Động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai - Tiếng Nhật của sinh viên ngành ngôn ngữ Anh, trường Đại học ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
Sinh viên học ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh có
động cơ học tập tương đối cao. Trong ba phạm vi, động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ là mạnh
nhất, kế đó là động cơ học tập trên phạm vi môi trường học tập, yếu nhất là động cơ học tập trên
phạm vi người học. Động cơ học tập trên phạm vi người học là yếu tố ảnh hưởng đến thành tích
học tập của sinh viên. Nếu sinh viên có hứng thú với tiếng Nhật và văn hoá Nhật Bản sẽ chủ động
và tích cực học tiếng Nhật hơn, thành tích học tập cũng sẽ tốt hơn.
Bạn đang xem tài liệu "Động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai - Tiếng Nhật của sinh viên ngành ngôn ngữ Anh, trường Đại học ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai - Tiếng Nhật của sinh viên ngành ngôn ngữ Anh, trường Đại học ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
78 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự phát triển của nghiên cứu thụ đắc ngoại ngữ, tầm quan trọng của sự khác biệt về cá thể người học trong quá trình thụ đắc ngoại ngữ ngày càng được các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Từ đó, trong lĩnh vực giảng dạy ngoại ngữ đã có những biến chuyển từ “lấy người dạy làm trung tâm” sang “lấy người học làm trung tâm”. Mục đích của sự chuyển biến này là giúp cho chiến lược giảng dạy, trình tự giảng dạy phù hợp với những đặc trưng tính cách của người học, hoạt động giảng dạy phù hợp với năng lực của người học, để từ đó có được những kết quả học tập tốt nhất. TS. LƯU HỚN VŨ1 1 Đại học Ngân hàng TPHCM ✉ luuhonvu@gmail.com NNgày nhận: 11/01/2017; Ngày hoàn thiện: 25/01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017 Phản biện khoa học: PGS.TS. ĐỖ HOÀNG NGÂN ĐỘNG CƠ HỌC TẬP NGOẠI NGỮ THỨ HAI - TIẾNG NHẬT CỦA SINH VIÊN NGÀNH NGÔN NGỮ ANH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH TÓM TẮT Sinh viên học ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh có động cơ học tập tương đối cao. Trong ba phạm vi, động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ là mạnh nhất, kế đó là động cơ học tập trên phạm vi môi trường học tập, yếu nhất là động cơ học tập trên phạm vi người học. Động cơ học tập trên phạm vi người học là yếu tố ảnh hưởng đến thành tích học tập của sinh viên. Nếu sinh viên có hứng thú với tiếng Nhật và văn hoá Nhật Bản sẽ chủ động và tích cực học tiếng Nhật hơn, thành tích học tập cũng sẽ tốt hơn. Từ khóa: động cơ học tập, ngoại ngữ thứ hai, tiếng Nhật. Trong lĩnh vực nghiên cứu học tập ngoại ngữ, sự khác biệt về cá thể người học được chia thành ba nhóm nhân tố lớn: nhóm nhân tố sinh lý, nhóm nhân tố tri nhận và nhóm nhân tố tình cảm. Trong đó, nhóm nhân tố tình cảm được xem là “máy phát” của nhóm nhân tố tri nhận, có tác dụng kích thích nhóm nhân tố tri nhận. Nếu nhóm nhân tố tình cảm không được quan tâm, chú ý, sẽ khó mà phát huy được tính tích cực của người học, cũng khó có thể phát huy được tính chủ động của người học, hiệu quả của việc dạy và học cũng vì thế mà bị ảnh hưởng theo. Trong các nhân tố của nhóm nhân tố tình cảm, động cơ (motivation) được xem là nhân tố quan trọng nhất 79KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v trong học tập ngoại ngữ. Nó ảnh hưởng đến thành tích học tập của người học. Corder S. P. (1967) đã từng cho rằng: “Chỉ cần có động cơ, ai cũng có thể học tốt một ngoại ngữ”. Theo kết quả nghiên cứu của Jakobovits L. A. (1970), trong các nhân tố ảnh hưởng đến việc học tập ngoại ngữ thì nhân tố động cơ chiếm 33%, nhân tố năng lực chiếm 33%, nhân tố trí lực chiếm 20%, các nhân tố khác chiếm 14%. Qua đó có thể thấy rằng, động cơ học tập là động lực trực tiếp thúc đẩy người học tiến hành việc học, là sức mạnh giúp người học kiên trì trong suốt quá trình học tập ngoại ngữ. Người học có năng lực học tập xuất sắc, song lại có động cơ học tập thấp, thì cũng khó có thể thực hiện được các mục tiêu học tập lâu dài. Ngược lại, nếu người học có động cơ học tập cao, thì động cơ học tập này sẽ giúp người học bù đắp lại những khiếm khuyết ở những phương diện khác như khiếm khuyết về năng lực ngoại ngữ, khiếm khuyết về điều kiện môi trường học tập. Trong mấy mươi năm trở lại đây, động cơ học tập đã trở thành vấn đề được giới ngôn ngữ học quốc tế quan tâm, nghiên cứu và đã có được nhiều thành quả đáng kể. Song, ở Việt Nam hiện nay thành quả nghiên cứu về động cơ học tập ngoại ngữ, đặc biệt là động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật, vẫn còn rất hạn chế. Trong quá trình quản lý và giảng dạy, chúng tôi nhận thấy sinh viên có động cơ học tập khác nhau, hiệu quả học tập của họ cũng sẽ không giống nhau. Việc tìm hiểu tình hình động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật của sinh viên, tìm kiếm biện pháp kích thích động cơ học tập, khơi dậy tính chủ động và tinh thần ham học hỏi của sinh viên, nâng cao tính năng động trong học tập, biến “muốn tôi học” thành “tôi muốn học”, sẽ hữu ích cho việc nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần phải tiến hành nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên học ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi dựa trên Lý thuyết ba phạm vi động cơ học tập ngoại ngữ do Dörnyei Z. đưa ra vào năm 1994. Theo thuyết này, ba phạm vi động cơ học tập ngoại ngữ bao gồm: phạm vi ngôn ngữ, phạm vi người học và phạm vi môi trường học tập. Trong đó, phạm vi ngôn ngữ được hiểu là những nhân tố động cơ có liên quan đến bản thân ngôn ngữ, bao gồm những nhân tố động cơ có liên quan đến văn hoá, xã hội và cách sử dụng ngôn ngữ đích; phạm vi người học được hiểu là tình cảm phức tạp và trạng thái tri nhận của người học biểu hiện ra bên ngoài khi bắt đầu học ngoại ngữ, bao gồm nhu cầu về thành tựu và sự tự tin; phạm vi môi trường được hiểu là những nhân tố động cơ có liên quan đến môi trường học tập ngoại ngữ, được tạo thành bởi ba nhóm nhân tố sau: nhóm nhân tố đặc trưng khoá học, nhóm nhân tố đặc trưng của người dạy và nhóm nhân tố đặc trưng của nhóm học. 3. KHÁCH THỂ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÔNG CỤ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU 3.1 Khách thể nghiên cứu Tham gia điều tra là 103 sinh viên năm thứ hai và năm thứ ba ngành Ngôn ngữ Anh tại Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh (BUH). Các sinh viên này hiện đang học ngoại ngữ thứ hai (SFL) là tiếng Nhật. Chúng tôi chọn sinh viên ở hai cấp lớp này là vì trong chương trình đào tạo ngành Ngôn ngữ Anh của BUH, các học phần SFL tiếng Nhật chỉ được phân bổ vào năm thứ hai và năm thứ ba. Tất cả 103 phiếu thu được đều là phiếu hợp lệ. Sinh viên trả lời đầy đủ tất cả các câu hỏi có trong phiếu. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu mà chúng tôi sử dụng là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Đây là một trong những phương pháp thu thập dữ kiện thường dùng nhất trong giảng dạy ngoại ngữ, tầm quan trọng của phương pháp này chỉ đứng sau Kiểm tra năng lực ngôn ngữ (Dörnyei, 2003). Phiếu điều tra của chúng tôi được thiết kế trên cơ sở mô hình ba phạm vi động cơ học tập của Dörnyei Z, sử dụng Thang đo 5 bậc của Likert từ “hoàn toàn không đồng ý” đến “hoàn toàn đồng ý”, tổng cộng có 32 câu. Trong đó, từ câu T1 đến câu T21 là các câu hỏi điều tra thuộc phạm vi ngôn ngữ, từ câu T22 đến câu T27 là các câu hỏi điều tra thuộc phạm vi người học, từ câu T28 đến câu T32 là các câu hỏi điều tra thuộc phạm vi môi trường học tập. 80 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Nội dung các câu hỏi của phiếu điều tra như sau: Vì sao bạn học tiếng Nhật? T1. Vì tôi có hứng thú với lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán của Nhật Bản. T2. Vì tôi có hứng thú với âm nhạc, phim ảnh, nghệ thuật của Nhật Bản. T3. Vì tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về cuộc sống của người Nhật Bản. T4. Vì tôi thích Nhật Bản hoặc thích con người Nhật Bản. T5. Vì tôi muốn kết bạn với một số người Nhật Bản. T6. Vì tôi có người thân là người Nhật Bản, tôi muốn thường xuyên liên lạc với họ. T7. Vì yêu cầu của chuyên ngành mà tôi theo học. T8. Để khi đi du lịch Nhật Bản có thể sử dụng tiếng Nhật. T9. Để qua được kỳ thi kiểm tra trình độ tiếng Nhật. T10. Để chuẩn bị cho việc học tập ở trường đại học Nhật Bản. T11. Để sau này có thể tìm được một công việc tốt hoặc có cơ hội thăng tiến trong công việc. T12. Vì tôi thích học ngoại ngữ. T13. Vì học tiếng Nhật là một thử thách. T14. Vì tôi thích tiếng Nhật, không có nguyên nhân gì đặc biệt. T15. Vì tôi cảm thấy tiếng Nhật rất thú vị, nó có thể giúp tôi trở thành người có hiểu biết rộng. T16. Vì bố mẹ hoặc nhà trường muốn tôi học. T17. Vì khi biết một ngoại ngữ tôi có thể nhận được sự tôn trọng từ người khác. T18. Vì tôi có hứng thú với mối quan hệ giữa đất nước tôi và Nhật Bản. T19. Vì học tốt tiếng Nhật sẽ cho tôi có cảm giác thành công. T20. Vì tôi cảm thấy biết nói tiếng Nhật là một kỹ năng quan trọng trong cuộc sống. T21. Vì có thể giúp bạn bè nước ngoài hiểu về đất nước tôi. Nguyên nhân nào khiến bạn cố gắng học tiếng Nhật? T22. Vì tôi không muốn bị mất mặt với mọi người do thành tích học tập quá kém. T23. Vì tôi muốn chứng minh tôi không tệ hơn người khác. T24. Vì tôi phát hiện tiếng Nhật không khó, tôi tiến bộ tương đối nhanh. T25. Vì tôi đã tìm được phương pháp học tập để đạt được thành tích tốt. T26. Vì tôi luôn tin rằng tôi có thể học tốt tiếng Nhật. T27. Vì tôi không muốn làm bố mẹ tôi thất vọng. Hiện tại, hứng thú của bạn với việc học tiếng Nhật, phần lớn được quyết định bởi điều gì? T28. Quyết định bởi thành tích học tập tiếng Nhật của tôi. T29. Quyết định bởi giáo viên tiếng Nhật của tôi. T30. Quyết định bởi chất lượng môn tiếng Nhật. T31. Quyết định bởi giáo trình tiếng Nhật đang sử dụng. T32. Quyết định bởi lớp tiếng Nhật của tôi. 3.3. Công cụ phân tích số liệu Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để phân tích thống kê số liệu mà chúng tôi điều tra được. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng SPSS trong các thống kê mô tả, kiểm định trị trung bình của mẫu phối hợp từng cặp (Paired – samples T–test) và kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent – samples T–test). 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tình hình chung về động cơ học tập SFL tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh BUH trên các phạm vi ngôn ngữ, phạm vi người học và phạm vi môi trường học tập như sau: Bảng 1. Thống kê mô tả động cơ học tập SFL tiếng Nhật Mean Std. Deviation S.E. mean Phạm vi ngôn ngữ 3.55 0.50 0.05 Phạm vi người học 3.36 0.73 0.07 Phạm vi môi trường học tập 3.49 0.72 0.07 Từ bảng 1, chúng ta có thể tính được trung bình cộng (Mean) động cơ học tập SFL tiếng Nhật của sinh viên BUH là 3.467. Điều này cho thấy động cơ học tập SFL tiếng Nhật của sinh viên BUH tương đối cao. 81KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 4.1. Tình hình động cơ học tập SFL tiếng Nhật trên phạm vi ngôn ngữ Trung bình cộng của nhóm động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ cao nhất (Mean = 3.55), độ lệch chuẩn thấp nhất (SD = 0.50). Căn cứ vào cách phân loại động cơ học tập của Jiang Xin (2007: 240) và Chen Tian–xu (2012), chúng tôi chia nhóm động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ thành 6 loại: 1. Hứng thú ngôn ngữ (bao gồm T12, T14), 2. Hứng thú văn hoá chính trị (bao gồm T1, T2, T18, T21), 3. Nhu cầu công cụ du lịch, nghề nghiệp (bao gồm T7 đến T11), 4. Nhu cầu giao tiếp (bao gồm T3 đến T6), 5. Yêu cầu của người khác (bao gồm T16), 6. Thực hiện giá trị bản thân (bao gồm T13, T15, T17, T19, T20). Kết quả thống kê động cơ học tập SFL của sinh viên BUH trên phạm vi ngôn ngữ theo loại động cơ như sau: Bảng 2. Thống kê theo loại động cơ học tập SFL tiếng Nhật trên phạm vi ngôn ngữ Hứng thú ngôn ngữ Hứng thú văn hoá chính trị Nhu cầu công cụ du lịch, nghề nghiệp Nhu cầu giao tiếp Yêu cầu của người khác Thực hiện giá trị bản thân Mean 3.64 3.43 3.84 3.09 3.16 3.76 Sau khi tiến hành kiểm định trị trung bình của mẫu phối hợp từng cặp (Paired – samples T–test) đối với 6 loại của nhóm động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ, chúng tôi được kết quả điều tra như sau: Bảng 3. Kết quả kiểm định Paired – samples T–test đối với 6 loại của nhóm động cơ học tập SFL tiếng Nhật trên phạm vi ngôn ngữ Hứng thú văn hoá chính trị Nhu cầu công cụ du lịch, nghề nghiệp Nhu cầu giao tiếp Yêu cầu của người khác Thực hiện giá trị bản thân Hứng thú ngôn ngữ t(101) = 2.10 p < 0.05 t(101) = –2.04 p < 0.05 t(101) = 6.23 p < 0.05 t(101) = 2.69 p < 0.05 t(101) = –1.43 p = 0.157 Hứng thú văn hoá chính trị ––––––––– t(101) = –4.80 p < 0.05 t(101) = 4.94 p < 0.05 t(101) = 1.62 p = 0.109 t(101) = –4.05 p < 0.05 Nhu cầu công cụ du lịch, nghề nghiệp ––––––––– ––––––––– t(101) = 9.94 p < 0.05 t(101) = 4.40 p < 0.05 t(101) = 1.16 p = 0.248 Nhu cầu giao tiếp ––––––––– ––––––––– ––––––––– t(101) = –0.37 p = 0.712 t(101) = –8.74 p < 0.05 Yêu cầu của người khác ––––––––– ––––––––– ––––––––– ––––––––– t(101) = –3.52 p < 0.05 Bảng 3 cho thấy, thứ tự 6 loại động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ như sau: Nhu cầu công cụ = Thực hiện giá trị bản thân > Hứng thú ngôn ngữ > Hứng thú văn hoá chính trị > Nhu cầu giao tiếp = Yêu cầu của người khác. Qua đó có thể thấy, sinh viên BUH học SFL tiếng Nhật chủ yếu xuất phát từ loại động cơ nhu cầu công cụ và loại động cơ thực hiện giá trị bản thân, kế tiếp là loại động cơ hứng thú ngôn ngữ và loại động cơ hứng thú văn hoá chính trị, sau cùng là loại động cơ nhu cầu giao tiếp và loại động cơ yêu cầu của người khác. 82 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Sinh viên SFL tiếng Nhật có trung bình cộng cao ở các nội dung T11 (Mean = 4.60), T7 (Mean = 4.31), T9 (Mean = 4.25), T8 (Mean = 4.17), có trung bình cộng tương đối thấp ở các nội dung T6 (Mean = 1.38), T10 (Mean = 1.85), T18 (Mean = 2.85). Qua đó có thể nhận thấy, sinh viên BUH chọn học SFL tiếng Nhật chủ yếu vì tin rằng tiếng Nhật có thể hỗ trợ cho việc tìm kiếm công việc sau này và cũng vì bắt buộc phải học SFL; việc chọn học SFL tiếng Nhật không phải vì gia đình có yếu tố Nhật Bản, hay mong muốn được sang Nhật du học, cũng không phải xuất phát từ hứng thú về mối quan hệ Việt – Nhật. 4.2. Tình hình động cơ học tập SFL tiếng Nhật trên phạm vi người học Trung bình cộng của nhóm động cơ học tập trên phạm vi người học thấp nhất (Mean = 3.36), độ lệch chuẩn cao nhất (SD = 0.73). Sinh viên SFL tiếng Nhật có trung bình cộng tương đối cao ở các nội dung T27 (Mean 3.87), T26 (Mean = 3.78), có trung bình cộng tương đối thấp ở các nội dung T24 (Mean = 2.89), T25 (Mean = 2.90). Qua đó có thể thấy, sinh viên tin vào năng lực của mình có thể học tốt tiếng Nhật, mong đợi của bố mẹ là yếu tố quan trọng khiến sinh viên cố gắng học tập. Đại đa số sinh viên cho rằng, tiếng Nhật không dễ, họ chưa tìm được phương pháp để có thể học tốt tiếng Nhật. 4.3. Tình hình động cơ học tập SFL tiếng Nhật trên phạm vi môi trường học tập Trung bình cộng của nhóm động cơ học tập trên phạm vi môi trường học tập Mean = 3.49, độ lệch chuẩn SD = 0.72. Sinh viên SFL tiếng Nhật có trung bình cộng tương đối cao ở các nội dung T31 (Mean = 3.78), T30 (Mean = 3.65). Điều này cho thấy, giáo trình và chất lượng giờ học có ảnh hưởng trực tiếp đến hứng thú học tập SFL tiếng Nhật của sinh viên. 4.4. Mối quan hệ giữa thành tích và động cơ học tập SFL tiếng Nhật Chúng tôi sử dụng điểm thi cuối học kỳ môn Tiếng Nhật làm cơ sở đánh giá hiệu quả học tập của sinh viên SFL tiếng Nhật. Sinh viên có điểm thi cuối kỳ từ 8.0 trở lên được xem là sinh viên thuộc nhóm điểm cao, sinh viên có điểm thi cuối kỳ dưới 7.0 được xem là sinh viên thuộc nhóm điểm thấp. Trong số 103 sinh viên SFL tiếng Nhật tham gia điều tra, có 48 sinh viên có điểm thi cuối học kỳ từ 8.0 trở lên, 37 sinh viên có điểm thi cuối học kỳ dưới 7.0. Động cơ học tập SFL tiếng Nhật của nhóm điểm cao và nhóm điểm thấp trên các phạm vi ngôn ngữ, phạm vi người học, phạm vi môi trường học tập như bảng 4. Bảng 4. Thống kê mô tả thành tích và động cơ học tập SFL tiếng Nhật Nhóm điểm cao (N = 48) Nhóm điểm thấp (N = 37) Mean SD Mean SD Phạm vi ngôn ngữ 3.57 0.517 3.53 0.527 Phạm vi người học 3.51 0.716 3.13 0.662 Phạm vi môi trường học tập 3.50 0.685 3.50 0.748 83KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Bảng 4 cho thấy, trên phạm vi người học trung bình cộng (Mean) của sinh viên SFL tiếng Nhật thuộc nhóm điểm cao cao hơn sinh viên thuộc nhóm điểm thấp, trên phạm vi ngôn ngữ trung bình cộng (Mean) của sinh viên SFL tiếng Nhật thuộc nhóm điểm thấp gần bằng sinh viên thuộc nhóm điểm cao, trên phạm vi môi trường học tập trung bình cộng (Mean) của sinh viên SFL tiếng Nhật ở cả hai nhóm bằng nhau. Sau khi tiến hành kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent – samples T–test) ở cả ba phạm vi động cơ học tập, chúng tôi phát hiện: 1. Sự khác biệt về động cơ học tập SFL tiếng Nhật ở phạm vi ngôn ngữ giữa nhóm điểm cao và nhóm điểm thấp là sự khác biệt không có ý nghĩa (t(83) = 0.386, p = 0.700); 2. Sự khác biệt về động cơ học tập SFL tiếng Nhật ở phạm vi người học giữa nhóm điểm cao và nhóm điểm thấp là sự khác biệt có ý nghĩa (t(83) = 2.481, p < 0.05); 3. Sự khác biệt về động cơ học tập SFL tiếng Nhật ở phạm vi môi trường học tập giữa nhóm điểm cao và nhóm điểm thấp là sự khác biệt không có ý nghĩa (t(83) = – 0.009, p = 0.993). Có thể thấy, nhóm điểm cao và nhóm điểm thấp có sự giống nhau về động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ và môi trường học tập, song có sự khác biệt về động cơ học tập trên phạm vi người học. Nói cách khác, động cơ học tập trên phạm vi người học ảnh hưởng đến thành tích học tập của sinh viên SFL tiếng Nhật, còn động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ và phạm vi môi trường học tập không ảnh hưởng đến thành tích học tập của sinh viên SFL tiếng Nhật. Khi tiến hành kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent – samples T–test) ở từng nội dung động cơ, chúng tôi phát hiện có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm điểm cao và nhóm điểm thấp ở năm nội dung sau: Bảng 5. Các nội dung có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm sinh viên Mean t(83) p Nhóm điểm cao Nhóm điểm thấp T9 3.98 4.54 – 2.579 < 0.05 T12 4.46 4.11 2.033 < 0.05 T24 3.15 2.49 2.536 < 0.05 T25 3.06 2.51 2.555 < 0.05 T26 4.04 3.46 2.960 < 0.05 Bảng 5 cho thấy, nhóm điểm cao yêu thích việc học ngoại ngữ, họ cho rằng, tiếng Nhật không khó và tin rằng, mình có thể học tốt ngôn ngữ này, đồng thời còn tìm ra được phương pháp học tập để có thành tích tốt; nhóm điểm thấp thì ngược lại, họ không yêu thích ngôn ngữ này, họ học tiếng Nhật vì yêu cầu học SFL của nhà trường, vì vậy họ không tin mình có thể học tốt tiếng Nhật, luôn cảm thấy tiếng Nhật khó học và không tìm được phương pháp thích hợp để học tốt tiếng Nhật. Nghiên cứu của Ramage K. (1990) cho thấy, sinh viên yêu thích văn hoá ngôn ngữ đích sẽ có nghị lực học tập mạnh hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng đã kiểm chứng kết quả nghiên cứu của Ramage K. (1990). Có thể thấy, nếu sinh viên có hứng thú với tiếng Nhật và văn hoá Nhật Bản sẽ chủ động và tích cực học tiếng Nhật hơn, thành tích học tập cũng sẽ tốt hơn. 84 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 5. KẾT LUẬN Về mặt tổng thể, sinh viên SFL tiếng Nhật BUH có động cơ học tập SFL tương đối cao. Trong ba phạm vi, động cơ học tập trên phạm vi ngôn ngữ là mạnh nhất, kế đó là động cơ học tập trên phạm vi môi trường học tập, yếu nhất là động cơ học tập trên phạm vi người học. Trên phạm vi ngôn ngữ, sinh viên chọn học SFL tiếng Nhật đại đa số xuất phát từ nhu cầu công cụ du lịch, nghề nghiệp và thực hiện giá trị bản thân, một bộ phận nhỏ là do yêu cầu của người khác hoặc do nhu cầu giao tiếp. Trên phạm vi người học, đại đa số sinh viên BUH cho rằng, tiếng Nhật là một ngôn ngữ khó, họ cố gắng học SFL tiếng Nhật là vì họ tin rằng mình có thể học tốt ngôn ngữ này, đồng thời họ cũng không muốn làm bố mẹ thất vọng về năng lực học tập của họ. Trên phạm vi môi trường học tập, hứng thú học tập SFL tiếng Nhật hiện tại của đại đa số sinh viên BUH được quyết định bởi chất lượng môn học và giáo trình nhà trường sử dụng. Về mối quan hệ giữa thành tích và động cơ học tập, xét từ tổng thể động cơ học tập ở phạm vi ngôn ngữ và phạm vi môi trường học tập không phải là yếu tố ảnh hưởng đến thành tích học tập của sinh viên SFL tiếng Nhật, chỉ có động cơ học tập ở phạm vi người học mới là yếu tố ảnh hưởng đến thành tích học tập của sinh viên SFL tiếng Nhật. Mặt khác, nếu xét từ góc độ vi mô, động cơ xuất phát từ hứng thú với âm nhạc, phim ảnh, nghệ thuật của ngôn ngữ đích, hứng thú học tập tiếng Nhật, cảm nhận tiếng Nhật không khó, tin rằng mình có thể học tốt tiếng Nhật, tìm ra được phương pháp học tập để đạt được thành tích tốt giúp sinh viên có được thành tích cao trong học tập, ngược lại nếu việc học SFL tiếng Nhật xuất phát từ động cơ yêu cầu của chuyên ngành theo học, vượt qua kiểm tra cuối kỳ sẽ có ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập của sinh viên. 6. KIẾN NGHỊ Căn cứ vào kết quả điều tra thực tế về động cơ học tập SFL tiếng Nhật của sinh viên BUH, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau: Thứ nhất, sinh viên cần kết hợp động cơ bên trong và động cơ bên ngoài để có được hiệu quả học tập tốt nhất, lắng nghe những phản hồi của giảng viên về tình hình học tập của mình. Đồng thời tìm kiếm nguyên nhân thành công và thất bại, để có thể điều chỉnh phương pháp học tập và chiến lược học tập, kích thích hứng thú học tập của bản thân. Thứ hai, giảng viên cần không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn (bao gồm trình độ về ngôn ngữ Nhật và phương pháp giảng dạy), như thế mới có thể giải đáp được các thắc mắc của sinh viên, thu hút sinh viên tham gia vào hoạt động học tập trên lớp, nâng cao tính tích cực trong học tập SFL của sinh viên. Thứ ba, giảng viên cần xây dựng không khí lớp học vui vẻ, tích cực, tạo sự thoải mái trong học tập, để người học không có những áp lực về tâm lý. Trong hoạt động giảng dạy, giảng viên nên có những đánh giá mang tính khẳng định cho sinh viên, thiết kế những nhiệm vụ học tập có tính thú vị, thực dụng và có độ khó vừa phải, tận dụng những tài nguyên internet, sử dụng các kỹ thuật đa phương tiện trong giảng dạy. Thứ tư, tổ chức các hoạt động ngoại khoá như giới thiệu về văn hoá nghệ thuật của Nhật Bản, thi hát tiếng Nhật... qua đó có thể khơi gợi hứng thú học tập, tăng cường động cơ học tập tiếng Nhật của sinh viên. Thứ năm, biên soạn hoặc lựa chọn các giáo trình tiếng Nhật theo triết lý lấy sinh viên làm trung tâm, chú trọng mức độ thích hợp với sinh viên, có tác dụng lớn trong việc khơi gợi hứng thú học tập của sinh viên. Một bộ giáo trình hay cần hội đủ các điều kiện sau: phải hướng đến đối tượng người học cụ thể, phải có tính khoa học, phải có tính thực dụng và tính thú vị. Một bộ giáo trình phù hợp luôn được kiểm chứng và cải tiến từ trong thực tiễn giảng dạy. Nhà trường nên căn cứ vào những phản hồi về hiệu quả dạy học của giảng viên, kịp thời tổng kết những nhu cầu và đặc điểm học tập của sinh viên, bổ sung và hoàn thiện giáo trình đang sử dụng./. Tài liệu tham khảo: 1. Chen Tian-Xu (2012), “Nghiên cứu động cơ học tập tiếng Trung của sinh viên Thái Lan và Hoa Kỳ trong môi trường ngôn ngữ nguồn”, Tạp chí Nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, số 4, tr. 30-37 (Trung Quốc). 2. Corder, S. P. (1967), “The Significance of Learner’s errors”, International Review of Applied Linguistics in Language Teaching, vol.4, pp.161-170. 85KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v A STUDY ON MOTIVATIONS OF LEARNING JAPANESE AS A SECOND FOREIGN LANGUAGE BY ENGLISH MAJOR STUDENTS AT BANKING UNIVERSITY HO CHI MINH CITY LUU HON VU Abstract: In Banking University Ho Chi Minh city, Japanese as a second foreign language student’s learning motivations are strong. The motivations of Language Level are the highest, next is the motivations of Learning Situation Level, the motivations of Learner Level are the lowest. The motivations of Learner Level will affect student’s achievement. If the students are interested in Japanese language and Japanese culture, they will be more active and positive in learning Japanese, thus improving their achievement. Keywords: learning motivation, second foreign language, Japanese. 3. Dörnyei Z. (1994), “Motivation and motivating in the foreign language classroom”, Modern Language Journal, vol.78 (3), pp.273-284. 4. Dörnyei Z. (2003), “Attitudes, Orientations, and Motivations in Language Learning: Advances in The- ory, Research, and Applications”, Language Learning, vol.53, pp.3-32. 5. Jakobovits, L. A. (1970), Foreign Language Learning: A Psycholinguistic Analysis of the Issues, Newbury House. 6. Jiang Xin (2007), Khám phá tâm lý học trong giảng dạy tiếng Trung cho người nước ngoài, Nxb Khoa học Giáo dục (Trung Quốc). 7. Ramage K. (1990), “Motivational factors and per- sistence in foreign language study”, Language Learn- ing, vol.40, pp.189-219.
File đính kèm:
- dong_co_hoc_tap_ngoai_ngu_thu_hai_tieng_nhat_cua_sinh_vien_n.pdf