Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La

Tỉnh Sơn La có nhiều dân tộc thiểu số (DTTS) cư trú với nhiều truyền thống văn hóa (TTVH) phong phú, đa dạng. Những

TTVH ấy được đồng bào hình thành, gìn giữ và bảo tồn qua nhiều thế

hệ. Trong các dân tộc cư trú tại Sơn La thì người Thái có số lượng

dân số đông nhất (trên 50% dân số toàn tỉnh). Ở bản Dọi, xã Tân Lập,

huyện Mộc Châu người Thái Trắng cư trú chủ yếu. Từ nhiều năm

nay, đồng bào nơi đây luôn có ý thức giữ gìn những giá trị văn hóa

truyền thống (VHTT) của dân tộc mình và quảng bá những giá trị văn

hóa ấy với khách du lịch trong, ngoài nước. Tuy nhiên trong bối cảnh

hội nhập hiện nay, những thách thức đặt ra đối với việc bảo tồn các

giá trị VHTT không hề nhỏ. Vì vậy, bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc

Châu cần có những giải pháp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy giá trị

VHTT của đồng bào tại địa phương

pdf 6 trang kimcuc 8460
Bạn đang xem tài liệu "Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La

Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
131Volume 8, Issue 1
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG 
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI BẢN DỌI,
XÃ TÂN LẬP, HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
Nguyễn Thị Hạnha
Quảng Văn Kiểmb
a Trường Cao đẳng Sơn La
Email: hanhsla2701@gmail.com
b Trường Cao đẳng Sơn La
Email: quangkiem84@gmail.com
Ngày nhận bài: 15/2/2019
Ngày phản biện: 26/2/2019
Ngày duyệt đăng: 10/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/277
Tỉnh Sơn La có nhiều dân tộc thiểu số (DTTS) cư trú với nhiều truyền thống văn hóa (TTVH) phong phú, đa dạng. Những 
TTVH ấy được đồng bào hình thành, gìn giữ và bảo tồn qua nhiều thế 
hệ. Trong các dân tộc cư trú tại Sơn La thì người Thái có số lượng 
dân số đông nhất (trên 50% dân số toàn tỉnh). Ở bản Dọi, xã Tân Lập, 
huyện Mộc Châu người Thái Trắng cư trú chủ yếu. Từ nhiều năm 
nay, đồng bào nơi đây luôn có ý thức giữ gìn những giá trị văn hóa 
truyền thống (VHTT) của dân tộc mình và quảng bá những giá trị văn 
hóa ấy với khách du lịch trong, ngoài nước. Tuy nhiên trong bối cảnh 
hội nhập hiện nay, những thách thức đặt ra đối với việc bảo tồn các 
giá trị VHTT không hề nhỏ. Vì vậy, bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc 
Châu cần có những giải pháp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy giá trị 
VHTT của đồng bào tại địa phương.
Từ khóa: Truyền thống văn hóa; Bản sắc văn hóa; Giá trị văn hóa 
truyền thống; Du lịch cộng đồng; Bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc 
Châu, tỉnh Sơn La.
1. Đặt vấn đề
So với nhiều tỉnh thành khu vực phía Bắc nước 
ta, tỉnh Sơn La là địa phương có nhiều dân tộc thiểu 
số cư trú với TTVH phong phú, đa dạng. Những 
TTVH ấy được đồng bào hình thành, gìn giữ và bảo 
tồn qua nhiều thế hệ cho đến ngày hôm nay. Trong 
số các dân tộc cư trú tại Sơn La thì người Thái chiếm 
trên 50% dân số toàn tỉnh. Đặc biệt tại bản Dọi, xã 
Tân Lập, huyện Mộc Châu, dân tộc Thái Trắng sinh 
sống chủ yếu với những đặc trưng văn hóa độc đáo. 
Từ nhiều năm nay bà con dân tộc trong bản luôn 
có ý thức giữ gìn những bản sắc văn hóa của dân 
tộc mình. Đồng thời, nơi đây có nhiều điều kiện 
thuận lợi cho phát triển du lịch cộng đồng (DLCĐ). 
Phát triển DLCĐ là một hướng đi phù hợp của địa 
phương vừa giúp bà con giữ gìn, phát huy được bản 
sắc văn hóa (BSVH) và mang lại doanh thu, nâng 
cao chất lượng cuộc sống của người dân trong bản.
2. Giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào 
dân tộc thiểu số tại bản Dọi, xã Tân Lập, huyện 
Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
2.1. Một số nét khái quát về bản Dọi, xã Tân 
Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu có diện 
tích tự nhiên 521ha. Phía Đông giáp bản Nong Cụt, 
xã Tà Lại, phía Tây giáp bản Phiêng Đón, xã Tân 
Lập, phía Nam giáp bản Hoa, xã Tân Lập, phía Bắc 
giáp bản Nà Sánh, xã Tân Hợp. Bản có địa hình 
núi cao từ 950 – 1350m so với mực nước biển và 
tương đối thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nhất 
là phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả vùng lạnh 
và cây công nghiệp hàng năm. Nằm ở cao nguyên 
Mộc Châu nên bản Dọi mang khí hậu á nhiệt đới rất 
rõ rệt, mùa hè khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình 
18oC, độ ẩm trung bình 85 % và là nơi có lượng 
nước bốc hơi thấp. Lượng mưa khá dồi dào, số ngày 
mưa trung bình khoảng 70 đến 120 ngày/ năm. Số 
ngày sương mù khoảng 100 ngày/năm. Đây là điều 
kiện rất thuận lợi để bản Dọi phát triển các loại cây 
trồng đặc sản truyền thống như: Chè San Tuyết, chè 
Bát Tuyên, chè Kim Tuyên, cây đào Pháp, mận hậu 
và cây ăn quả lâu năm. Nguồn tài nguyên rừng trên 
địa bàn khá phong phú, độ che phủ đạt 47,72%, có 
nhiều tiềm năng phát triển lâm nghiệp với hệ thống 
rừng sản xuất, phòng hộ. Thực vật rừng có nhiều 
cây quý hiếm như: Chò chỉ, nghiến, đinh hương, 
lát, bách xanh Dân số của bản có 906 nhân khẩu, 
218 hộ trong đó dân tộc Thái Trắng chiếm 99,8%. 
Người dân của bản sinh sống tập trung dưới những 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
132 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
mái nhà sàn truyền thống. Vì vậy, người Thái Trắng 
bản địa nơi đây có nhiều GTVH độc đáo và được 
người dân lưu giữ và bảo tồn qua nhiều thế hệ. 
2.2. Những giá trị văn hóa truyền thống
Người Thái Trắng ở bản Dọi, xã Tân Lập có 
nhiều giá trị văn hóa truyền thống, tuy nhiên chúng 
tôi tập trung phân tích một số giá trị văn hóa truyền 
thống tiêu biểu như trang phục, kiến trúc, ẩm thực, 
cụ thể là: 
Trang phục: Trang phục là cách ăn mặc của con 
người trong một cộng đồng nhất định, đồng thời đây 
là nét văn hóa giúp cho chúng ta phân biệt được dân 
tộc này với dân tộc khác. Nước ta có 54 dân tộc anh 
em, mỗi dân tộc có một nếp sống riêng nên cách ăn 
mặc cũng phản ánh những sắc thái văn hóa phong 
phú đa dạng đó. Quá trình tạo lập nên các GTVH 
mang đặc trưng tộc người là quá trình nhận thức, 
lao động sáng tạo tác động vào thế giới tự nhiên và 
xã hội. Trang phục của đồng bào Thái Trắng cũng 
mang những giá trị như vậy. 
Có thể nói “trang phục dân tộc Thái đã đạt đến 
đỉnh cao của những kỹ thuật thủ công cho phép”1. 
Xuất phát từ đặc điểm cư trú người Thái thường 
cư trú ở những vùng thung lũng, bao quanh là các 
dãy núi có độ cao 700-800m trở lên, bản mường 
của người Thái thường nằm dài theo dòng suối trên 
những gò đất cao. Phía sau những ngôi nhà sàn là 
núi, phía trước là những cánh đồng lúa. Chính đặc 
điểm cư trú như vậy đã tạo cho người Thái ở Sơn La 
sáng tạo những bộ trang phục phù hợp với đời sống 
của họ. Thật đúng khi nói trang phục dân tộc Thái 
ở Sơn La đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật thủ công 
bởi lẽ những công đoạn để đồng bào làm ra một bộ 
trang phục rất cầu kỳ. Tất cả đều làm bằng phương 
pháp thủ công và mất nhiều thời gian mới có thể 
hoàn thiện được một bộ sản phẩm. 
Bộ trang phục nữ dân tộc Thái Trắng ở bản Dọi 
gồm: Áo cóm, váy, thắt lưng, khăn piêu, đồ trang 
sức (trâm cài tóc, hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà 
tích).
Đặc điểm riêng biệt trong kiểu dáng chiếc áo 
(xửa cỏm) của phụ nữ Thái Trắng bản Dọi so với áo 
của phụ nữ Thái Đen trong tỉnh, đó là loại áo ngắn, 
được thiết kế gọn gàng, khi mặc áo bó, ôm sát lấy 
người. Cổ áo hình trái tim và được đính hai hàng 
cúc bướm bằng bạc ở hai bên vạt áo. Đối với người 
phụ nữ Thái Đen ở các địa phương trong tỉnh, áo 
được thiết kế khác kiểu dáng với người Thái Trắng 
ở bản Dọi, cổ áo may cao nhưng điểm chung của cả 
hai là áo đều may dài tay. Đặc biệt, nét nổi bật và 
dấu hiệu nhận biết trang phục nữ dân tộc Thái Trắng 
ở bản Doi là hai hàng cúc bướm ở trước ngực áo. 
Cúc được đồng bào làm bằng chất liệu bạc đối với 
1. Lê Ngọc Thắng, sdd, tr.17.
gia đình khá giả hoặc bằng nhôm đối với những gia 
đình có mức thu nhập trung bình. Hai hàng cúc này 
càng dùng càng sáng, dù để lâu ngày cũng không 
bị hoen gỉ. “Với chất liệu kim loại mà sáng nổi 
lên trên màu tối của chất liệu vải, hàng mắc pém 
nổi bật giữa chiếc sửa cỏm tạo nên một hiệu quả 
thẩm mỹ, một sự chú ý”2. Điều đặc biệt là bộ cúc 
bướm của trang phục nữ người Thái Trắng ở bản 
Dọi bao giờ cũng là số lẻ trung bình là 11-13 bộ 
cúc bướm. Bởi lẽ, họ quan niệm số lẻ là số của sự 
sống, biểu hiện của sự chưa hoàn chỉnh đang vươn 
lên. Do vậy không chỉ cúc áo mà số bậc thang, số 
gian nhà người Thái Trắng nơi cũng là số lẻ Hàng 
cúc bướm trên áo nữ dân tộc Thái Trắng ở bản Dọi 
có rất nhiều ý kiến giải thích khác nhau. Có ý kiến 
cho rằng “hàng cúc bướm là tượng trưng cho sự kết 
hợp nam và nữ để duy trì nòi giống. Mắc pém bên 
khuyết biểu thị cho giống cái (nữ), bên cài biểu thị 
cho giống đực (nam). Màu cúc bạc trắng óng ánh là 
biểu thị của dòng sữa mẹ nuôi con”3. Thông thường 
hàng cúc khuyết được thiết kế ở bên phải và hàng 
cúc cài được thiết kế ở bên trái.
Váy được đồng bào nơi đây kết hợp với áo cóm 
khi mặc tạo nên sự duyên dáng, thướt tha, mềm mại 
của người phụ nữ Thái Trắng. Váy là một tấm vải 
dùng để che nửa dưới cơ thể từ thắt lưng đến gót 
chân của người phụ nữ Thái Trắng. Váy được tạo 
thành bởi bốn mảnh vải khổ 40 cm, dài khoảng 90 
cm khâu ghép kín lại theo chiều dài, cạp váy được 
can từ miếng vải khác vào thân váy. Cạp váy (đầu 
váy) thường được làm bằng vải màu đỏ khi nối vào 
thân váy cạp có chiều cao khoảng 10cm để phân 
biệt với chân váy (bởi chân váy cũng được đáp thêm 
miếng vải màu cho cứng cao khoảng 3cm). Khi mặc 
cạp váy cuốn chặt lấy thắt lưng người phụ nữ Thái 
Trắng nơi đây, đoạn thừa gấp nếp cho ra phía trước. 
Cách mặc như vậy vừa đơn giản vừa phù hợp với 
việc di chuyển. Ở bản Dọi, váy được những phụ nữ 
Thái Trắng mặc gấp nếp sang một bên hông, một số 
nơi khác họ mặc nếp gấp ra phía trước. Khi mặc váy 
phụ nữ Thái Trắng bản Dọi thường mặc váy dài đến 
chấm gót chân, họ kiêng lộn đầu váy xuống dưới 
bởi lẽ họ quan niệm rằng chỉ khi người phụ nữ có 
chồng chết mà chưa kịp phát tang thì đầu váy mới 
quay xuống phía dưới. Thông thường họ mặc váy 
dài đến chấm gót chân nhưng khi đi lao động chị 
em mặc váy theo lối quấn hai ba lần cho gọn, vừa 
khỏi bị bẩn, vừa tiện lợi trong công việc. Chiếc váy 
của người phụ nữ Thái Trắng ở bản Dọi có rất nhiều 
công dụng ngoài việc là trang phục làm đẹp cho 
người phụ nữ, chiếc váy còn là “buồng tắm lưu động 
khi muốn tranh thủ tắm trên đường đi làm về”4.
2. Lê Ngọc Thắng, sdd, tr.32.
3. Lê Ngọc Thắng, sdd, tr.33.
4. Lê Ngọc Thắng, sdd, tr.37.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
133Volume 8, Issue 1
Khi nói đến bộ trang phục nữ dân tộc Thái Trắng 
ở bản Dọi thì không thể thiếu chiếc thắt lưng. Thắt 
lưng của người Thái Trắng nơi đây được làm bằng 
một băng vải có chức năng giữ cho cạp váy cuốn 
chặt ở cơ thể người mặc váy, họ thường làm thắt 
lưng bằng vải tơ tằm óng ả, cũng có khi dùng thắt 
lưng làm bằng sợi bông nhưng được đem nhuộm 
rồi mới dùng. Thắt lưng thường được nhuộm màu 
xanh lá cây, các cô gái còn gia công thêm hai đầu 
thắt lưng miếng vải đỏ cho đẹp hơn.Thắt lưng rộng 
khoảng 20cm, dài 200cm, khi dùng họ thường gấp 
đôi hoặc gấp ba theo chiều dọc rồi cuốn vòng quanh 
eo để giữ váy không bị tuột. Phần vải đỏ ở hai đầu 
thường được phụ nữ Thái giắt trước bụng hoặc lệch 
sang bên hông. Bên cạnh đó, người Thái Trắng ở 
bản Dọi còn có một loại dây lưng khác nhưng chỉ 
những người khá giả mới có, đó là một dải vải trên 
đính liên tiếp nhiều mảnh bạc nhỏ hình tròn rất đẹp 
và sang trọng.
Cùng với áo, váy, thắt lưng thì khăn đội đầu là 
phụ kiện làm cho khuôn mặt các cô gái Thái Trắng 
ở bản Dọi trở nên rạng rỡ, xinh đẹp hơn. Khăn đội 
đầu có nhiều kiểu dáng khác nhau, có khi là một 
tấm vải bông nhuộm chàm, hoặc là chiếc khăn thêu 
với màu sắc đường nét đơn giản  Nhưng đối với 
người Thái Trắng ở bản Dọi, khăn đội đầu hay còn 
gọi là khăn piêu được thêu hoa văn bằng chỉ nhiều 
màu sặc sỡ từ loại vải bông họ tự dệt. Trước khi 
thêu, tấm vải được chọn làm khăn đội đầu phải 
nhuộm chàm, chàm là màu nền để trên đó người 
phụ nữ Thái Trắng bản Dọi thêu các hoa văn bằng 
các loại chỉ màu ở hai đầu khăn. Người Thái Trắng 
nơi đây không thêu toàn bộ diện tích của khăn mà 
chỉ tập trung trang trí ở hai đầu khăn. Trước khi thêu 
họ làm những chiếc cút để đính vào piêu. Cút piêu 
được làm từ một mảnh vải đỏ rộng khoảng 1cm, 
bên trong bọc lõi chỉ rồi cuộn tròn lại, tiếp đó cuộn 
vải tròn được khâu vắt thành một hình tròn rồi quấn 
dây vải lại theo hình tròn ốc. Cút piêu sau đó được 
cuốn thêm các loại chỉ màu thành các múi trong 
hình tròn. Họ quan niệm đây là vật tượng trưng cho 
các tinh tú trên trời tỏa ánh sáng muôn màu xuống 
thế gian. Bông hoa nối với cút tết bằng chính dây 
cút thừa ra là tượng trưng cho ý niệm về sự vẹn 
toàn, chắc chắncủa cuộc sống. Đồng thời đó cũng 
là ước mong của con người nơi đây về một cuộc 
sống đầy đủ, vẹn toàn. Sau khi ghép xong cút piêu 
người phụ nữ Thái Trắng bản Dọi bắt đầu tiến hành 
thêu. Họ thường thêu khăn từ mặt trái nhưng họa 
tiết hoa văn hiện lên mặt phải, piêu được thêu theo 
kỹ thuật luồn chỉ hay đan chỉ màu vào vải theo một 
nguyên tắc nhất định để hoa văn hiện lên ở mặt phải 
của khăn. Hoa văn trên chiếc piêu của người Thái 
Trắng bản Dọi không hề đơn giản nên đòi hỏi người 
thêu phải có kỹ thuật cao mới làm được. Họa tiết 
thêu trên piêu thường là các đường chỉ màu thêu 
song song, những đường viền xoắn ốc hay hình tam 
giác nối tiếp nhau thành hàng, mỗi chiếc piêu lại có 
họa tiết khác nhau thể hiện cá tính của người thêu. 
“Giữa piêu thường được thêu hình ngôi sao 5 cánh. 
Màu chỉ chủ đạo trên piêu thường là màu hồng hoặc 
đỏ sen”5. Cho nên người Thái Trắng nơi đây thường 
dạy con gái của họ thêu khăn ngay từ khi con mới 
6 -7 tuổi, khi lớn hơn các con thêu khăn rất thành 
thạo và đẹp. Do đó với người Thái Trắng ở đây việc 
thêu piêu được xem là “tiêu chuẩn xã hội để đánh 
giá một người phụ nữ”6, đó là khi con gái lấy chồng 
phải thêu được đủ số khăn nhà chồng yêu cầu mới 
được tổ chức đám cưới. Khăn piêu của người Thái 
Trắng bản Dọi ngoài tác dụng che mưa, che nắng 
khi đi làm, giữ ấm khi thời tiết giá lạnh và quan 
trọng hơn cả khăn piêu là vật trang sức của các cô 
gái trong đời sống hàng ngày, trong ngày hội, ngày 
tết
Để tạo điểm nhấn cho bộ trang phục, những 
người phụ nữ ở bản Dọi thường sử dụng xà tích. 
Xà tích là sợi dây bạc phụ nữ Thái Trắng nơi đây 
gài vào thắt lưng và để buông xuống một bên hông. 
Trên nền chàm của váy, màu trắng của xà tích bạc 
óng ánh đung đưa theo từng nhịp chân bước tạo nên 
vẻ đẹp vừa diêm dúa, vừa sang trọng. Trong quan 
niệm của người Thái Trắng bản Dọi không phải tự 
nhiên xà tích được gắn thêm hộp kim mà nó có tác 
dụng trừ tà ma, bởi trong hộp kim đó gồm chín cái 
đeo vào dây bạc. Do đó, ngoài tác dụng làm đẹp bộ 
xà tích còn gắn với một tín ngưỡng dân gian của 
cộng đồng Thái nơi đây. Ngoài ra, trang phục nữ 
Thái Trắng còn có hoa tai, vòng tay, vòng cổ rất tinh 
tế và đặc sắc tạo nên vẻ đẹp duyên dáng cho trang 
phục của họ. 
Kiến trúc: Loại hình kiến trúc nhà ở của người 
Thái Trắng ở bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, 
tỉnh Sơn La là nhà sàn. Vật liệu làm nhà chủ yếu 
là gỗ, tre, nứa, song mây, lá mây, cỏ tranh Những 
vật liệu này thường kiếm được ngay trên địa bàn cư 
trú. Ngôi nhà là sự giao hòa giữa trời đất và thiên 
nhiên thường được thiết kế từ 3-5 gian. Người Thái 
có câu: “Khửn song phái/ cái song đay” tức là mở 
hai cửa, đi hai thang. Mỗi ngôi nhà thường có hai 
cầu thang lên xuống: tang chan và tang quản. Tang 
chan ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên 
xuống. Chan là phần sàn nhà được nối dài ra ngoài 
trời. Đây là nơi các mẹ, các chị, các em... thường 
ngồi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang này bao 
giờ cũng mang số lẻ, thường là 9 bậc, ứng với 9 vía. 
Cầu thang dành riêng cho nam giới - tang quản ở 
đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía. Nhà sàn cổ 
của người Thái Trắng ở đây có hai bếp lửa - Chík 
5. Nhiều tác giả (2008), Người Thái ở Tây Bắc, Nxb. Thông Tấn, 
Hà Nội, tr.60.
6. Nhiều tác giả (2008), Người Thái ở Tây Bắc, Nxb. Thông Tấn, 
Hà Nội, tr.43.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
134 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
pháy. Bếp lửa phía “tang quản” dành cho người già, 
bếp chính ở phía “tang chan” dành cho nữ giới và 
những công việc nội trợ. Từ bếp dành cho người già 
đến hết cầu thang dành cho nam giới gọi là “quản”. 
Đây là nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không 
được đến khu vực này, trừ một số trường hợp đặc 
biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên - hỏng hóng và cột 
thiêng - sau hẹ. Trên cột thiêng treo hình thần rùa 
bằng gỗ, ba bông lúa - sam huống khẩu và ba nhánh 
rau thì là - sam hóm chík... Ngoài ý nghĩa có tính 
biểu tượng của tô tem giáo thì còn mang bóng dáng 
của thuyết thiên, địa, nhân. Ngôi nhà sàn của người 
Thái vừa trang nhã, vừa chắc chắn: Nhà tốt dựng 
nơi cao ráo/ nhà đẹp dựng giữa mường/ gió to thổi 
không xiêu/ bão lớn không lay động. 
Ẩm thực: Nếu đặc trưng văn hóa của dân tộc 
Thái Trắng ở bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc 
Châu, tỉnh Sơn La được nhiều người biết tới qua 
trang phục, kiến trúc thì ẩm thực là một trong những 
GTVH tiêu biểu không thể thiếu trong bức tranh 
văn hóa đó. Ẩm thực của người Thái Trắng nơi đây 
rất tinh tế và độc đáo mà mỗi chúng ta được thưởng 
thức một lần đều sẽ nhớ mãi. Những nguyên liệu 
đồng bào tự nuôi được như thịt trâu, thịt bò, cá, 
gà được họ tẩm, ướp gia vị rất cầu kỳ và cẩn thận. 
Gia vị để ướp là hạt “mắc khén” (một dạng hạt tiêu 
rừng), ớt, tỏi, gừng, muối ... Nét độc đáo trong các 
món ăn của dân tộc Thái Trắng bản Dọi là khi chế 
biến những món ăn, họ rất chú trọng tới việc kết 
hợp các vị đắng, cay, mặn, chát. Những vị này được 
phối hợp hài hòa khiến chúng ta cảm thấy khi ăn 
rất vừa miệng. Thưởng thức những món nướng của 
người Thái Trắng nơi đây sẽ thấy vị đậm đà, giàu 
chất dinh dưỡng. Các món hấp, món luộc có hương 
thơm đặc biệt cùng vị ngon, ngọt của nguyên liệu. 
Những món ăn độc đáo của người Thái Trắng nơi 
đây như pa pỉng tộp (cá nướng), khảu lam (cơm 
lam), nhứa mù khủa (thịt lợn hấp), nhứa giảng 
(thịt trâu hun khói),... được làm rất công phu khiến 
người ăn nhớ mãi không quên. Từng món ăn như 
chứa đựng cả tấm lòng của người dân địa phương 
gửi gắm vào đó. Chỉ riêng cách chế biến món măng 
cũng thật đặc biệt và cầu kỳ. Để có được một bát 
nước cốt măng chua, họ sẽ ngâm măng vài ba năm 
để lọc lấy vị ngon lành, chua dịu nhất khi ăn cùng 
những món ăn khác. Những ai đã từng đến bản Dọi 
đều dễ dàng nhận thấy gia đình nào cũng có sẵn vài 
chum măng muối chua để dùng dần. Mùa nào thức 
nấy, họ mời khách bằng sản vật được thiên nhiên 
nơi đây hào phóng ban tặng như: Nhộng ong, cá 
suối, măng lay, măng đắng, măng ngọt, cải ngồng 
 phương pháp chế biến món ăn của người Thái 
Trắng bản Dọi hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm từ 
ngàn xưa để lại và được lưu giữ từ đời này qua đời 
khác chứ không có bất cứ trường lớp nào truyền 
dạy. Chính điều này đã khiến cho những món ăn của 
họ không thể lẫn với bất kỳ dân tộc nào khác.
Trước kia lương thực chính của người Thái 
Trắng thường là gạo nếp được đồ thành xôi, họ chỉ 
ăn xôi đồ cách thủy. Ngoài đồ xôi người Thái Trắng 
nơi đây còn bỏ gạo vào ống nứa, thêm chút nước lã 
vào rồi đem nướng trên lửa gọi là cơm lam (khẩu 
lam). “Thói quen ăn cơm tẻ chỉ phổ biến từ khoảng 
sau năm 1960 trở lại đây”7. Các món ăn chế biến 
từ cá như: Cá nướng, cá đồ, cá vùi gio, cá chua, cá 
mọoc. Đối với thịt có các món như: Thịt hun khói, 
thịt chua, gỏi, lạp, đặc biệt là món nặm pịa chế biến 
từ ruột non động vật có vị hơi đắng rất hợp với khẩu 
vị với nhiều người. Đặc biệt là các loại rau, măng 
được đồ, luộc làm nộm  người Thái Trắng bản 
Dọi ít khi xào mỡ như các dân tộc khác, rêu đá được 
làm mọoc hay nướng Riêng đồ chấm của người 
Thái đã có đến hơn 100 loại nước chấm khác nhau. 
Có thể nói ẩm thực của người Thái Trắng nơi đây 
rất phong phú, đa dạng.
3. Thực trạng bảo tồn, phát huy các giá trị 
văn hóa truyền thống tại bản Dọi, xã Tân Lập, 
huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Từ xa xưa người Thái Trắng ở Bản Dọi, xã Tân 
Lập đã hình thành nên nhiều GTVH truyền thống và 
được bà con lưu truyền cho đến ngày hôm nay. Tuy 
nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc bảo tồn các giá 
trị VHTT ấy đang có nguy cơ bị mai một. Cụ thể 
là về trang phục qua điều tra điền dã và phỏng vấn 
sâu, chúng tôi thu được kết quả là người dân tại địa 
phương hiện nay rất ít mặc trang phục truyền thống, 
họ chủ yếu sử dụng trang phục của người Kinh. 
Chỉ có những người cao tuổi trong bản còn thường 
xuyên sử dụng bộ trang phục của dân tộc mình. Thế 
hệ trẻ họ chỉ mặc trang phục truyền thống vào các 
dịp lễ hội, các chương trình văn nghệ, hoặc cưới hỏi 
 Do đó, nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì thế hệ 
trẻ sẽ dần lãng quên bộ trang phục của dân tộc. Họ 
không yêu thích và cảm nhận được vẻ đẹp của trang 
phục truyền thống do cha ông để lại, nên không có 
ý thức gìn giữ. 
Về nhà sàn truyền thống: Trước đây ngôi nhà 
sàn thường được đồng bào nơi đây sử dụng vật liệu 
chủ yếu là gỗ, tre, nứa, song mây, lá mây, cỏ tranh 
để làm nhà. Những vật liệu này thường kiếm được 
ngay trên địa bàn cư trú. Mỗi ngôi nhà thường được 
thiết kế 3-7 gian, có hai cầu thang lên xuống, và có 
hai bếp lửa  Nhưng hiện nay, tại bản Dọi số ngôi 
nhà cổ còn rất ít. Nguyên vật liệu dựng nhà đã có sự 
thay đổi, đồng bào sử dụng xi măng, sắt thép để làm 
nhà. Nhiều ngôi nhà sàn gỗ nhưng chỉ còn một cầu 
thang lên xuống. Trên nhà chỉ còn để một bếp lửa để 
đun nấu (không để hai bếp như trước). 
Trong những năm qua, tại bản Dọi đã phát triển 
7. Nhiều tác giả (2008), Người Thái ở Tây Bắc, Nxb. Thông Tấn, 
Hà Nội, tr.101.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
135Volume 8, Issue 1
loại hình du lịch cộng đồng và địa phương đã đón 
nhiều lượt khách du lịch đến tham quan. Những 
món ăn truyền thống của địa phương được đồng bào 
giới thiệu cho khách du lịch. Tuy nhiên, số lượng 
hộ gia đình làm du lịch chưa nhiều dẫn đến hạn chế 
nhất định trong việc quảng bá nét ẩm thực của địa 
phương tới du khách. Bên cạnh đó, ẩm thực dân 
tộc Thái trắng nơi đây vô cùng độc đáo nhưng địa 
phương chưa tổ chức được các cuộc thi ẩm thực 
giữa các bản trong xã. Đồng thời qua điền dã và 
phỏng vấn sâu chúng tôi nhận thấy một số người trẻ 
tuổi trong bản không biết chế biến món ăn truyền 
thống và thích nấu theo kiểu món ăn người Kinh. 
Do vậy cần phải có giải pháp bảo tồn nét đẹp văn 
hóa này. 
Bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu cần kết 
hợp bảo tồn và phát huy GTVH truyền thống phục 
vụ phát triển du lịch trong điều kiện tác động của xu 
thế toàn cầu hóa hiện nay. Phát huy GTVH truyền 
thống là một hoạt động có tính liên tục, là một hình 
thức kế thừa tinh hoa văn hóa trong quá khứ cho 
những sáng tạo mới, hoặc là những cách thức sử 
dụng vì mục đích phục vụ cho sự tiến bộ của xã 
hội, giáo dục truyền thống yêu nước, giữ gìn bản 
sắc văn hóa dân tộc, đồng thời là nhịp cầu nối với 
bạn bè năm châu. Một trong những phương cách đó 
chính là khai thác các giá trị của VHTT cho phát 
triển du lịch. Hoạt động “phát huy” này không chỉ 
làm tôn vinh vẻ đẹp mà còn phát triển các giá trị 
văn hóa đó. Hình thức chủ đạo của phát huy GTVH 
truyền thống thông qua du lịch là quảng bá GTVH 
truyền thống trên mọi phương diện nhằm thu hút 
khách đến tham quan, đầu tư phát triển, giao lưu. 
Đây không chỉ là cách tạo cơ hội giao lưu giữa các 
nền văn hóa khác nhau, góp phần hiểu biết lẫn nhau 
và tăng cường mối quan hệ quốc tế vì hòa bình, vì 
sự phát triển của xã hội mà còn giúp cho việc phục 
hồi tối đa các GTVHTT. Mặt khác, nếu biết phát 
huy lợi thế của các GTVH TT thì đây còn được xem 
là một tiềm lực kinh tế.
Như vậy, những GTVH cổ truyền của người 
Thái Trắng ở bản Dọi, xã Tân Lập vô cùng phong 
phú như: trang phục, ẩm thực, kiến trúc, văn học 
dân gian, nghệ thuật truyền thống, và nhiều giá trị 
văn hóa khác. Tuy nhiên trang phục, ẩm thực, kiến 
trúc là những GTVH độc đáo hơn cả. Vậy để có thể 
bảo tồn được các GTVH ấy, tỉnh Sơn La và chính 
cộng đồng dân tộc Thái Trắng tại chỗ cần thực hiện 
đồng bộ nhiều giải pháp mới có thể gìn giữ được 
những nét đẹp văn hóa đó. 
4. Một số giải pháp giữ gìn và phát huy giá 
trị văn hóa truyền thống của người Thái Trắng 
ở bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh 
Sơn La
Trong xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay, 
việc bảo tồn các GTVHTT của đồng bào dân tộc 
thiểu số tại bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, 
tỉnh Sơn La là vô cùng cần thiết. Do đó, để gìn giữ 
GTVHTT chính quyền địa phương và người dân 
bản địa nơi đây cần thực hiện một số giải pháp cụ 
thể như sau: 
- Một là, trang phục là giá trị văn hóa đặc sắc để 
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, vì vậy trang 
phục của dân tộc Thái Trắng cần phải được giữ gìn 
và bảo lưu. Khuyến khích trẻ em, phụ nữ, người 
cao tuổi sử dụng trang phục của dân tộc mình nhiều 
hơn, đặc biệt trong các dịp lễ, hội, Bởi lẽ hiện 
nay do xu thế hội nhập chúng ta tiếp nhận nhiều loại 
hình trang phục khác nhau nên đồng bào người Thái 
ít sử dụng trang phục của mình trong cuộc sống đời 
thường. 
- Hai là, khuyến khích đồng bào DTTS tại bản 
Dọi, xã Tân Lập giữ gìn ngôi nhà sàn truyền thống 
của dân tộc mình. Tại Sơn La, nhiều bản đang được 
quy hoạch để phát triển du lịch cộng đồng. Vì vậy, 
chính quyền địa phương cần khuyến khích bà con 
khai thác ngôi nhà sàn của dân tộc mình để đón và 
phục vụ khách du lịch tham quan, phát triển loại 
hình du lịch cộng đồng tại địa phương. 
- Ba là, huyện Mộc Châu cần tổ chức nhiều cuộc 
thi nấu các món ăn dân tộc và mời thí sinh dự thi 
là đồng bào các dân tộc thiểu số trong huyện, trong 
đó có người Thái Trắng tại bản Dọi cùng tham gia. 
Qua cuộc thi, tài năng của các thí sinh được thể hiện 
và cũng là cách để quảng bá với du khách trong và 
ngoài tỉnh về đặc trưng ẩm thực của địa phương. 
- Bốn là, hàng năm tại huyện Mộc Châu tổ chức 
ngày hội văn hóa các dân tộc Sơn La vào dịp mùng 
2.9. Đây là dịp thuận lợi để dân tộc Thái Trắng 
bản Dọi, xã Tân Lập và các dân tộc khác quảng bá 
những GTVHTT của dân tộc mình với các dân tộc 
khác. Vì vậy đồng bào Thái Trắng ở đây cần chuẩn 
bị nhiều gian hàng để giới thiệu với du khách: Ẩm 
thực, mô hình kiến trúc nhà ở, trang phục dân tộc, 
giới thiệu kỹ thuật thêu dệt sản phẩm, đồ thủ công 
truyền thống  
5. Kết luận
Trên địa bàn tỉnh Sơn La có nhiều dân tộc anh 
em cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều có những đặc 
trưng văn hóa riêng. Trong các dân tộc ấy, dân tộc 
Thái Trắng ở bản Dọi, xã Tân Lập, huyện Mộc 
Châu có nhiều TTVH độc đáo và được lưu truyền 
đến ngày nay. Trong điều kiện tác động của xu thế 
toàn cầu hóa hiện nay thì việc bảo tồn và phát huy 
GTVH truyền thống vùng đồng bào DTTS là vô 
cùng cần thiết, để các giá trị văn hóa đó không bị 
hòa tan vào những GTVH hiện đại của các nước 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
136 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Tài liệu tham khảo
Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền 
thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học 
Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Hạnh (2018), Education of cultural 
values for the young of Thai ethnic minority 
in Sonla province, Hội thảo quốc tê: “Đào 
tạo giáo viên trong bối cảnh cuộc cách mạng 
công nghiệp 4.0”, Thái Nguyên, 12/2018. 
Đào Duy Tuấn (2012), Khai thác các giá trị 
văn hóa truyền thống phục vụ phát triển du 
lịch (Nghiên cứu trường hợp làng Mông 
Phụ xã Đường Lâm thị xã Sơn Tây tỉnh Hà 
Tây), Luận án Tiến sỹ, Viện Khoa học Xã 
hội Việt Nam.
Phạm Lê Thảo (2006), Tổ chức lãnh thổ du lịch 
Hòa Bình trên quan điểm phát triển bền 
vững, Luận án Tiến sỹ Địa lý, Đại học Sư 
phạm Hà Nội, tr.26.
Lê Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục 
dân tộc Thái, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt 
Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.20.
Nhiều tác giả (2001), Giữ gìn phát huy di sản 
văn hóa các dân tộc Tây Bắc, Nxb. Văn hóa 
Dân tộc, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2008), Người Thái ở Tây Bắc, 
Nxb. Thông Tấn, Hà Nội.
KEEPING AND RECOMMENDING THE TRADITIONAL CULTURAL 
VALUE OF ETHNIC MINORITY PEOPLE IN THE DOI VILLAGE, 
TAN LAP COMMUNE, MOC CHAU DISTRICT, SON LA PROVINCE
Nguyen Thi Hanha
Quang Van Kiemb
a Son La College
Email: hanhsla2701@gmail.com
b Son La College
Email: quangkiem84@gmail.com
Received: 15/2/2019
Revised: 26/2/2019
Accepted: 10/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/277
Abbsstrac: Son La province has many ethnic minorities 
residing with many rich and diverse cultural traditions. These 
cultural traditions have been formed, preserved and preserved 
for generations by people until today. In many ethnic groups 
residing in Son La, Thai people have the largest population 
(over 50% of the provincial population). In Doi village, Tan 
Lap commune, Moc Chau district is mainly Thai White people. 
For many years, people here have a sense of preserving the 
traditional cultural values of their people and promoting with 
domestic and foreign tourists. However, in the current context 
of integration, the challenges posed to the preservation of 
traditional cultural values are not small. Therefore, Doi village, 
Tan Lap commune, Moc Chau district needs specific solutions 
to preserve and promote the traditional cultural values of the 
local people.
Keyword: Cultural traditions; Cultural identity; Traditional 
cultural values; Community tourism; The Doi village, Tan Lap 
commune, Moc Chau district, Son La province
trong khu vực. Vậy để làm tốt công tác bảo tồn và 
phát huy giá trị văn hóa truyền thống vùng đồng bào 
DTTS, chính quyền địa phương và bà con dân tộc 
tại chỗ cần thực hiện tốt nhiều giải pháp. Sự nỗ lực 
của chính cộng đồng các dân tộc cùng với sự giúp 
đỡ của các cấp, các ngành thì những giá trị văn hóa 
đặc sắc vừa được bảo tồn, phát huy được hiệu quả 
nhất định vừa thu hút được khách du lịch trong và 
ngoài nước đến với cộng đồng. 

File đính kèm:

  • pdfgiu_gin_va_phat_huy_gia_tri_van_hoa_truyen_thong_cua_dong_ba.pdf