa tháng đến Chân Bồ (bờ biển Bà Rịa), 
đó là biên giới của nước ấy. Lại từ Chân 
Bồ (Bà Rịa) đi theo hướng kim khôn thân 
(hướng Tây Nam và 1/3 Tây) qua biển Côn 
Lôn vào cảng. Có đến mười cảng nhưng chỉ 
có cảng thứ tư (cửa sông Tiền Giang đi vào 
Mỹ Tho) là có thể vào được, tất cả các 
cảng khác đều bị cát làm cạn nên thuyền 
lớn không vào được. Nhưng đứng xa mà 
trông đều thấy mây leo, cây già, cát vàng, 
lau trắng, thảng thốt nhìn qua thật không 
dễ phân biệt Từ chỗ vào Chân Bồ (Bà 
Rịa) trở đi, phần lớn là rừng thấp cây rậm. 
Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm dặm 
cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim 
muông chen lẫn nhau ở đó. Đến nửa cảng 
mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không 
có một tấc cây. Nhìn ra xa chỉ thấy cây lúa 
(hòa thử) (Lê Hương dịch là "cây cỏ") rờn 
rờn mà thôi. Trâu rừng hợp thành từng đàn 
trăm, ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng 
đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm. 
Loại tre đó đốt có gai, măng rất đắng. Bốn 
mặt đều có núi cao" [2, tr. 20-37-38]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân và tgk 
104 
Tác giả Lý Tùng Hiếu đã trình bày cụ 
thể hơn: "Mặc dù vào đầu thế kỷ VIII đã có 
chứng tích về sự hiện diện của người Chân 
Lạp trên đồng bằng Nam Bộ, nhưng tình 
trạng chung của toàn vùng kể từ thời điểm 
đó là hoang phế. 
Người Khơ-me chỉ thực thụ định cư ở 
Nam Bộ từ đầu thế kỷ XVI, tức là sau khi 
vương quốc Chân Lạp bị người Xiêm tấn 
công, phải dời đô đến Phnom Penh vào 
năm 1434, rồi dời đến Lovek vào năm 
1539, và chuyển trọng tâm đất nước từ tây 
bắc xuống đông nam Biển Hồ. Khi đến 
Nam Bộ, theo truyền thống, nơi người Khơ-
me chọn để định cư là các vùng đất cao, 
tạo thành các khu vực cư trú tập trung ở 
Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang và rải rác ở 
các nơi khác. Tóm lại, vào đầu thế kỷ XVI, 
ngoại trừ vùng thềm cao nguyên nơi các 
tộc người bản địa Xtiêng, Chơ-ro, Mạ cư 
trú, phần còn lại của vùng đất Nam Bộ, 
đều là hoang hóa. Kể từ thời điểm đó, các 
cộng đồng lưu dân người Khơ-me, người 
Việt, người Hoa, người Chăm mới nối tiếp 
nhau tiến vào Nam Bộ, chia nhau khai 
khẩn, đào kinh, canh tác, định cư, buôn 
bán, dần dần biến một vùng đất hoang vu 
rộng lớn thành những vùng nông nghiệp 
trù phú và những đô thị sầm uất" [13, tr. 
16-17-19]. 
Năm 1620, chúa Nguyễn Phước 
Nguyên gả công nữ Ngọc Vạn cho vua 
Chân Lạp – Chey Chetta II. Sau hôn lễ, 
chúa Nguyễn gửi quân sang giúp vua Chân 
Lạp đánh thắng quân Xiêm xâm lăng. 
Chiến thắng này đã nâng cao uy tín của vua 
Chân Lạp – Chey Chetta II vì: "Chính nhờ 
sự hỗ trợ của chúa Nguyễn mà năm 1621-
1623, Campuchia đã đánh bại cuộc xâm 
lược của Xiêm. Và đây là chiến thắng đầu 
tiên của Campuchia trước quân Xiêm trong 
suốt 100 năm. Sự kiện quan trọng này là 
tiền đề để người Campuchia cởi bỏ ách đô 
hộ của Xiêm, không triều cống, không gửi 
con tin sang Xiêm nữa Chính thời kỳ này, 
năm 1623, Chey Chetta II đã dời đô về 
Phnôm Pênh" [16]. 
Để trả ơn, vua Chân Lạp cho phép 
người Việt đến khai hoang tại vùng Thủy 
Chân Lạp. Tác giả Nguyễn Đình Đầu đã 
trích từ lịch sử Cao Miên đoạn ghi chép 
quý giá sau: "Vào Phật lịch 2167, Công 
nguyên là 1623, một sứ thần của vua An 
Nam đem quốc thư tới vua Cao Miên là 
Prea Chey Chessda, với nội dung vua An 
Nam ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và 
Kas Krobey (Sài Gòn và Bến Nghé) của 
Cao Miên để lập các trạm thuế thương 
chính. Sau khi tham khảo triều đình, Chey 
Chessda thuận theo ý vua An Nam và gởi 
cho vua này một quốc thư bằng lòng như 
yêu cầu. Do đấy, vua An Nam lệnh cho 
quan chức thương chính đến trú đóng tại 
Prei Nokor và Kas Krobey, và từ đó, thi 
hành việc thu các sắc thuế thương chính" 
[6, tr.147]. 
Tóm lại, năm 1623, vua Chân Lạp thỏa 
thuận cho chúa Nguyễn Phước Nguyên 
thiết lập hai đồn thu thuế tại Kas Krabey 
(tức Bến Nghé, ngã ba rạch Bến Nghé - 
sông Sài Gòn) và Prey Nokor (người Việt 
đọc trại thành Rài Gòn rồi Thày Gòn, sau 
chuyển thành Sài Gòn. Đây có thể là vùng 
chợ Phước Lâm - gần kinh Tàu Hủ, về sau 
vì kỵ húy nên đổi tên mới là Phú Lâm). Tác 
giả Sơn Nam cũng cho rằng: "Vùng Sài 
Gòn là Prei Nokor (chùa Cây Mai được gọi 
là Vat Prei Nokor) nằm trên giồng, phía 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
105 
Chợ Lớn ngày nay" [11, tr.36]. Vị trí của 
đồn thu thuế, bây giờ khó xác định được, 
nhưng chúng ta có thể tìm lại tên các chợ, 
thường hình thành chung quanh các trung 
tâm quân sự hoặc dân sự. Theo tác giả Trần 
Nhật Vy, "Ban đầu chợ có lẽ chỉ là nơi 
buôn bán, trao đổi hàng hóa của những 
người Việt đầu tiên vào miền Nam theo 
chân quan quân lập trạm thu thuế, lập kho 
lương thực khi chúa Nguyễn lập hai trạm 
thu thuế ở Prei Nokor (ở khoảng Phú Lâm) 
và Kas Krobei (trung tâm Sài Gòn hiện 
nay) Chợ nhỏ ấy có thể là chợ Phú Lâm" 
[16, tr.258]. 
Về địa danh Bến Nghé, hai tác giả Sơn 
Nam và Thái Văn Kiểm đưa ra hai cách 
giải thích khác nhau: 
Theo tác giả Sơn Nam: "Đại Nam Nhất 
Thống Chí: Nghé là tiếng sấu kêu. Ta nói 
sấu nghé vì sấu kêu như tiếng nghé ngọ của 
trâu con. Đặt Ngưu tân, Ngưu chữ cho có 
vẻ văn chương hơn Trâu uống nước ở 
phía rạch Ông Buông, ở Phú Lâm nơi đất 
rộng, dễ làm ruộng hơn, hãy còn tên rạch 
Bến Trâu. Sự xuất hiện của bầy sấu hung 
hãn từ rừng Sác - Cần Giờ mon men vào là 
sự thật" [5, tr.247]. 
"Tác giả Thái Văn Kiểm cho rằng, 
"kas có nghĩa là tiền và krobey nghĩa là 
trâu". Và Kas Krobey có nghĩa là "tiền 
trâu, nghĩa là nơi buôn bán và thu thuế 
trâu, một gia súc rất cần cho xứ Thủy Chân 
Lạp là nơi bùn lầy nước đọng". [16, tr.10]. 
Với cách giải thích của hai tác giả trên, 
chúng tôi cũng rất phân vân. Địa danh Kas 
Krobey xuất hiện từ bao giờ? Từ thời Phù 
Nam hay mới vào khoảng thế kỷ XVI? 
Nhưng, đến năm 1623, cả chúa Nguyễn lẫn 
vua Chân Lạp đều đã biết địa danh Kas 
Krobey. Và, địa danh Bến Nghé xuất hiện 
từ bao giờ?. 
Nếu giải thích Bến Nghé là tiếng sấu 
con kêu như trâu con kêu hoặc từng đàn cá 
sấu đuổi cắn nhau như tiếng trâu rống nghe 
vẫn chưa hợp lý lắm, vì đây là vàm sông 
Sài Gòn và rạch Bến Nghé chứ không phải 
là rừng Sác hoang vu. Nếu giải thích Bến 
Nghé là nơi buôn bán trâu hoặc thu thuế 
trâu thì liệu nền kinh tế của vùng Bến Nghé 
vào thời điểm đầu thế kỷ XVII có phát triển 
đạt đến mức như vậy không? Lưu dân Việt 
với chiếc phảng trên vai đi mở cõi, liệu có 
cần nhiều trâu đến mức độ có chợ mua bán 
trâu? Những đoạn văn trích dẫn dưới đây sẽ 
cho chúng ta một số khái niệm về mức độ 
phát triển thương mại của vùng đất Bến 
Nghé: "Theo các nhà khảo cổ, căn cứ vào 
hiện vật phát hiện được, niên đại của nhóm 
gốm ở cảng Bến Nghé không cùng thời, 
sớm nhất là những nồi gốm đất nung thuộc 
văn hóa Óc Eo, có niên đại thế kỷ I - VI, 
các loại hũ thế kỷ VII – XVII Khu vực 
này chỉ là một phần của cảng Bến Nghé 
xưa trong hệ thống các bến chợ kéo dài dọc 
sông Thị Nghè qua đoạn sông Sài Gòn (vị 
trí khoảng công xưởng Ba Son) tới rạch 
Bến Nghé vào tận Chợ Lớn và có thể theo 
kênh Ruột Ngựa nối liền với sông Vàm Cỏ" 
[9, tr.144-145]. 
Do đó, chúng tôi tạm thời lý giải 
rằng, địa danh Bến Nghé là do lưu dân 
người Việt ghép từ hai âm ngữ Miên và 
Việt mà thành: “bến” là tiếng Việt và 
“nghé” là tiếng phiên âm. Cũng có thể, 
địa danh Kas Krobey xuất hiện từ thời 
Phù Nam và đã qua người Chân Lạp 
phiên âm, muốn tìm hiểu rõ nghĩa, có lẽ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân và tgk 
106 
phải bắt đầu từ ngôn ngữ Nam Đảo hoặc 
ngôn ngữ của người Mạ. 
Prey Nokor, có thể là kinh đô mới của 
vua Phù Nam, sau khi bị Chân Lạp đánh 
thắng vào khoảng năm 611. Vua Phù Nam 
đã chạy, từ bỏ kinh đô Đặc Mục về lập dinh 
cơ ở đây, khoảng rừng từ chùa Cây Mai 
đến vùng Phú Thọ (nay thuộc quận 11, 
Thành phố Hồ Chí Minh) "nơi kênh rạch 
chằng chịt, ngập nước, khó đi, khó đến". 
Cư dân Phù Nam đã gọi đó là "rừng có 
kinh thành vua": Prey Nokor. Tác giả 
Vương Hồng Sển đã giải thích: "Prei, prey: 
rừng, không còn ai chối cãi Angkor, 
Nokor do Phạn tự NAGARA: đế đô, kinh 
đô" [15, trang 40,41]. 
"Tân Đường thư còn cho biết: dưới 
triều các vua Đường Cao Tổ (618 - 626) và 
Đường Thái Tôn (627- 649), Phù Nam có 
gửi các sứ bộ sang Trung Quốc, nhưng 
không ghi rõ họ đến từ đâu. Có lẽ các sứ bộ 
Phù Nam này khởi hành từ Na Phất Na, vì 
trong thời gian đó, kinh đô Đặc Mục nằm 
trong tay các vua Chân Lạp" [12, tr.289]. 
Từ đoạn trích dẫn trên, chúng tôi lại 
cho rằng, phái đoàn đi cống của Phù Nam 
đi từ kinh đô mới, tạm gọi là "Prey Nokor". 
Phù Nam đã hai lần sang triều cống nhà 
Đường, đến năm 650 là lần cuối cùng được 
sử liệu Trung Hoa ghi nhận. 
Lưu dân Việt vào khoảng thế kỷ XVI 
đến đây sinh sống cùng với cư dân cổ Phù 
Nam, đã "đọc trại" tiếng Prey Nokor thành 
Rai Gòn rồi Thày Gòn và Sài Gòn. Danh từ 
Phước Lâm có lẽ là do dân ta dịch nghĩa 
tiếng Prey Nokor? 
Năm 1674, Chúa Nguyễn Phước Tần 
đem quân giúp Nặc Ông Nộn trở lại ngôi 
vua nước Chân Lạp (làm Phó Vương), 
đóng ở Sài Gòn đến năm 1697. Có thể, Nặc 
Ông Nộn đã lập dinh cơ ở vùng đất từ 
khoảng chùa Cây Mai đến vùng Phú Thọ 
(vùng Prey Nokor). 
Đầu năm 1679, Chúa Nguyễn Phước 
Tần lập đồn dinh Tân Mĩ (khu vực Cách 
mạng tháng Tám - Cống Quỳnh - Nguyễn 
Trãi, Thành phố Hồ Chí Minh) để bảo vệ 
Phó Vương Chân Lạp và lưu dân Việt 
Nam. Thực tế, đó là một chính quyền bán 
chính thức của chúa Nguyễn. 
Năm 1679, Chúa Nguyễn Phước Tần 
cho phép các nhóm lưu dân của các tướng 
nhà Minh là Trần Thượng Xuyên vào Biên 
Hòa và Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho 
định cư làm dân Việt. 
Năm 1697, Nặc Ông Yêm (con của 
Nặc Ông Nộn) về Chân Lạp để chuẩn bị 
làm vua. Từ thời điểm đó, Sài Gòn không 
còn Phó Vương của Chân Lạp. 
Năm 1698, chúa Nguyễn Phước Châu 
cử Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược 
Cao Miên, lấy đất Nông Nại đặt tên là phủ 
Gia Định (ranh giới từ bờ biển Bà Rịa đến 
sông Vàm Cỏ). 
Phủ Gia Định gồm có 2 huyện: 
Huyện Phước Long (xứ Đồng Nai, tỉnh 
Biên Hòa), ranh giới từ bờ biển Bà Rịa đến 
khu vực sông Sài Gòn; 
Huyện Tân Bình (xứ Sài Gòn), ranh 
giới từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ 
(gần trùng với ranh giới Thành phố Hồ Chí 
Minh ngày nay); 
Đối với người Hoa ở huyện Tân Bình 
thì lập thành xã Minh Hương (khu Nguyễn 
Trãi - Triệu Quang Phục, Thành phố Hồ 
Chí Minh). 
Như vậy, từ năm 1698, chúa Nguyễn 
đã chính thức sáp nhập vùng đất Gia Định 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
107 
vào bản đồ xứ Đàng Trong. Tác giả Trịnh 
Hoài Đức (dịch giả Nguyễn Tạo) đã viết: 
"Mùa xuân năm Mậu Dần (1698) 
chúa Nguyễn Phước Châu sai Thống suất 
Chưởng cơ Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu 
Kính (Cảnh) sang kinh lược Cao Miên, lấy 
đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ 
Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng 
dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện 
Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh 
đặt chức Lưu thủ, Cai bộ, và Ký lục để 
quản trị" [7, tr.12]. 
Tác giả Nguyễn Đình Đầu đã có nhận 
xét: "Trịnh Hoài Đức viết "Lấy đất Nông 
Nại". Xứ Sài Gòn hiểu theo nghĩa rộng, 
chiếm khoảng một nửa "đất Nông Nại" (mà 
Trịnh Hoài Đức nghi là nước Thù Nại xưa). 
Ở đây Trịnh Hoài Đức phân biệt Nông Nại 
với Đồng Nai: Đồng Nai chỉ rộng độ phân 
nửa Nông Nại. Nông Nại bao gồm cả miền 
đông Nam Bộ" [6, tr.156]. 
Theo tác giả Trịnh Hoài Đức: "Xét Bà 
Rịa xưa là đất Lục Chân Lạp. Tân Đường 
Thư nói: "Bà Lỵ ở phía đông nam Chiêm 
Thành phía nam miền ấy (nước Bà Lỵ) có 
nước Thù Nại, sau niên hiệu Vĩnh Huy đời 
Đường (651-655) (Đường Cao Tông) bị 
Chân Lạp thôn tính."  Còn âm 2 chữ Thù 
Nại với Đồng Nai và Nông Nại không sai 
cho lắm, nghĩa là tương tự nhau, vậy có lẽ 
cũng là đất Sài Gòn ngày nay" [7, tr.36]. 
Nhưng trong “Đại Nam nhất thống 
chí” lại viết: "Mùa xuân năm Mậu Dần 
(1698) (chúa Nguyễn Phước Châu) sai 
Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh 
lược Cao Man đem xứ Đồng Nai (người 
Thanh gọi Nông Nại) đặt làm huyện Phước 
Long, và đặt dinh Trấn Biên" [4, tr.2]. 
Qua những ý kiến trên, chúng tôi đồng 
ý với quan điểm của tác giả Trịnh Hoài 
Đức. Tất cả những địa danh Phù Nam, Thù 
Nại (hoặc Chu Nại - theo Lương Văn Lựu) 
và Nông Nại đều là chữ của người Trung 
Hoa phiên âm tiếng Đờn - N' gai của nước 
mà chúng ta quen gọi là Phù Nam, còn 
người Việt gọi Đờn - N' gai là Đồng Nai. 
Và đến bây giờ, địa danh Bà Rịa vẫn còn là 
một bí ẩn, có lẽ phải bắt đầu nghiên cứu từ 
ngôn ngữ của người Mạ, cư dân thời xa xưa 
của vùng đất Bà Rịa. 
3. KẾT LUẬN 
Ngay từ rất sớm, trên vùng đất Nam 
Bộ nước ta ngày nay đã từng tồn tại một 
vương quốc phát triển khá hùng mạnh – 
vương quốc cổ Phù Nam. Những công trình 
nghiên cứu về lịch sử Nam Bộ nước ta gắn 
liền với lịch sử vương quốc cổ này. Các 
yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã 
hội, của các bộ phận cư dân từng sống 
trên vùng đất này có tác động, ảnh hưởng 
qua lại lẫn nhau, vì thế, sự khác nhau trong 
cách gọi cùng một địa danh nào đó trên 
vùng đất này, chẳng hạn như Prey Nokor – 
Rai Gòn – Thày Gòn – Sài Gòn, Đờn - N' 
gai – Đồng Nai, cũng là điều dễ hiểu. 
Với những nội dung nghiên cứu đã đề cập, 
hy vọng chúng tôi đã góp phần nối được 
một vài khoảng trống của lịch sử Nam Bộ 
mến yêu! 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân và tgk 
108 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lương Văn Lựu (2014), Biên Hòa sử lược toàn biên - Quyển I, Nxb. Thế giới. 
2. Chu Đạt Quan - Dịch giả Hà Văn Tấn (2011), Chân Lạp phong thổ ký, Nxb. Thế giới. 
3. Trần Quốc Vượng (2006), Dặm dài đất nước - tập II, Nxb. Thuận Hóa. 
4. Quốc sử quán - Dịch giả Nguyễn Tạo (1973), Đại Nam nhất thống chí - Tập thượng, 
Nha văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản. 
5. Sơn Nam (2014), Đất Gia Định - Bến Nghé xưa & người Sài Gòn, Nxb. Trẻ. 
6. Trần Văn Giàu (Chủ biên) (1987), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh - Tập I, 
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 
7. Trịnh Hoài Đức - Dịch giả Nguyễn Tạo (1972), Gia Định thành thông chí - Tập thượng, 
tập trung, Nha văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản. 
8. Ban Quản lý khu di tích Gò Tháp (2016), Gò Tháp - Di tích Quốc gia đặc biệt, Nxb. 
Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 
9. Lê Xuân Diệm - Nguyễn Thị Hậu - Nguyễn Thị Hoài Hương (2007), Khảo cổ học ở 
Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa Sài Gòn. 
10. Phan Lạc Tuyên (1993), Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á, Trường Đại học 
Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. 
11. Sơn Nam (2009), Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Nxb. Trẻ. 
12. Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (2004), Lịch sử Việt Nam - Tập 2, Nxb. Trẻ. 
13. Lý Tùng Hiếu (2012), Ngôn ngữ văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ, Nxb. Tổng hợp 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
14. Lương Ninh (2006), Nước Phù Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
15. Vương Hồng Sển (1997), Sài Gòn năm xưa, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 
16. Trần Nhật Vy (2015), Từ Bến Nghé tới Sài Gòn, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ. 
17. Phan Huy Lê (2011), Tìm về cội nguồn, Nxb.Thế giới. 
18. Phan Huy Lê (2016), “Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển ”, Tập I, 
Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật. 
19. Vũ Minh Giang (Chủ biên) (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ, Nxb. Thế giới. 
20. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Lịch sử 10, Nxb. Giáo dục. 
Ngày nhận bài: 01/11/2018. Ngày biên tập xong: 05/02/2018. Duyệt đăng: 17/3/2018. 

File đính kèm:

  • pdfgop_them_vai_suy_nghi_ve_vi_tri_lich_su_mot_so_dia_danh_o_na.pdf