Du lịch sinh thái cù Lao Chàm - Hội An

Nằm cuối dòng sông Thu Bồn, thành phố Hội An được thừa hưởng sự đa

dạng của các hệ sinh thái vùng cửa sông và ven bờ. Các bãi sậy, cồn cát, rừng

ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, quần cư rong biển, rừng tự nhiên Cù Lao

Chàm, cũng như cảnh quan trên cạn và dưới nước đã và đang mang lại cho Hội

An - Cù Lao Chàm một sự giàu có về tài nguyên sinh thái, tạo tiền đề phát

triển kinh tế, xã hội địa phương nhất là hình thức du lịch sinh thái (DLST) [4].

Với tư cách là Khu Bảo tồn biển (KBTB) được thành lập vào tháng 12 năm

2005 và sau đó là Khu Dự trữ sinh quyển (KDTSQ) được UNESCO công nhận

vào tháng 5 năm 2009, hoạt động DLST tại Cù Lao Chàm và Hội An đã phát

triển ngày một mạnh mẽ [16]. Số du khách đến với Cù Lao Chàm năm 2004 là

vài ngàn người, năm 2009 là hơn 40 ngàn, năm 2012 là 106 ngàn và năm 2013

lên đến hơn 195 ngàn [1].

 

pdf 11 trang kimcuc 5600
Bạn đang xem tài liệu "Du lịch sinh thái cù Lao Chàm - Hội An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Du lịch sinh thái cù Lao Chàm - Hội An

Du lịch sinh thái cù Lao Chàm - Hội An
17Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
DU LỊCH SINH THÁI CÙ LAO CHÀM - HỘI AN
 Chu Mạnh Trinh*
I. Giới thiệu
Nằm cuối dòng sông Thu Bồn, thành phố Hội An được thừa hưởng sự đa 
dạng của các hệ sinh thái vùng cửa sông và ven bờ. Các bãi sậy, cồn cát, rừng 
ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, quần cư rong biển, rừng tự nhiên Cù Lao 
Chàm, cũng như cảnh quan trên cạn và dưới nước đã và đang mang lại cho Hội 
An - Cù Lao Chàm một sự giàu có về tài nguyên sinh thái, tạo tiền đề phát 
triển kinh tế, xã hội địa phương nhất là hình thức du lịch sinh thái (DLST) [4].
Với tư cách là Khu Bảo tồn biển (KBTB) được thành lập vào tháng 12 năm 
2005 và sau đó là Khu Dự trữ sinh quyển (KDTSQ) được UNESCO công nhận 
vào tháng 5 năm 2009, hoạt động DLST tại Cù Lao Chàm và Hội An đã phát 
triển ngày một mạnh mẽ [16]. Số du khách đến với Cù Lao Chàm năm 2004 là 
vài ngàn người, năm 2009 là hơn 40 ngàn, năm 2012 là 106 ngàn và năm 2013 
lên đến hơn 195 ngàn [1].
DLST phát triển đã tạo cơ hội cho người dân cải thiện sinh kế và nâng 
cao chất lượng cuộc sống. Đến năm 2013 đã có trên 485 người dân địa phương 
từ 169 trong tổng số 560 hộ gia đình tham gia trực tiếp vào hoạt động DLST 
với hơn 12 loại hình sinh kế mới.
Thu nhập được nâng cao, chất lượng cuộc sống được cải thiện là động lực 
cho người dân tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường và tài nguyên vùng 
đảo. Thu nhập bình quân trên đầu người khoảng 6 triệu đồng/năm vào năm 
2005 [14] đến năm 2012 là 24 triệu đồng [1]. Các mô hình phân loại rác tại 
nguồn, nói không với túi nylon, dán nhãn sinh thái cua đá đã được người dân 
hưởng ứng và tạo tiếng vang trong cả nước.
Không chỉ mang lại lợi ích cho người dân địa phương, Cù Lao Chàm với 
sự phát triển DLST đã là điểm nhấn làm giàu cho thành phố Hội An và các 
cộng đồng trong vùng bờ. Tuy chỉ có 10% tổng số du khách từ Hội An đến với 
Cù Lao Chàm hàng năm (Hội An đón nhận 1,5 triệu du khách, trong khi đó Cù 
Lao Chàm tiếp đón 150 ngàn người), nhưng lợi ích mang lại cho dịch vụ du lịch 
trong đất liền là rất lớn. Thông thường du khách đến thăm Cù Lao Chàm đều 
tăng thời gian lưu trú tại Hội An lên ít nhất 2 ngày. Hiện nay đã có 32 công 
ty vận tải khách du lịch từ Hội An ra Cù Lao Chàm với hơn 120 tàu, thuyền 
và ca nô cao tốc phục vụ, đạt tổng doanh thu khoảng 100 tỷ đồng một năm [7].
Tuy nhiên thu nhập của người dân trong khu bảo tồn chỉ bằng 1/3 của 
người ngoài đảo [10]. Vì vậy làm thế nào để nâng cao thu nhập của người dân 
đảo khi tham gia hoạt động DLST là điều rất quan trọng. Một trong những 
cách tiếp cận mà Hội An cần thực hiện là nhìn nhận DLST tại Cù Lao Chàm 
như là điểm nhấn cho sự phát triển của toàn vùng hạ lưu sông Thu Bồn. 
* Ban Quản lý Khu Bảo tồn biển Cù lao Chàm.
18 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
II. Phương pháp
DLST cần đảm bảo được hai yếu tố cơ bản là bảo tồn và thu nhập của 
người dân địa phương trên cơ sở bảo tồn. Như thế, DLST luôn gắn liền mật 
thiết với đời sống kinh tế của người dân địa phương. Vì vậy, nghiên cứu DLST 
cũng gần tròn nghĩa với nghiên cứu sinh kế địa phương hưởng lợi từ hoạt động 
này. Đồng thời, sinh kế cộng đồng phải được nghiên cứu chi tiết theo 5 nguồn 
lực bao gồm tự nhiên, xã hội, con người, tài chính, vật chất và cơ sở hạ tầng 
[15]. Mỗi nguồn lực lại được phân tích theo mô hình DPSIR (dẫn lực, áp lực, 
hiện trạng, tác động, và đáp ứng) [11] để có thể tìm được các giải pháp thích 
hợp. Bên cạnh đó, các nguyên tắc SMART (cụ thể, lượng hóa, thực thi, hợp lý 
và thời gian), và SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức) cũng cần 
được áp dụng để sàng lọc và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các chiến lược phát triển 
du lịch sinh thái tại địa phương [11].
III. Kết quả
1. Nguồn lực tự nhiên tại Cù Lao Chàm - Hội An đa dạng và phong 
phú là cơ sở quan trọng cho phát triển DLST, tuy nhiên nguồn lực này 
đang gặp áp lực lớn, cần phải được tăng cường bảo vệ và bảo tồn
Các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển, rong biển, rừng tự nhiên, bãi 
cát là nguồn lực tự nhiên quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển DLST Cù Lao 
Chàm - Hội An. Trong những năm qua, các nguồn lực này đã được tiếp cận với 
Du lịch sinh thái Cù Lao Chàm-Hội An được nhìn nhận là điểm nhấn 
cho sự phát triển của toàn vùng hạ lưu sông Thu Bồn
19Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
khái niệm bảo tồn biển, hay nói cách khác là tiếp cận quản lý trên cơ sở hệ 
sinh thái. Với trên 736 loài thuộc 263 giống của các nhóm sinh vật chủ yếu 
trong hệ sinh thái rạn san hô và thảm cỏ biển đã được ghi nhận cho thấy khu 
hệ sinh vật trong vùng nước của KBTB Cù Lao Chàm khá phong phú và đa 
dạng. Cỏ biển có 5 loài thuộc 3 giống, rong biển kích thước lớn có 76 loài thuộc 
46 giống, san hô tạo rạn có 277 loài thuộc 40 giống, cá rạn san hô có 270 loài 
thuộc 105 giống, thân mềm có 97 loài thuộc 61 giống và da gai có 11 loài thuộc 
8 giống [6].
Cua đá (Gecarcoidea lalandii), trong năm 2013 đã được cộng đồng quản lý, 
bảo vệ và khai thác hợp lý với số lượng gần 7.000 con có kích thước mai cua đảm 
bảo với cam kết ban đầu là trên 7cm khi được dán nhãn sinh thái. Đối tượng 
tài nguyên này bước đầu được bảo vệ và quản lý khai thác một cách khoa học 
gắn liền với hệ thống giám sát đảm bảo được tính bền vững trong tương lai [12].
Tổng sản lượng tôm hùm được khai thác tại Cù Lao Chàm là khoảng 15 
tấn/năm, trong đó 70% được bắt bởi người địa phương còn lại 30% bởi người 
ngoài. Riêng 4 loại ốc vú nàng thì chỉ còn ốc vú nàng con là khai thác được 
khoảng 5 tấn/năm, các loại ốc vú nàng vú và ốc vú nàng hang hiện đang trong 
tình trạng bị tấn công rất mãnh liệt với kích thước khai thác rất bé [8].
Sản lượng khai thác hải sản trước đây của Cù Lao Chàm khoảng hơn 
1.500 tấn/năm, nhưng chỉ còn 800 tấn/năm từ khi có KBTB và DLST [10]. Hiện 
tại, người dân tập trung vào khai thác các sản phẩm phục vụ du lịch. Một số 
vùng ngư trường được bảo tồn, phần lớn là nơi có hệ sinh thái rạn san hô nhạy 
cảm. Tuy nhiên, một số đối tượng nguồn lợi đang bị khai thác quá mức, biểu 
hiện qua số lượng cá thể giảm dần, kích thước cá thể bé dần. Đây là thách thức 
lớn đối với nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển DLST lâu bền.
Nhu cầu hưởng dụng tài nguyên thiên nhiên như tiêu thụ nguồn lợi sinh 
vật biển, sản phẩm rừng ngày càng gia tăng và mãnh liệt theo số lượng du 
khách đến thăm đảo. Điều này được phản ảnh qua giá bán sản phẩm tại địa 
phương. Đồng thời thông qua kết quả tuần tra kiểm soát, cũng như độ phủ rạn 
san hô, mật độ cá rạn, việc khai thác một số đối tượng tài nguyên như bào ngư, 
20 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
điệp quạt, ốc vú nàng, ốc nón, sao biển, trai tai tượng, cá cảnh hiện đang phức 
tạp tại Cù Lao Chàm [1]. Cùng với hiện trạng khai thác khó kiểm soát của 
người ngoài địa phương, thế mạnh về nguồn lợi thủy sản và đa dạng sinh học 
tại Cù Lao Chàm có khả năng bị suy giảm, nếu không có giải pháp ngăn chặn, 
sẽ dẫn đến tình trạng nghèo kiệt nguồn lực tự nhiên trong tương lai không xa.
Các nguyên nhân gián tiếp liên quan đến suy giảm nguồn lợi là sự phối 
hợp trong quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên chưa đủ mạnh và thuyết 
phục cộng đồng tham gia bảo vệ. Các lực lượng chức năng như công an xã, biên 
phòng, kiểm ngư, dân quân xã và bảo tồn biển cần có sự phối hợp chặt chẽ và 
hỗ trợ nhau trong công tác tuần tra, kiểm soát, quản lý và bảo vệ.
Các dấu hiệu về chất lượng nước của vùng cửa sông Thu Bồn - Hội An đã 
ảnh hưởng trực tiếp đến Cù Lao Chàm, đặc biệt trong mùa mưa, bão. Hiện tượng 
nước ngọt, phù sa, rác thải đã có ảnh hưởng tăng dần tại các vùng rạn san hô. 
Hiện trạng mở đường quanh đảo, xây dựng bờ kè, sửa chữa lại âu thuyền, và 
các công trình hạ tầng phần nào cũng làm ảnh hưởng đến cảnh quan của Cù 
Lao Chàm. Nhằm khắc phục tình trạng trên, KBTB Cù Lao Chàm đã đề nghị 
mở rộng tiếp cận bảo tồn biển vào vùng bờ, hạ lưu sông Thu Bồn, gắn bảo tồn 
biển với phục hồi rừng ngập mặn, các bãi sậy, đụn cát trong vùng cửa sông. 
Đồng thời trong năm 2013, Cù Lao Chàm cũng đã ứng dụng công nghệ phục 
hồi san hô và đã nuôi cấy tại vùng phục hồi 4.800 tập đoàn, tại vườn ươm 750 
tập đoàn san hô. Tỷ lệ sống của san hô nuôi cấy tại vườn ươm khoảng 87% và 
tại vùng phục hồi là 74%. Số tập đoàn san hô tách từ vườn ươm sang phục hồi 
là hơn 400 tập đoàn [2]. Đồng thời một số tập đoàn san hô bàn, cành mới cũng 
đã được ghi nhận tại các ghềnh đá Cù Lao Chàm. Đây là dấu hiệu phục hồi tự 
nhiên của các loài san hô tạo rạn tại các vùng nước được giữ gìn sạch sẽ. 
2. Nguồn lực con người với xuất phát điểm thấp về mặt học vấn, 
nhưng đang được liên tục nâng cao năng lực thông qua đào tạo ngành 
nghề, tạo cơ hội tham gia hoạt động DLST tại Cù Lao Chàm
Nguồn lực con người, trước hết được phản ánh qua trình độ học vấn và 
sức khỏe. Theo khảo sát năm 2005 [14], khoảng một phần ba tổng số các chủ 
hộ gia đình ở Cù Lao Chàm có trình độ văn hóa cấp 2 và khoảng 40% không 
được tiếp nhận một sự học vấn nào. Và cũng tương tự, hơn 30% là vợ hoặc 
chồng của các chủ hộ gia đình này là mù chữ và khoảng chừng 25% có trình độ 
văn hóa cấp 2. Tuy nhiên ngoài học vấn, các trình độ nghề nghiệp khác như 
kinh nghiệm và kiến thức về đánh bắt hải sản là rất quan trọng đối với sinh 
kế tại Cù Lao Chàm. Nắm bắt được những thuận lợi và hạn chế của nguồn lực 
này, ngay từ những ngày đầu, KBTB Cù Lao Chàm đã tập trung vào công tác 
nâng cao nhận thức và đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng. Trong thời gian 
từ 2003 đến 2006, một chương trình nâng cao năng lực quản lý và bảo vệ tài 
nguyên thiên nhiên, môi trường đã được tổ chức rộng rãi cho người làm công 
tác quản lý và cộng đồng của tỉnh, huyện, xã. 19 thành viên cấp thành phố và 
tỉnh tham gia 5 chuyến tham quan khảo sát các mô hình và học tập trao đổi 
kinh nghiệm tại các khu bảo tồn biển, vườn quốc gia, hội nghị bảo tồn quốc tế 
ở các nước Thái Lan, Malaysia, Singapore, Anh, Trung Quốc và Úc. 116 thành 
21Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
viên, trong đó bao gồm 40 cán bộ và 76 người dân địa phương tham quan học 
tập các mô hình bảo tồn trong nước. Các điểm đến tham quan học tập trong 
nước là các khu bảo tồn Núi Chúa, Phong Nha-Kẻ Bàng, Phú Quốc, Côn Đảo, 
vịnh Hạ Long, Cần Giờ, Hòn Mun, Rạng Trào 800 người, trong đó gần 75% 
thành viên từ cộng đồng địa phương tham gia đào tạo, nâng cao nhận thức, 
kỹ thuật và ngành nghề hỗ trợ cho phát triển sinh kế với tổng số 29 khóa tập 
huấn tại Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang và TP Hồ Chí Minh. 
Trong thời gian 3 năm từ 2003 đến 2006, đã có gần 2/3 tổng số dân cư trên 
đảo tham gia các hoạt động đào tạo và nâng cao nhận thức, cụ thể là có hơn 
1.868 người lớn, trong đó có khoảng 50% là phụ nữ, và 606 trẻ em tham gia. 
Tại thành phố Hội An đã có gần 334 lượt người tham dự các hoạt động nâng 
cao nhận thức về bảo tồn [11]. 
Từ năm 2006 đến 2013, nguồn lực con người của cộng đồng Cù Lao Chàm 
được tiếp tục cải thiện và nâng cao thông qua các chương trình đào tạo và hỗ 
trợ xây dựng mô hình trình diễn sinh kế tại địa phương. Nếu như trong giai 
đoạn từ 2003 đến 2006, nguồn lực con người chủ yếu được tập trung vào sự hiểu 
biết về bảo tồn, lợi ích kinh tế, cũng như kiến thức về quản lý bảo tồn, thì trong 
giai đoạn 2006 đến 2013, phần lớn đầu tư cụ thể vào học tập, chuyển giao các 
sinh kế mới và xây dựng các mô hình trình diễn nhằm gắn kết người dân tham 
gia vào các hoạt động DLST thông qua bảo tồn.
 Các sinh kế mới gắn liền với du lịch tại Cù Lao Chàm được trình bày 
trong bảng 1 [7].
Bảng 1. Danh sách các nhóm nghề du lịch và người tham gia tại Cù 
Lao Chàm.
TT Nhóm nghề du lịch Số hộ Số người Tổng
1 Nhà hàng tại các bãi biển 16 5 80
2 Xe máy vận chuyển khác 32 1 32
3 Hộ đón khách lưu trú tại nhà 40 2 80
4 Hộ vận chuyển bằng thuyền 18 2 36
5 Hàng lưu niệm 7 3 21
6 Hàng thủy sản khô 16 3 48
7 Bánh ít 4 2 8
8 Nước giải khát 8 3 24
9 Bán thủy sản tươi sống 12 2 24
10 Quần áo lưu niệm 6 2 12
11 Mặt hàng khác 10 2 20
12 Số lao động gián tiếp (tùy mùa vụ) 100 100
Tổng cộng: 169 485
3. Nguồn lực tài chính của người dân ngày càng được cải thiện 
thông qua sự thuận lợi tiếp cận nguồn vốn, đa dạng nghề nghiệâp và 
thu nhập được nâng cao từ hoạt động DLST
Vào những năm xây dựng KBTB Cù Lao Chàm, khoảng chừng 67% tổng 
số hộ gia đình đã vay vốn từ các chương trình tín chấp tại địa phương, hội đoàn 
22 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
thể, hoặc người thân và bạn bè [14]. Các hộ gia đình này đã từng mong muốn có 
được sự tiếp cận tốt hơn đến nhiều nguồn tài chính và được vay nhiều tiền hơn. 
Khoảng chừng 50% tổng các hộ gia đình vay vốn đầu tư vào ngư cụ, ghe thuyền 
đánh bắt, và 40% vay vốn đầu tư vào các hoạt động sản xuất khác không phải 
thủy sản, như chăn nuôi hoặc mở hàng quán buôn bán. Trong thời gian từ năm 
2006 đến 2013, nguồn lực tài chính đối với cộng đồng Cù Lao Chàm đã được 
cải thiện với nhiều cách tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Chính sách, hỗ trợ 
sinh kế LMPA (Sinh kế cộng đồng trong và xung quanh các KBTB) và GEF 
(Quỹ Môi trường toàn cầu) với lãi suất ưu đãi, trong đó có 76 hộ gia đình được 
vay 1.172.000.000đ từ nguồn LMPA, và 450.000.000 ... hí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
Bảng 2. Diễn biến các thể chế cộng đồng được thành lập, ban hành và 
duy trì.
TT Thể chế cộng đồng góp phần vào việc bảo tồn và phát triển DLST
Diễn biến theo thời gian/những năm 2000
03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13
1 Quyết định thành lập ban quản lý dự án 
xây dựng khu bảo tồn biển
x x x x
2 Câu lạc bộ bảo tồn biển được thành lập x x x
3 Quyết định quy hoạch phân vùng và quy 
chế quản lý khu bảo tồn 
x x x x x x
4 Quyết định thành lập Ban quản lý khu 
bảo tồn, đội tuần tra
x x x x x
5 Ban bảo tồn thôn được thành lập x x x x x
6 Ban quản lý du lịch được thành lập x x x x
7 Tổ kiểm tra môi trường và túi nylon được 
thành lập
x x
8 Kế hoạch quản lý bảo tồn biển được phê 
chuẩn và thực hiện
x x x
9 Chỉ thị 04 cấm khai thác cua đá x x x x
10 Tổ bảo vệ và khai thác bền vững cua đá 
Cù Lao Chàm được thành lập
x x
11 Quy ước quản lý cua đá Cù Lao Chàm x
12 Quy chế quản lý Tiểu khu bảo tồn biển 
Bãi Hương
x
Như vậy theo bảng 2 có thể nhận thấy trong thời gian từ tháng 10/2003 
đến tháng 10/2006, hoạt động bảo tồn và phát triển DLST tại Cù Lao Chàm đã 
bắt đầu tiếp cận với khái niệm quản lý tổng hợp và quản lý thích ứng trên cơ 
sở tiếp cận hệ sinh thái. Cộng đồng đã được giới thiệu về bảo tồn biển, phân 
vùng bảo vệ, kiểm soát khai thác thông qua mùa vụ, và ngư trường.
Năm 2006 là năm bản lề chuyển biến mạnh mẽ trong bảo tồn biển tại Cù 
Lao Chàm. Quy hoạch phân vùng chức năng để bảo vệ, khai thác hợp lý và phát 
triển DLST được UBND tỉnh phê chuẩn, các tổ chức cộng đồng được thành lập 
để thực thi. Đặc biệt đội tuần tra bảo tồn biển được thành lập làm cầu nối phối 
hợp với các bên liên quan là bộ đội biên phòng, công an địa phương, thanh tra 
thủy sản và cộng đồng để giám sát, kiểm tra các hoạt động bảo tồn và DLST 
tại các rạn san hô, thảm cỏ biển. Năm 2008 là năm cộng đồng Cù Lao Chàm 
được tiếp cận bảo tồn và DLST trên các đối tượng tài nguyên mục tiêu cụ thể 
bao gồm rạn san hô, thảm cỏ biển, tôm hùm, cua đá, ốc vú nàng và bãi biển. 
Năm 2009 và 2010 là thời gian cộng đồng được hướng dẫn tăng cường 
công tác quản lý các hoạt động du lịch tại địa phương. Đồng thời chất lượng 
môi trường cũng được cộng đồng ưu tiên quan tâm. Sự phát triển của du lịch 
là cơ hội nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều thách thức đối với công tác bảo 
tồn tại Cù Lao Chàm. Chỉ thị 04 về việc cấm khai thác cua đá được thành phố 
Hội An ban hành hỗ trợ cho việc thực thi cam kết cộng đồng đối với phát triển 
DLST tại địa phương. Các thể chế cộng đồng gắn liền với bảo tồn và DLST theo 
tiến trình đồng quản lý đã phát triển mạnh mẽ theo thời gian cả về số lượng 
và chất lượng, nhằm đảm bảo lợi ích và trách nhiệm của các bên liên quan được 
25Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
chia sẻ một cách công bằng. Đặc biệt từ năm 2011 đến nay, các nỗ lực của cộng 
đồng đã trở thành hiện thực với sự ra đời của Tổ cua đá, Tiểu khu bảo tồn biển 
Bãi Hương, một lần nữa đã chứng tỏ sự lớn mạnh và khả năng chia sẻ trách 
nhiệm và lợi ích của từng nhóm cộng đồng với hoạt động bảo tồn hỗ trợ cho 
phát triển DLST tại Cù Lao Chàm.
5. Nguồn lực vật chất và cơ sở hạ tầng được tăng cường đầu tư, 
nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm
Nguồn lực vật chất và cơ sở hạ tầng được mô tả bao gồm các cơ sở hạ tầng 
phục vụ cho việc bảo tồn và phát triển DLST tại Cù Lao Chàm như điện, nước, 
thu gom rác thải, giao thông, trường học, bệnh viện, chợ. Nguồn lực này trong 
những năm gần đây đã được đầu tư và dần dần được cải thiện phục vụ không 
những cho nhu cầu của người dân tại địa phương mà còn cho khách du lịch. 
Bên cạnh đó, một hạ tầng quan trọng là hệ thống phân vùng chức năng KBTB 
làm cơ sở cho phát triển DLST Cù Lao Chàm trong những năm qua [10]. Đây 
là cơ sở giúp cho DLST phát triển tại các vùng lặn ngắm san hô dưới nước và 
tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm du lịch này được bảo vệ không bị các hoạt 
động khai thác khác xâm hại.
Ngư dân bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc phân vùng bảo tồn đã và đang 
được hỗ trợ tham gia vào các hoạt động DLST. Đồng thời sự ra đời của Tiểu 
khu bảo tồn biển Bãi Hương vào năm 2012, một lần nữa cụ thể hóa trách 
nhiệm của cộng đồng đối với bảo tồn và DLST. Đầu năm 2013, Hội An đã có 
sự điều chỉnh sử dụng một số vùng rạn san hô thích hợp với nhu cầu của du 
lịch tại Cù Lao Chàm. 
Năm 2009, Cù Lao Chàm và vùng cửa sông Thu Bồn - Hội An được công 
nhận là KDTSQ trên cơ sở 7 tiêu chí, trong đó có yếu tố phân vùng. Sự phân 
vùng của KDTSQ được xây dựng trên cơ sở khu bảo tồn (vùng lõi), vùng sử dụng 
tài nguyên một cách có kiểm soát (vùng đệm) và vùng giao thoa giữa bảo tồn 
và phát triển (vùng chuyển tiếp). Như vậy khái niệm phân vùng trong KBTB 
và sau đó là KDTSQ đã tạo cơ sở cho phát triển DLST tại Cù Lao Chàm và Hội 
An. Phân vùng chức năng được thực hiện, quy chế quản lý bảo tồn biển được 
xây dựng, đồng thời bộ máy tổ chức điều phối hoạt động quản lý và bảo vệ các 
hệ sinh thái này được hình thành luôn là cơ sở quan trọng cho sự hình thành 
và phát triển DLST.
Trong mỗi vùng chức năng đều có quy định riêng từ vùng lõi, vùng đệm, 
đến vùng chuyển tiếp, việc phân vùng đã tạo điều kiện kiểm soát được các hành 
vi vi phạm. Trong thời gian từ năm 2009-2013, bộ đội biên phòng, công an xã, 
lực lượng kiểm ngư và cộng đồng, lực lượng tuần tra bảo tồn biển đã thực hiện 
tổng cộng 660 lượt kiểm tra, phát hiện và xử lý 162 trường hợp vi phạm, trong 
đó có 12 ngư dân sinh sống tại Cù Lao Chàm và 150 ngư dân từ các địa phương 
khác đến. Các loại nghề vi phạm chủ yếu là giã cào với 74 trường hợp; lặn 43 
trường hợp; lưới chim, lưới ba lớp và lưới tím. 101 trường hợp vi phạm đã bị 
phạt tiền với tổng số 72.400.000đ, 52 trường hợp bị xử lý với hình thức cảnh 
cáo, nhắc nhở, 5 trường hợp bị tịch thu ngư cụ [1]. 
26 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
IV. Kết luận
Du lịch sinh thái Cù Lao Chàm - Hội An được nghiên cứu ở góc độ sinh kế 
của người dân tham gia làm du lịch và bảo tồn tại địa phương đã thể hiện nhiều 
ưu điểm trong việc phân tích hiện trạng phát triển của hoạt động này. Nghiên 
cứu đã mô tả được các nguồn lực sinh kế cộng đồng gắn liền với phát triển 
DLST. Trong thời gian từ 2003-2013, DLST tại Cù Lao Chàm đã góp phần rất 
lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội cũng như sự nghiệp bảo tồn của địa phương. 
Đồng thời, hiện trạng phát triển của DLST Cù Lao Chàm - Hội An và bảo tồn đã 
thể hiện những mối quan hệ khắng khít nhau, diễn biến về chất lượng của bảo 
tồn tất yếu sẽ ảnh hưởng đến du lịch và ngược lại. Hiện trạng phát triển DLST 
Cù Lao Chàm - Hội An được phản ánh rõ nét qua các kết quả của nghiên cứu.
DLST tại Cù Lao Chàm có rất nhiều điều kiện để phát triển. Trước tiên 
phải nói đến sự hài hòa và thuận lợi của 5 nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, xã 
hội, con người, tài chính, vật chất và cơ sở hạ tầng. Mặc dầu điểm khởi đầu của 
5 nguồn lực là không đồng đều, nếu như nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, xã 
hội là vượt trội, thì nguồn lực con người, tài chính, vật chất và cơ sở hạ tầng có 
phần khiêm tốn hơn so với những địa phương khác. Tuy nhiên, Cù Lao Chàm 
vẫn có những độc đáo riêng của địa phương này. Sự ra đời của KBTB và sau đó 
là KDTSQ đã hỗ trợ cho cộng đồng Cù Lao Chàm cơ sở thuận lợi phát triển du 
lịch. Và thực tế trong 10 năm qua từ khi KBTB bắt đầu xây dựng đến nay Cù 
Lao Chàm đã đạt được những bước phát triển mạnh mẽ cùng với hình thức du 
lịch sinh thái. 
Tuy nhiên, qua phân tích chúng ta cũng nhận thấy sự phát triển mạnh mẽ 
và “ào ạt” DLST đã gây nên một áp lực rất lớn đối với nguồn lực tự nhiên tại 
Cù Lao Chàm. Một lần nữa Cù Lao Chàm cần phát huy lợi thế của hai nguồn 
lực xã hội và cơ sở hạ tầng, cùng con người để tăng cường sự bảo vệ và phục hồi 
nguồn lực tài nguyên thiên nhiên cho sự phát triển bền vững của DLST.
Chiến lược phát triển DLST Cù Lao Chàm - Hội An cần phải được đặt nền 
tảng trên sự phát triển của KBTB và KDTSQ Cù Lao Chàm - Hội An. Trong 
chiến lược phát triển DLST ấy cần phải bao gồm các nội dung về truyền thông 
nâng cao nhận thức và năng lực cộng đồng, nghiên cứu khoa học và trình bày 
kết quả, phối hợp các bên liên quan trong quản lý tài nguyên, môi trường, sức 
chứa du lịch, giáo dục và đào tạo về bảo tồn và sử dụng bền vững, giám sát, 
đánh giá, báo cáo và phát triển nguồn nhân lực cho hôm nay và tương lai [13].
 C M T
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm (2013), Báo cáo đánh giá kế hoạch quản lý Khu Bảo 
tồn biển Cù Lao Chàm giai đoạn 2009-2013, UBND thành phố Hội An.
2. BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm (2013), Xây dựng cơ chế quản lý và sử dụng vùng phục 
hồi rạn san hô tại KBTB Cù Lao Chàm. Một số vấn đề liên quan đến khai thác và sử dụng, 
UBND thành phố Hội An.
3. Nguyễn Thị Thùy Dương (2012), Xây dựng mô hình “Nói không với túi ni lông”, trường hợp 
nghiên cứu quần đảo Cù Lao Chàm, thành phố Hội An, Luận án tốt nghiệp đại học, Bộ môn 
Kỹ thuật và Quản lý Môi trường, Khoa Công nghệ Môi trường, Trường Đại học Duy Tân.
4. Nguyễn Hữu Đại (2006), Đánh giá hiện trạng tài nguyên đất ngập nước hạ lưu sông Thu Bồn 
và giải pháp quản lý, bảo vệ, phục hồi, BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm, Quảng Nam, 
Việt Nam.
27Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105) . 2013
5. Trần Thị Hồng Hoa (2013), Tìm hiểu vai trò của cộng đồng trong hoạt động du lịch sinh thái 
tại Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm - tỉnh Quảng Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Địa lý, 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Văn Long (2008), Đánh giá đa dạng sinh học và chất lượng môi trường Khu Bảo tồn 
biển Cù Lao Chàm 2004-2008, Viện Hải Dương học, Viện Khoa học Việt Nam.
7. Nguyễn Đức Minh (2013), Khu Dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An; Những vấn đề cần 
quan tâm, Hội thảo Khu Dự trữ sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm - Hội An, ngày 24/10/2013, 
Hội An, Quảng Nam, Việt Nam.
8. Lê Ngọc Thảo, Huỳnh Ngọc Diên (2013), Điều tra thành phần loài, vùng phân bố, hiện trạng 
khai thác và xây dựng mô hình đồng quản lý tôm hùm, ốc vú nàng tại Cù Lao Chàm, BQL 
Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm.
9. Nguyễn Hoàng Trí (2013), Khu Dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An; Thay đổi để thành 
công, Hội thảo Khu Dự trữ sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm - Hội An, ngày 24/10/2013, Hội 
An, Quảng Nam, Việt Nam.
10. Chu Mạnh Trinh (2010), Lợi ích cộng đồng trong hoạt động du lịch tại Khu Dự trữ sinh quyển 
Cù Lao Chàm - Hội An, BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm, Quảng Nam.
11. Chu Mạnh Trinh (2011), “Đồng quản lý tài nguyên và môi trường tại Khu Bảo tồn biển Cù 
Lao Chàm”, tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, T11 (2011), 2, tr. 79-95.
12. Chu Mạnh Trinh, Lê Ngọc Thảo (2013), Cộng đồng bảo vệ và khai thác hợp lý cua đá Cù Lao 
Chàm (Gecarcoidea lalandii) góp phần khẳng định thương hiệu biển Việt Nam, BQL Khu Bảo 
tồn biển Cù Lao Chàm.
13. Chu Mạnh Trinh (2013), Khu Dự trữ sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm - Hội An; Định hướng 
phát triển bền vững, Hội thảo Khu Dự trữ sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm - Hội An, ngày 
24/10/2013, Hội An, Quảng Nam, Việt Nam.
14. Angus McEwin (2007), Livelihoods Analysis of Cu Lao Cham, Quang Nam MPA Project.
15. Angus McEwin, Nguyen To Uyen, Tham Ngoc Diep, Ha Minh Tri and Keith Symington (2008), 
Sustainable Livelihood Strategy: Vietnam Marine Protected Areas, published by “Sustainable 
Livelihoods in and around Marine Protected Areas” (LMPA), Ministry of Agriculture and 
Rural Development (MARD) - a component of Danish Development Cooperation in the 
Environment (DCE) Programme (2005-2010), Hanoi, Vietnam.
16. UNESCO - MAB (2009), Cu Lao Cham - Hoi An, Viet Nam has been designated for inclusion 
in the World Network of Biosphere Reserves, 26/5/2009.
TÓM TẮT
Bài báo giới thiệu tổng thể việc phát triển du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm - Hội An, sự hỗ 
trợ của bảo tồn cho du lịch và ngược lại du lịch tăng cường sự phát triển bảo tồn. Bài báo đề cập 
đến hình thức tiếp cận mới của du lịch tại vùng hạ lưu sông Thu Bồn. Với 2 dòng trao đổi giữa vật 
chất và tri thức - văn hóa, con người đã bắt đầu ứng xử tốt dần với thiên nhiên, mô hình du lịch 
sinh thái Cù Lao Chàm - Hội An hy vọng sẽ có những bước chuyển biến mới. Bài báo cũng phân 
tích các khó khăn và thách thức mới với du lịch tại Cù Lao Chàm hiện nay như nhu cầu tiêu thụ, 
khai thác nguồn lợi tự nhiên, vấn đề rác thải, ô nhiễm từ trong đất liền, thiên tai, và định hướng 
phát triển du lịch sinh thái vùng này. 
ABSTRACT
CHÀM ISLANDS - HỘI AN ECO-TOURISM
The article generally presents the Chàm Islands - Hội An ecotourism approach, highlighting 
how conservation facilitates increased tourism and how tourism revenue, in turn, is used to 
support environmental protection. The paper will come up with a new approach to tourism in the 
Thu Bồn River downstream region. This approach emphasizes material economic benefits, as 
well as honoring and protecting local culture and wisdom. Following the Chàm Islands - Hội An 
ecotourism model, local people have gradually adopted more environmentally-friendly practices. 
The article also analyzes the challenges and development strategies of managing tourism on the 
Chàm Islands, including increasing demand and over-exploitation of natural resources, increasing 
garbage, inland pollution, and natural disasters.

File đính kèm:

  • pdfdu_lich_sinh_thai_cu_lao_cham_hoi_an.pdf