Giáo trình Xã hội học tôn giáo (Phần 1)

Trong lĩnh vực xã hội học tôn giáo, việc nghiên cứu một khái niệm dưới góc

độ từ nguyên học là cần thiết, nhằm đưa ra một sự dẫn hướng đến việc tìm ra một

định nghĩa của khái niệm. Thuật ngữ tôn giáo, có nguồn gốc từ phương Tây, đã

trải qua một quá trình biến đổi nội dung của nó và khi nó trở nên phổ quát trên

khắp các nước, lại mâu thuẫn với những khái niệm truyền thống, không tương ứng

của những dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau.

Nội dung tôn giáo, ban đầu được hiểu là sự hàm chứa một bộ phận ý thức hệ

phức tạp của những nền văn minh khác nhau, trải dài từ cổ đại đến hiện đại, tại

tất cả các quốc gia và khu vực. Càng về sau, tôn giáo càng muốn khẳng định sự

thần khải. Vì vậy, nhiều người đã đối lập tôn giáo thần khải với tôn giáo tự nhiên

và cho rằng, sự khác biệt đó là bao hàm sự tôn thờ một Đấng tối cao, một niềm tin

vào sự vĩnh cửu của linh hồn và kì vọng vào sự giải thoát.

Ở Việt Nam, khi đề cập đến tôn giáo, nhiều người hiểu là vấn đề nội dung

của Đạo giáo, đạo Nho, đạo Phật, đạo Kitô. nhưng đồng thời cũng lại hiểu là

việc đề cập đến cách ứng xử làm người trong mối quan hệ cha mẹ, anh em, con

cái, vợ chồng, bè bạn. Nếu để chỉ một tôn giáo cụ thể, ở Việt Nam, phải đặt sau

thuật ngữ đạo - tên gọi của tôn giáo đó. Chẳng hạn, đạo Phật, đạo Nho, đạo Kitô,

đạo Tổ tiên, hoặc khi phải thêm thuật ngữ thờ, như đạo thờ Thành hoàng, đạo thờ

ông bà, đạo thờ vua Hùng, đạo thờ Phật và thậm chí thuật ngữ đạo còn dùng để

chỉ những tín đồ đạo Kitô, để đối lập với lương. Để chỉ một tôn giáo, ta có thể

ghép một bổ ngữ giáo sau tên một tôn giáo cụ thể, như Kitô giáo, Nho giáo, Phật

giáo. Giáo, còn có nghĩa là giáo hóa, dạy bảo, dạy theo giáo lý của Kitô giáo,

hay Nho giáo - lời dạy của các vị thánh thần.

 

pdf 146 trang kimcuc 5960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Xã hội học tôn giáo (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Xã hội học tôn giáo (Phần 1)

Giáo trình Xã hội học tôn giáo (Phần 1)
 1 
LỜI NHÀ XUẤT BẢN 
Tôn giáo là một thực tại khách quan, xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài 
người. Tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của cá thể, của cộng đồng và toàn xã hội. 
Do vậy, tôn giáo là một yếu tố rất cần phải nghiên cứu, vì qua đó mới hiểu được 
đời sống xã hội và văn hóa tinh thần của nhân loại, dân tộc, của một cộng đồng, 
hay một cá thể. Tôn giáo vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính xã hội, bản thân tôn 
giáo có những đặc trưng riêng biệt và có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực của đời 
sống. Tôn giáo lại có những biểu hiện rất khác nhau giữa các cộng đồng, các cá 
thể trong một cộng đồng; chẳng hạn, các nghi thức, cấm kỵ, hiến tế, cầu xin, thờ 
cúng và nơi thờ tự... 
Với tính cách như là một hiện tượng xã hội, tôn giáo có thuộc tính xã hội sâu 
sắc, phản ánh đời sống xã hội của con người và các yếu tố xã hội mang màu sắc 
tôn giáo này, lại tác động trở lại đến đời sống thực tiễn của con người. Vì vậy, việc 
nghiên cứu tôn giáo với tư cách là một hiện tượng xã hội là một lĩnh vực quan 
trọng của xã hội học. Nếu coi nhẹ hoặc không quan tâm đến khía cạnh xã hội của 
tôn giáo, thì không thể lý giải được các đặc điểm và tính chất của hiện tượng xã 
hội đặc biệt này. Mặt khác, để biến tôn giáo thành lực lượng xã hội phục vụ cho 
những lợi ích chung của dân tộc, đất nước và để hạn chế, khắc phục những mặt tiêu 
cực của nó thì việc cần thiết, là phải hiểu biết sâu sắc về đặc trưng và bản chất của 
tôn giáo, có nghĩa là phải hiểu những khía cạnh của tôn giáo ảnh hưởng đến niềm 
tin, tín ngưỡng, hành vi, lối sống - những khía cạnh xã hội của nó. 
Việt Nam là đất nước có nhiều loại hình tôn giáo cùng tồn tại, lại có tính đan 
xen, thể hiện khác biệt với nhiều nước khác ngay trong khu vực và trên thế giới. 
Trong một không gian nhỏ hẹp, có thể có nhiều tôn giáo, có tôn giáo mang tính 
toàn cầu như Kitô giáo, Tin lành giáo, Hồi giáo; có tôn giáo mang tính khu vực như 
Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo; có tôn giáo mang tính địa phương như đạo Cao 
đài, đạo Hòa Hảo, đạo Dừa... Trong những năm gần đây, tôn giáo ở nước ta có 
nhiều biểu hiện phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực là đáp ứng nhu cầu tin 
thần của nhân dân, hướng con người sống lành mạnh, lương thiện, đã nảy sinh 
những biểu hiện tiêu cực cần khắc phục, như mê tín, dị đoan, buôn bán thánh thần, 
cùng một số hủ tục ảnh hưởng đến đời sống văn hóa xã hội... Trong đó, có không ít 
những kẻ lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, để gây trở ngại cho công cuộc 
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 
Chúng ta thực hiện và tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, nhưng chúng 
ta cũng kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực và những hành động 
 2 
lợi dụng tôn giáo vào các mục đích gây trở ngại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ 
đất nước. Do vậy, nghiên cứu tôn giáo để hiểu đúng, hiểu rõ bản chất những mặt 
tích cực và những mặt tiêu cực của hiện tượng xã hội này, đã trở thành một nhiệm 
vụ cần thiết hiện nay, như Chỉ thị 24/CT-BCT, ngày 02 tháng 07 năm 1998 của Bộ 
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, về công tác tôn 
giáo trong tình hình mới và Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19 tháng 04 năm 1999 
của Chính phủ, về các hoạt động tôn giáo. 
Điều đáng lưu ý là nghiên cứu tôn giáo dước góc độ xã hội học ở nước ta, còn 
là vấn đề khá mới mẻ và có một cách hạn chế những công trình xã hội học nghiên 
cứu chuyên sâu về vấn đề này, đặc biệt từ lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết. 
Xuất phát từ những vấn đề trên, Nhà Xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội cho 
xuất bản giáo trình Xã hội học tôn giáo, do Tiến sĩ Vũ Quang Hà, Phó Chủ nhiệm 
Khoa Xã hội học, Chủ nhiệm Bộ môn Lý thuyết và Phương pháp nghiên cứu, 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí 
Minh biên soạn, trên cơ sở các bài giảng về xã hội học tôn giáo cho sinh viên 
chuyên ngành xã hội học, Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, nhằm cung cấp cho sinh viên, 
học viên cao học, nghiên cứu sinh, các cán bộ giảng dạy xã hội học và những độc 
giả quan tâm tới xã hội học tôn giáo một số kiến thức cơ bản nhất về tính xã hội, 
niềm tin, lối sống và sự biến đổi tôn giáo... 
Nội dung của giáo trình Xã hội học tôn giáo, được trình bày trong ba phần, 
gồm XXIII chương: 
 - Phần thứ nhất: Tiếp cận xã hội học tôn giáo; 
 - Phần thứ hai: Các lĩnh vực xã hội học tôn giáo; 
 - Phần thứ ba: Biến đổi tôn giáo. 
 Tìm hiểu những khía cạnh xã hội của một vấn đề rộng lớn và phức tạp như tôn 
giáo, là một công việc rất phức tạp; vì vậy, giáo trình này không thể tránh khỏi 
những thiếu sót; hơn nữa, đây lại là những bước đi ban đầu. Nhà Xuất bản và Tác 
giả, rất mong nhận được những lời chỉ dẫn, những đóng góp của các nhà nghiên 
cứu và đông đảo độc giả. 
Nhà Xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, trân trọng giới thiệu giáo trình Xã 
hội học tôn giáo đến độc giả. 
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
 3 
LỜI NÓI ĐẦU 
Cùng với các vấn đề xã hội khác, tôn giáo biểu hiện và thay đổi theo quá 
trình diễn biến của lịch sử nhân loại, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh địa lý, kinh tế, 
chính trị, xã hội, văn hóa của từng cộng đồng xã hội và tôn giáo khác nhau. Diễn 
trình của tôn giáo qua lịch sử rất phức tạp, vừa có tính phản ánh, lại vừa có tính 
phản kháng xã hội đã sản sinh, nuôi dưỡng và duy trì sự tồn tại của tôn giáo. K. 
Marx nhận định: "Nhà nước nào, xã hội nào thì sản sinh ra tôn giáo như thế ấy", 
chính vì vậy, bộ mặt tôn giáo của nhân loại qua thời gian và không gian không thể 
không có sự biến đổi; mặc dầu, về bản chất, nội dung cơ bản có thể vẫn được giữ 
nguyên. 
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, tồn tại cùng với chiều dài lịch sử xã hội 
loài người. Tôn giáo xuất hiện ngay từ khi con người còn ở chốn hoang sơ, là một 
nhu cầu của tín đồ và những người theo tôn giáo. Một nhu cầu có tính cộng đồng, 
dân tộc, khu vực và toàn nhân loại. Tôn giáo không chỉ là việc đạo, mà còn là 
việc đời; nó không chỉ liên quan đến viễn cảnh về cuộc sống ngày mai trên thiên 
đường hay nơi địa ngục, mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của con người. 
Trong đó, lối sống, niềm tin tôn giáo gắn bó chặt chẽ với đời sống văn hóa của 
mỗi dân tộc, cộng đồng, nhóm xã hội và mỗi quốc gia. 
Nhiệm vụ cơ bản của nghiên cứu tôn giáo, cả ở khía cạnh tôn giáo học, tâm 
lý học và xã hội học, là tìm ra cái chung nhất của những tôn giáo trong hình thức 
biểu hiện đa dạng. Đồng thời cần đi sâu nghiên cứu tôn giáo cụ thể, trong đó bao 
hàm vấn đề niềm tin tôn giáo, lối sống tôn giáo, biến đổi tôn giáo, đang là điều 
bức thiết trong thời đại hiện nay. Sở dĩ như vậy, vì diện mạo tôn giáo thế giới nói 
chung và từng tôn giáo nói riêng, đang có nhiều biến chuyển to lớn, thể hiện ở 
chỗ, nhiều hiện tượng tôn giáo mới liên tục phát sinh. 
Tôn giáo luôn có tính khép kín và bảo thủ trong từng cộng đồng, mỗi tôn giáo 
lại có cách diễn đạt riêng và cách hiểu khác nhau giữa các tín đồ và của người 
khác đạo. Do vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa cụ thể, khả dĩ đại diện cho 
các tôn giáo ở tất cả các quốc gia. Về vấn đề này, trong giáo trình Xã hội học tôn 
giáo, chúng tôi chỉ có thể đưa ra một định nghĩa tối thiểu, quan tâm đến những đặc 
tính cốt lõi nhất của tôn giáo. 
Trước tình hình biến động trong đời sống tôn giáo hiện nay, việc đưa ra cách 
nhìn, quan điểm nghiên cứu khía cạnh xã hội của tôn giáo lại càng khó khăn. Vì 
vậy, khó có một sự thống nhất chung trong nghiên cứu xã hội học tôn giáo giữa 
 4 
các trường phái xã hội học trong các quốc gia, khu vực, thậm chí ngay trong một 
quốc gia. Trong giáo trình này, chúng tôi chỉ giới hạn sự quan tâm đến khía cạnh 
xã hội, tâm lý của tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo với các lĩnh vực cụ thể của 
đời sống xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố như niềm tin, thực hành tôn 
giáo, sự quy thuộc... của từng tôn giáo riêng biệt, hay những tôn giáo khu vực, tôn 
giáo của một dân tộc, để tìm ra cái chung nhất, cũng như cái riêng biệt, qua những 
tác động lịch đại và đồng đại của từng tôn giáo hay nhiều tôn giáo với nhau và 
đối với toàn xã hội. 
Trong lĩnh vực xã hội học tôn giáo, việc nghiên cứu một khái niệm dưới góc 
độ từ nguyên học là cần thiết, nhằm đưa ra một sự dẫn hướng đến việc tìm ra một 
định nghĩa của khái niệm. Thuật ngữ tôn giáo, có nguồn gốc từ phương Tây, đã 
trải qua một quá trình biến đổi nội dung của nó và khi nó trở nên phổ quát trên 
khắp các nước, lại mâu thuẫn với những khái niệm truyền thống, không tương ứng 
của những dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau. 
Nội dung tôn giáo, ban đầu được hiểu là sự hàm chứa một bộ phận ý thức hệ 
phức tạp của những nền văn minh khác nhau, trải dài từ cổ đại đến hiện đại, tại 
tất cả các quốc gia và khu vực. Càng về sau, tôn giáo càng muốn khẳng định sự 
thần khải. Vì vậy, nhiều người đã đối lập tôn giáo thần khải với tôn giáo tự nhiên 
và cho rằng, sự khác biệt đó là bao hàm sự tôn thờ một Đấng tối cao, một niềm tin 
vào sự vĩnh cửu của linh hồn và kì vọng vào sự giải thoát. 
Ở Việt Nam, khi đề cập đến tôn giáo, nhiều người hiểu là vấn đề nội dung 
của Đạo giáo, đạo Nho, đạo Phật, đạo Kitô... nhưng đồng thời cũng lại hiểu là 
việc đề cập đến cách ứng xử làm người trong mối quan hệ cha mẹ, anh em, con 
cái, vợ chồng, bè bạn... Nếu để chỉ một tôn giáo cụ thể, ở Việt Nam, phải đặt sau 
thuật ngữ đạo - tên gọi của tôn giáo đó. Chẳng hạn, đạo Phật, đạo Nho, đạo Kitô, 
đạo Tổ tiên, hoặc khi phải thêm thuật ngữ thờ, như đạo thờ Thành hoàng, đạo thờ 
ông bà, đạo thờ vua Hùng, đạo thờ Phật và thậm chí thuật ngữ đạo còn dùng để 
chỉ những tín đồ đạo Kitô, để đối lập với lương. Để chỉ một tôn giáo, ta có thể 
ghép một bổ ngữ giáo sau tên một tôn giáo cụ thể, như Kitô giáo, Nho giáo, Phật 
giáo... Giáo, còn có nghĩa là giáo hóa, dạy bảo, dạy theo giáo lý của Kitô giáo, 
hay Nho giáo - lời dạy của các vị thánh thần. 
Một vấn đề mang tính xã hội cần được quan tâm, đó là thờ, thờ thường đi đôi 
với cúng. Về mặt thuật ngữ, cúng mang ý nghĩa hoàn toàn thế tục. Thuật ngữ cúng 
cũng có nhiều nghĩa, vừa có tính tôn giáo, vừa có tính thế tục. Cúng, có nghĩa là 
vật dâng tế, là cung phụng, là hiến tế. Trong hầu khắp các dân tộc ở nước ta, cúng 
có nghĩa là dâng lễ vật cho các đấng thần linh, cho người đã khuất... Bên cạnh ý 
 5 
nghĩa tôn giáo đó, thuật ngữ cúng còn có nghĩa là đóng góp cho việc công ích, cho 
việc từ thiện. Thuật ngữ ghép thờ cúng, lại chỉ dành riêng cho các nội dung và 
hành vi mang tính tôn giáo; cũng như thuật ngữ cúng giỗ, được sử dụng trong 
phạm vi hẹp hơn. 
Tôn giáo theo thuật ngữ thuần tuý Việt, được hiểu là thờ, hay thờ cúng, ngoài 
ra còn được hiểu là đạo, là giáo. Cũng chính vì vậy, trong quảng đại quần chúng 
nhân dân, thuật ngữ tôn giáo dường như còn rất xa lạ và được hiểu theo nhiều 
cách khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu tôn giáo nói chung và xã hội học 
tôn giáo nói riêng, có hiện tượng sử dụng thuật ngữ tôn giáo để chỉ các tôn giáo 
được định nghĩa theo cách của Kitô giáo, tức là các tổ chức như Kitô giáo, Hồi 
giáo, Phật giáo,... thậm chí cho cả đạo Cao đài, Hịa Hảo. Ngoài ra, với các hình 
thức tôn giáo khác, kể cả đạo Tổ tiên, đạo Ông bà, đạo Mẫu (một biến thể của 
Đạo giáo), hay Đạo giáo ở khu vực Đông Bắc, được gọi là tín ngưỡng hay tín 
ngưỡng dân gian, thậm chí là mê tín, dị đoan. Theo Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, 
vấn đề cần quan tâm là thuật ngữ tôn giáo, xuất hiện trên báo chí nước ta từ cuối 
thế kỷ XX, trong các cuốn Từ điển Khai trí, Tiến đức (1931) và cuốn Dictionnaire 
Annamite - Chinois - Francais (1937) của G. Hue. Trong nhân dân, có tâm lý 
không muốn nhận là có tôn giáo, có tín ngưỡng; chỉ muốn nhận là theo một đạo 
cụ thể, thờ một vị thần cụ thể. Đây cũng chính là sự khác biệt về mặt bản chất, 
giữa tôn giáo phương Đông với tôn giáo phương Tây. 
Các cư dân ở các khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, trước thế kỷ 
XV, đều có những thuật ngữ riêng của mình để chỉ tôn giáo. Vấn đề này, đến nay 
cũng còn được các nhà nghiên cứu tôn giáo tranh luận, vì nội dung đầy đủ của 
thuật ngữ chưa được hiểu thống nhất và đầy đủ. Trong đó, nội dung này lại có sự 
khác biệt căn bản với quan niệm của châu Âu. 
Đối diện với sự đa dạng về nội dung tôn giáo, ở phương Tây có xu hướng 
chấp nhận dùng thuật ngữ tôn giáo truyền thống, nhưng tìm ra cho nó một nội 
dung có tính phổ quát hơn, mang tính toàn cầu và thích hợp với những biến đổi. 
Một số khác, lại đưa ra những khái niệm mới và vẫn đặt cho các tôn giáo truyền 
thống ở các châu lục một khái niệm, nhằm chỉ tôn giáo ở một thang bậc thấp hơn. 
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2002 
VŨ QUANG HÀ 
 6 
Phần thứ nhất 
TIẾP CẬN 
XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO 
Chương I 
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG 
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
I. ĐỐI TƯỢNG CỦA XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO 
Việc xác định đối tượng nghiên cứu của các môn học, luôn luôn là vấn đề có 
vị trí đầu tiên. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học tôn 
giáo lại có tính đặc thù và rất phức tạp. Tư ... c nhau về hệ tư tưởng, về giới tính, về địa vị xã hội, v.v... mà trong những 
bối cảnh đa nguyên tôn giáo, còn đánh dấu căn tính của một nhóm tộc người tìm 
thấy trong tôn giáo một điểm mạnh để tự phân biệt và tự khẳng định như vốn có 
và, qua ngôn ngữ tôn giáo, làm cho ngôn ngữ, văn hóa và lối sống của nó trở nên 
bền vững. 
Những trường hợp thể hiện rõ trên thế giới hiện nay, là những dân tộc bị đe 
dọa huỷ diệt, họ tìm thấy phương tiện cuối cùng để bảo vệ căn tính đang bị huỷ 
diệt của mình trong việc giữ gìn những biểu tượng tôn giáo. Chẳng hạn, người 
Armênia, gần đây (Andrew Greeley), đã tìm cách đánh giá trọng lượng của biến 
số tộc người trong mối liên hệ với tôn giáo trong đời sống phức tạp của nước Mỹ; 
nơi gặp gỡ của các chủng tộc và vô số tộc người, bằng việc phát hiện ra những 
khác biệt chính về tộc người là giữa người Do Thái và không phải Do Thái, một 
bên, và giữa những tín đồ Kitô không có gốc latinh và những tín đồ Tin lành Mỹ, 
một bên khác. Như vậy, trừ người Do Thái có xu hướng giữ gìn các truyền thống 
và sự thành kính tôn giáo về mặt văn hóa mạnh hơn những dân tộc khác ra, tôn 
giáo dễ trở thành một hệ thống tự vệ của các nhóm tộc người mới nhập cư trên lục 
địa Mỹ, một thứ nhân tố gắn kết nhau đối với một nhóm đang phải mở đường tồn 
tại trong nền dân chủ Mỹ và đang sử dụng căn tính của mình như một dấu hiệu tự 
nhận biết. 
 142 
Chương XI 
ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO 
VÀ NHẬN THỨC TÔN GIÁO 
I. ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO 
I. 1. Khái niệm 
Đạo đức tôn giáo là lĩnh vực được nhiều bộ môn quan tâm, vì nó là tổng thể 
các khái niệm, nguyên tắc, tiêu chuẩn đạo đức được hình thành trực tiếp từ thế 
giới quan tôn giáo. Đạo đức tôn giáo của bất kỳ tôn giáo nào, cũng đều có những 
đặc điểm chủ yếu là mối liên hệ bền vững, tất yếu của nó với các tín điều. Điều 
này, quyết định tính chất bảo thủ của đạo đức tôn giáo và cũng vì lý do này, đạo 
đức tôn giáo luôn luôn là một gánh nặng cho những thế hệ sống trong những điều 
kiện xã hội - lịch sử đã đổi thay (xã hội sau một cuộc cách mạng xã hội). 
Giữa các tôn giáo, các tiêu chuẩn đạo đức luôn có những sự khác nhau nào 
đó (ít nhất là một lĩnh vực, như niềm tin, sự quy thuộc...), vì mỗi tôn giáo được 
hình thành trong những điều kiện không gian, thời gian khác nhau, ở các quốc gia 
hay dân tộc khác nhau. Nhưng sự giống nhau cơ bản của chúng là chúng đều ra 
đời trong những điều kiện có bóc lột giai cấp một cách khốc liệt, cần phải thần 
thánh hóa các quan hệ thế tục bất bình đẳng, hay sự tồn tại của các hình thái kinh 
tế xã hội có mâu thuẫn đối kháng. 
Trong điều kiện xã hội đương đại, khi con đường phát triển chung của loài 
người là nền dân chủ và toàn cầu hóa, thì thực tiễn lớn nhất là đấu tranh xây dựng 
một xã hội dân chủ, tự do, công bằng. Đối với đạo đức tôn giáo, thực tiễn đó lại 
không phải là thước đo giá trị của nó. Các tín đồ đánh giá đạo đức của mình ở 
chỗ, là việc làm của họ có lợi hay có hại cho cuộc sống của linh hồn bất tử. Việc 
thay thế tiêu chuẩn ở bên trên và bên ngoài cá thể, để đánh giá đạo đức mang 
trong nó một nguy cơ đối với mối quan hệ giữa người với người. 
I. 2. Những yếu tố cấu thành đạo đức tôn giáo 
 143 
Theo V. I. Lenine, ý nghĩa của cuộc sống của con người là phải tích cực tham 
gia vào công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng 
sản chủ nghĩa. Yếu tố quan trọng nhất của hoạt động này, là lao động sáng tạo 
hiện thực xã hội. Trong khi đó, đạo đức tôn giáo lại lấy mục đích, ý nghĩa của 
cuộc sống là cuộc sống ở thế giới bên kia. Coi đó là cuộc sống đích thực; tôn giáo 
nói chung, cũng nhìn lao động theo tinh thần tiêu cực. Theo quan điểm của Phật 
giáo, lao động là một yếu tố ràng buộc con người với thực tại ảo ảnh nơi trần gian, 
có hại cho sự siêu thoát của con người. Lao động duy nhất được Phật giáo đồng 
tình, là lao động giúp cho việc duy trì giới tăng ni. Theo Thiên chúa giáo, lao động 
là hình phạt của Chúa để chuộc tội tổ tông. Nói một cách khác, các tín đồ tôn giáo 
luôn nhìn nhận lao động không phải do sự tự giác của họ, mà được quy định bởi 
tất yếu khách quan là cuộc sống hàng ngày. Đối với họ, lao động trong cuộc sống 
hiện thực chỉ thứ yếu. Hơn nữa, đối với tín đồ, việc đánh giá lao động lại không 
theo tiêu chuẩn có lợi cho cuộc sống hiện thực mà lại bằng mức độ cực nhọc, vất 
vả. Lao động theo tinh thần như vậy, không thể là lao động sáng tạo. 
Khi con người không thể coi lao động là một tất yếu của hiện thực thì con 
người không thể có tự do. Chủ nghĩa Mác cho rằng, hiện thực khách quan và tự do 
của con người là sự thể hiện bản chất của con người thông qua lao động. Là tự do 
của con người, vì lao động và tự do đều có các đặc điểm cơ bản giống nhau. Vấn 
đề tự do của con người, là vấn đề phát triển mọi lực lượng khả năng sáng tạo của 
họ. Con người tôn giáo (tín đồ), không thể có tự do, một khi tự do bị tách ra khỏi 
tất yếu khách quan là lao động. 
Tín đồ tôn giáo không phải chỉ mất tự do về thể xác, khi thể xác con người 
theo tôn giáo phụ thuộc tuyệt đối vào giới tự nhiên và xã hội. Họ cũng còn mất cả 
tự do về mặt hoạt động tâm lý xã hội, tức linh hồn, vì linh hồn phụ thuộc tuyệt đối 
vào các lực lượng siêu tự nhiên. Đạo đức tôn giáo, tạo ra những con người tiêu 
cực toàn diện, tiêu cực trước tự nhiên, trước xã hội với lý thuyết tiền định của tôn 
giáo, với lý thuyết tự cứu lấy linh hồn của mình trong mỗi tín đồ, theo tinh thần 
của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối. Nó chống lại chủ nghĩa tập thể, trong khi chủ 
nghĩa tập thể như, Marx và Engels nói, là điều kiện tất yếu để con người phát 
triển các khả năng của mình để được tự do. 
Plékhanov, người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Marx vào nước Nga, đã rất 
đúng khi nói rằng: “Chống lại chủ nghĩa cá nhân, thì phải không có thư ù bùa mê 
nào hiện diện trong cuộc sống thực tại. Là kết quả đáng buồn của cuộc sống của 
con người trên trái đất, nó sẽ mất đi khi nào các mối quan hệ mang tính thế tục 
qua lại giữa con người với nhau, không còn biểu hiện ra trong cái nguyên tắc 
 144 
người với người là sói”60. 
II. NHẬN THỨC TÔN GIÁO 
II. 1. Khái niệm 
Nhiều bộ môn khoa học, đã nghiên cứu yếu tố môi trường sống của con 
người, và xem đó là một trong những cấu trúc cơ bản, tạo nên cách thức tổ chức 
hệ thống nhận thức riêng biệt của mỗi cá thể. Tổ chức ở đây có nghĩa là thiết lập 
một hệ thứ bậc của những ý nghĩa, gán từng ý nghĩa ấy cho những thực tiễn cụ 
thể, cũng như cho những vấn đề quan hệ với ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời mỗi 
con người. 
Theo trường phái nghiên cứu xã hội học hướng vĩ mô, những ý nghĩa cuối 
cùng là một yếu tố mang các hình thức tín ngưỡng tôn giáo. Việc có một kinh 
nghiệm về cái thiêng liêng và niềm tin tưởng vào một cái gì vượt lên bản chất có 
giới hạn của con người, có thể thỏa mãn được một nhu cầu nhận thức. 
Theo quan điểm này, tôn giáo là một hệ thống luôn luôn tồn tại một cấu trúc 
có sự gắn bó nội tại, nhằm đem lại một giải đáp đủ làm thỏa mãn nhu cầu có 
nguồn gốc môi trường xã hội ấy, bằng cách xung đột với những hệ thống khác có 
tham vọng cung cấp những nhận thức về căn bản dựa vào khoa học, hay dựa vào 
những hình thức tri thức không bình thường. 
II. 2. Những phân tích về nhận thức tôn giáo 
Nhận thức tôn giáo thường được phân tích theo hai quan điểm: 
- Thứ nhất, bằng mô hình kinh nghiệm về cái thiêng liêng của một người. 
Hiển nhiên là người nào chiêm nghiệm thấy được một sự hiện hữu cao cả và thần 
bí, người đó sẽ thiết lập lên một “khoa học” về thần thánh tương ứng với kiểu 
kinh nghiệm thần bí. Cũng giống như người nào đã có một kinh nghiệm thần bí. 
Cũng giống như người nào đã có một kinh nghiệm về cái thiêng liêng trong thời 
gian và có tính nội tại trong tự nhiên, người đó sẽ thỏa mãn nhu cầu nhận thức của 
mình theo những hình thức trực giác khác nhau (chẳng hạn như nghệ thuật, thi ca, 
âm nhạc). 
- Thứ hai, nhận thức tôn giáo có thể được coi như một tập hợp ý nghĩa và 
công thức được các chuyên gia (các nhà thần học, các tăng lữ, các nhà tiên tri, các 
đạo sĩ truyền phép thần thông, v.v...) hệ thống hóa, và do đó trở thành một tri thức 
chuyên môn hóa chỉ thỏa mãn một phần tín đồ (bên cạnh tri thức của những “nhà 
thông thái”, trong mọi tôn giáo đều có sự phát triển của một tri thức “dân gian”, ít 
60 Plékhanov, Tôn giáo nước Nga, Nhà Xuất bản Tiến bộ, M. 1994, tr. 20 (tiếng Nga). 
 145 
chặt chẽ và có tính trực tiếp). 
Nhà nghiên cứu tôn giáo Peter Berger, đã minh họa một cách thuyết phục 
trong các công trình của mình, về các hình thức tri thức tôn giáo đã tự biến đổi 
như thế nào trong Kitô giáo. Trong xã hội hiện đại, chẳng hạn, những tên gọi 
khác nhau của Kitô giáo bao giờ cũng chịu ảnh hưởng nhiều hơn của tính chất đa 
nguyên. Mà thực chất là tính đa nguyên về văn hóa và hệ tư tưởng, vì vậy, đã làm 
cho sự tin tưởng chỉ có mình mới nắm được chân lý lâm vào khủng khoảng, mà sự 
tin tưởng ấy, chính là cơ sở để cho các giáo hội xây dựng một quan điểm toàn vẹn 
và thống nhất về thế giới. 
Sự cáo chung của các nguồn thống nhất tri thức tôn giáo, được hệ thống hóa 
ấy đã đẻ ra tình trạng chia cắt và tương đối hóa các quan điểm trong môi trường 
tôn giáo, thể hiện ở một sự tan rã của các ethos (đạo đức) tập thể, ở sự hình thành 
một tri thức tôn giáo vặt vãnh, tản mạn, mà mỗi cá nhân cố xây dựng bằng những 
nguồn thông tin khác nhau (Giáo hội mình qui thuộc và các phương tiện truyền 
thông đại chúng, lời rao giảng của mục sư và việc đọc các bản văn). 
Trong các xã hội công nghiệp, một bên, thấy tăng thêm những người lý giải 
cái thế giới trong đó họ sống cũng như lý giải cuộc sống của họ mà không nhờ tới 
những lý giải tôn giáo bên ngoài và được cho phép, khiến cho nhận thức tôn giáo 
mơ hồ ngày càng giảm bớt; và một bên khác, lại thấy tăng thêm sự khác nhau 
giữa những người hiểu các nội dung và các bản văn của một tôn giáo nhất định 
theo lối chuyên nghiệp và đám đông những tín đồ bình thường. 
II. 2. Phương pháp đo trình độ nhận thức tôn giáo 
Đo trình độ nhận thức tôn giáo, là một vấn đề phức tạp. Sở dĩ như vậy, vì nó 
thể hiện trình độ nhận thức tối thiểu về tôn giáo của cá thể, có ý nghĩa đối với xác 
định cái thiêng liêng, hay những nội dung chính về con đường cứu rỗi được đề 
xướng, hoặc quan niệm về thần thánh, v.v..., do đó không phải bao giờ cũng dễ 
tách riêng cái lõi của những giáo điều, những giới luật, những tín ngưỡng có thể 
được coi là cần thiết để nói rằng, có hay không có một trình độ nhận thức tôn giáo 
thấp hay cao trong một nhóm, một cộng đồng hay một cá thể nào đó. 
Bốn chiều kích có thể được khám phá theo bối cảnh ở bên trong một hệ 
thống nhận thức tôn giáo; nhưng chắc chắn chúng chỉ có thể hiện ra một phần 
theo một sơ đồ qui chiếu thay đổi theo ba loại bối cảnh, trong đó nhận thức tôn 
giáo được tạo ra và hiện diện. 
- Những nội dung quan trọng của cái cơ bản (như trong Phật giáo, nhận thức 
về nguồn gốc của cái ác là trung tâm, còn phần nhận thức về thế giới bên 
 146 
kia không mấy rõ ràng); 
- Những hình thức xã hội, trong đó người ta học được nhận thức ấy (các thể 
chế tôn giáo quan tâm nhiều vào việc dạy giáo lý một cách tỉ mỉ; 
- Các thế giới sống quen thuộc, ở đó thông điệp cần phải biết lại trộn lẫn 
với những chiều kích tình cảm; những sự giống nhau về xúc cảm, đưa tới 
sự lấn át của những mặt kinh nghiệm trực tiếp kiểu thần bí hay ân sủng 
thần thánh cao hơn những hình thức nhận thức bằng trí tuệ); 
- Những nhu cầu chủ quan và những chiến lược bắt nguồn từ đó là nền tảng 
của hệ thống nhận thức kiểu tôn giáo. 
Một hệ thống thường được dùng trong xã hội học, là xuất phát từ sự tách 
riêng hình ảnh của thần thánh được một tôn giáo thể chế mã hóa thành một chỉ 
báo và từ việc tổ chức một sự đối chiếu giữa những ý kiến của người được hỏi với 
hình ảnh này. Nói cách khác, điều đó có nghĩa là chuyển từ câu hỏi cổ điển (hiếm 
khi có tác dụng khám phá) về lòng tin vào sự tồn tại của Thượng đế sang một loại 
câu hỏi theo lối ngược lại, nhằm thăm dò mức độ trùng hợp giữa những nhận thức 
đạt được ở một cá nhân về thần thánh thuộc tôn giáo của mình trong và những 
nhận thức được xây dựng một cách chính thức trong các bản văn và tuyên bố của 
một uy quyền tôn giáo nhất định. 
Làm như vậy, người ta thấy rằng, nếu có một tần số cao của những câu trả 
lời khẳng định lòng tin vào Thượng đế mà người ta gặp thấy trong tất cả các 
nghiêng cứu tôn giáo (chẳng hạn một cuộc điều tra mới đây vào năm 1989 ở Mỹ, 
trong đó 90% số người được hỏi trả lời khẳng định đối với câu hỏi này, và người ta 
cũng thấy những con số tương tự trong cuộc điều tra lớn của Stoelzel ở châu Âu, 
năm 1984), thì các cá nhân lại không coi sự trả lời ấy có ý nghĩa giống nhau. 
Đằng sau sự nhất trí bề ngoài ấy, có ẩn giấu một sự khác nhau về lựa chọn văn 
hóa và tôn giáo rộng lớn hơn: về thực chất, người ta không phải nói tới việc tin 
vào Thượng đế mà là tin vào một Thượng đế, điều này không phải bao giờ cũng 
trùng hợp với những hình thức tôn giáo chính thức của những biểu tượng được các 
tín đồ tôn giáo đem lại. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_xa_hoi_hoc_ton_giao_phan_1.pdf