Đổi mới dạy học văn học nước ngoài cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học theo hướng tích hợp

Bài viết đề cập vấn đề dạy học tích hợp (DHTH) liên môn trong dạy học văn học nước ngoài (VHNN) cho sinh viên (SV) ngành Giáo dục Tiểu học (GDTH). Sự tích hợp giữa các phân môn Văn học Việt Nam – Lịch sử – Văn hóa – Lí luận văn học và Mĩ học; tích hợp giữa bài giảng ở trường đại học với chương trình ở trường tiểu học sẽ đem lại hiệu quả tốt cho SV ngành GDTH trong nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, đáp ứng xu thế dạy học và hội nhập văn hóa trong giai đoạn hiện nay.

pdf 9 trang thom 06/01/2024 560
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới dạy học văn học nước ngoài cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học theo hướng tích hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới dạy học văn học nước ngoài cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học theo hướng tích hợp

Đổi mới dạy học văn học nước ngoài cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học theo hướng tích hợp
Ý kiến trao đổi Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 132
ĐỔI MỚI DẠY HỌC VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI CHO SINH VIÊN 
NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC THEO HƯỚNG TÍCH HỢP 
NGUYỄN THỊ THU THỦY* 
TÓM TẮT 
Bài viết đề cập vấn đề dạy học tích hợp (DHTH) liên môn trong dạy học văn học 
nước ngoài (VHNN) cho sinh viên (SV) ngành Giáo dục Tiểu học (GDTH). Sự tích hợp 
giữa các phân môn Văn học Việt Nam – Lịch sử – Văn hóa – Lí luận văn học và Mĩ học; 
tích hợp giữa bài giảng ở trường đại học với chương trình ở trường tiểu học sẽ đem lại 
hiệu quả tốt cho SV ngành GDTH trong nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, đáp ứng xu thế dạy 
học và hội nhập văn hóa trong giai đoạn hiện nay. 
Từ khóa: văn học nước ngoài, giáo dục tiểu học, dạy học tích hợp. 
ABSTRACT 
Innovations in teaching foreign literature for students 
of primary education major throughintegration teaching 
This article discusses the interdisciplinary integration in teaching foreign literature 
to students of primary education major. The integration between the subjects of Foreign 
Literature – History – Culture – Literature Theory and Aesthetics as well as the 
integration between lectures at universities with the syllabus in primary schools brings 
effective results for students of primary education major in terms of cognition, education 
and aesthetics to meet the trend of teaching and cultural integration nowadays. 
Keywords: foreign literature, primary education, intergration teaching. 
1. Đặt vấn đề 
VHNN là môn học có vị trí hết sức 
đặc biệt đối với học sinh và sinh viên 
trong giai đoạn hội nhập văn hóa hiện 
nay. Trong kho tàng văn học đồ sộ đó, 
nhiều tác phẩm đã làm nên những dấu 
son rực rỡ trong nền văn hóa của nhân 
loại. Từ góc độ giảng viên (GV), chúng 
tôi tiếp nhận lí thuyết tích hợp - một 
thành quả của dạy học hiện đại - vào thực 
tiễn giảng dạy bộ môn này cho SV ngành 
GDTH như là một phương pháp, một 
điều kiện để nâng cao chất lượng dạy học 
và cũng để chuẩn bị cho SV một hành 
trang văn học trước khi bước vào nghề. 
* TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Vài nét về lí thuyết dạy học tích 
hợp các khoa học 
Trước hết, phải nhận thấy rằng, dạy 
học là một khoa học và cũng là một nghệ 
thuật. Dạy học đại học lại càng cần có 
tính khoa học và tính nghệ thuật cao. 
Điều đó biểu hiện ở chỗ, dạy học đại học 
là dạy nhận thức (cognitive), dạy kĩ năng 
(psychomotor), dạy cảm nhận (affective). 
Tùy theo khoa học mà chọn chủ điểm hay 
trọng tâm về dạy nhận thức, dạy kĩ năng 
hoặc dạy cảm nhận cho phù hợp. Tính 
nghệ thuật của việc dạy học đại học thể 
hiện ở năng lực của GV làm sao cho khơi 
dậy được tiềm năng tiếp thu, phát triển 
và sáng tạo của người học để nhận thức, 
để cảm nhận và để có kĩ năng cao. Ngày 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Thủy 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 133 
nay, với sự phát triển như vũ bão của của 
khoa học kĩ thuật và công nghệ, tri thức, 
những thông tin ngày càng nhiều, điều đó 
buộc GV phải biết dạy tích hợp các khoa 
học, dạy cho SV cách thu thập, chọn lọc, 
xử lí các thông tin, vận dụng các kiến 
thức học được vào các tình huống của đời 
sống thực tế. DHTH các khoa học được 
UNESCO định nghĩa là: “một cách trình 
bày các khái niệm và nguyên lí khoa học 
cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản 
của tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá 
mạnh hoặc quá sớm sự sai khác giữa các 
lĩnh vực khoa học khác nhau” (Hội nghị 
phối hợp trong chương trình của 
UNESCO, Paris 1972) [3, tr.241]. Lí 
thuyết tích hợp được ứng dụng vào giáo 
dục trở thành một quan điểm (một trào 
lưu tư tưởng) lí luận dạy học phổ biến 
trên thế giới hiện nay. Đầu thế kỉ XXI, 
hội thảo quốc tế “Kết nối hệ thống tri 
thức trong một thế giới học tập” (tháng 
12-2000) đã hướng nội dung hội thảo vào 
vấn đề những con đường và cách thức kết 
nối hệ thống tri thức hướng vào người 
học trong thời đại thông tin. Và xu 
hướng tích hợp, còn gọi là xu hướng liên 
hội, đang được thực hiện trên nhiều bình 
diện, cấp độ trong quá trình phát triển 
năng lực người học. Hiện nay, lí thuyết 
tích hợp đã đưa ra ba loại cơ bản về cách 
tiếp cận tích hợp: tích hợp đa môn, tích 
hợp liên môn, tích hợp xuyên môn. Trong 
đó, tích hợp liên môn (interdisciplinary 
integration) được định nghĩa là giáo viên 
tổ chức chương trình học tập xoay quanh 
các nội dung học tập chung: các chủ đề, 
các khái niệm, các khái niệm và kĩ năng 
liên ngành/môn. Họ kết nối các nội dung 
học tập nằm trong các môn học để nhấn 
mạnh các khái niệm và kĩ năng liên môn. 
Tích hợp liên môn còn được hiểu như là 
phương án, mà trong đó, nhiều môn học 
liên quan được kết lại thành một môn học 
mới với một hệ thống những chủ đề nhất 
định xuyên suốt [9]. Thời điểm này, 
không còn là lúc chúng ta đặt vấn đề 
DHTH các khoa học là cần hay không 
cần, nên hay không nên. Câu trả lời là 
khẳng định cần phải tích hợp các môn 
học, nhưng thực hiện DHTH như thế nào 
đó là vấn đề đáng quan tâm. 
Dạy học VHNN cho SV ngành 
GDTH là môn học có đặc trưng riêng về 
kiến thức đi từ mở rộng đến thu hẹp, từ 
khái quát đến cụ thể, đến mức độ giới 
hạn kiến thức về các tác phẩm được dạy 
học trong chương trình tiểu học. Hiện 
nay, tủ sách của các trường đại học sư 
phạm chưa có một giáo trình chính thống 
nào về VHNN dành cho SV ngành 
GDTH. Nó chỉ được lắp ghép vào 
chương trình như là phần “vĩ thanh” mà 
thôi. Để tiện lợi cho việc đào tạo lâu dài 
và có lộ trình cụ thể, chúng tôi biên soạn 
chuyên đề Văn học nước ngoài cho SV 
Khoa GDTH và cùng với chương trình là 
hệ thống bài giảng của GV sao cho phù 
hợp với ngành học, cấp học của mình. 
Nếu chương trình của Khoa Ngữ văn, 
VHNN được học trải dài trong ba năm và 
học rất chi tiết cho từng nền văn học thì 
VHNN trong chương trình của Khoa 
GDTH chỉ gói gọn 30 tiết. Về mặt thời 
gian, chúng tôi phải sử dụng công nghệ 
“nén” đến mức tối đa và theo đó kiến 
thức cũng cô đọng lại ở mức độ cao nhất. 
Cho nên, tích hợp liên môn là một 
Ý kiến trao đổi Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 134
phương pháp được sử dụng khá đặc 
trưng đối với bộ môn này. 
2.2. Dạy học VHNN gắn chặt với lịch 
sử là điều kiện tiên quyết, tạo nên mối 
liên hệ ngang giữa văn học và lịch sử 
Phải thấy rằng, kiến thức VHNN 
nằm trong hệ thống đa chiều hết sức phức 
tạp. Nó bao gồm văn học châu Á, văn 
học Âu - Mĩ và văn học Nga – Xô-viết. 
Sự hiểu biết một cách toàn diện và sâu 
sắc thành tựu VHNN không phải là dễ 
dàng. Bức tranh văn học ở từng thời đại 
khác nhau sẽ nổi trội hơn ở một số quốc 
gia, và văn học sử của mỗi một dân tộc 
bao giờ cũng là bức tranh nhiều chiều. 
Lịch sử văn học của mỗi một dân tộc 
trước hết là một môn lịch sử. Với tư cách 
là một hình thái ý thức xã hội, văn học có 
cội nguồn là đời sống, là sự phản ánh của 
đời sống. Dạy học VHNN, chúng tôi chú 
ý đến sự phát triển của văn học theo mốc 
thời gian, theo từng chặng đường phát 
triển, tính kế thừa, tính cách tân của văn 
học Chẳng hạn, khi khái quát nền văn 
học cổ - trung - đại Trung Quốc, GV cần 
phải phân tích và khai thác những luận 
điểm có tính chất khái quát như sau: 
- Lực lượng tác giả của nền văn học 
đó hầu hết là các trí thức quan liêu, nghề 
nghiệp của họ là làm quan, số phận bị 
buộc chặt với vương quyền theo kỉ cương 
Nho giáo. 
- Nền văn học này là một bộ phận 
của nền văn hóa nông nghiệp, chủ đề 
quán xuyến là vận mệnh của lương dân, 
chủ yếu là người nông dân. 
- Một nền văn học là con đẻ của một 
đất nước vĩ đại mà đau khổ. Lịch sử triền 
miên những cuộc binh đao, khởi nghĩa và 
bạo loạn, chiến tranh và nội chiến Tất 
nhiên, đề tài chinh chiến binh đao phải 
được “ưu tiên” và đã tạo nên nhiều kiệt 
tác. Từ Tam quốc chí, Thủy hử cho đến 
các bộ sách “chưởng” thời nay, các tác 
phẩm viết về binh đao là “đặc sản” thể 
hiện tài nghệ của các văn gia Trung 
Quốc. 
- Từ đời Đường, kinh tế đô thị bắt 
đầu phát triển, đưa tới ý thức hệ dân chủ 
“tiền tư bản”, nó là động lực hình thành 
và phát triển những thể loại văn học mới, 
đặc biệt là thể loại tiểu thuyết Minh 
Thanh sau này. 
- Đây là một nền văn học lớn và 
phong phú, mang truyền thống yêu nước 
và nhân đạo sâu sắc, đồng thời tồn tại 
không ít những hạn chế của một xã hội 
phong kiến lâu đời. 
Như vậy, ngay trong mỗi nhận định 
ấy đã bao hàm sự tích hợp, đó là chưa kể 
tới sự phân tích các mệnh đề ấy một cách 
thấu đáo. Nó đòi hỏi GV phải có sự hiểu 
biết sâu và rộng về lịch sử cũng như về 
văn học trong từng giai đoạn. Dạy Tổng 
quan về văn học Trung Quốc, GV phải 
dừng lại ở các sự kiện quan trọng, dự báo 
đó là cơ sở của sự xuất hiện các sự kiện 
văn học sau này. Cảm xúc giữa văn học 
và lịch sử phải lồng ghép và giao thoa với 
nhau thì giá trị phản ánh của văn học 
càng thể hiện rõ, hiệu quả của bài giảng 
càng sâu sắc. 
2.3. Dạy học VHNN còn là sự tích hợp 
giữa văn học và văn hóa 
Nếu văn hóa là tổng thể những giá 
trị vật chất và tinh thần do con người tích 
lũy được trong quá trình lịch sử theo quy 
luật của cái đẹp thì văn học là một bộ 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Thủy 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 135 
phận của văn hóa, nó chịu sự chi phối 
mang tính quyết định của văn hóa và tính 
đại diện cho văn hóa của văn học, tính 
tích cực trở lại của văn học đối với văn 
hóa. Vì vậy, khi nghiên cứu, giảng dạy 
nền văn học Hi Lạp cổ đại, GV là người 
dẫn dắt SV hiểu biết về một nền văn hóa 
phát triển rực rỡ và toàn diện. Đó là quê 
hương của những triết gia nổi tiếng đầu 
tiên của loài người, là nơi phát minh 
những ngành khoa học cơ bản. Người Hi 
Lạp cổ đại đã bộc lộ những tư duy sâu 
sắc về tự nhiên và xã hội. Kiểu văn hóa 
Mycenaean Greece (1900 – 1100 TCN) 
sẽ có kiểu văn học tương ứng là văn học 
Hi Lạp cổ đại. Tuy trình độ nhận thức 
còn rất ngây thơ nhưng họ đã bộc lộ sự 
nhận thức đúng đắn về sự phát triển của 
thế giới. Chẳng hạn, trong thần thoại Hi 
Lạp, sự phát triển đó theo quy luật: thế hệ 
sau bao giờ cũng tiến bộ hơn thế hệ 
trước. Ngay trong cùng một thế hệ thì 
người con út (Cronos, Zeus) là yếu tố trẻ 
nhất, nổi nhất sẽ lên ngôi chúa tể. Càng 
về sau thì ý nghĩa nhân sinh của các 
truyện càng rõ hơn, sâu hơn. Persephone 
phải làm vợ của Hades (thần cai quản địa 
ngục) vì rơi vào cái bẫy hoa. Có lẽ bắt 
đầu từ đó loài người đã hình thành triết lí: 
Hãy coi chừng những bông hoa đẹp, bởi 
vì nó có gai và có thể rất nguy hiểm! 
Chuyện Antée chỉ vô địch khi bám vào 
đất mẹ Gaea, chuyện gót chân Achille là 
những bài học nhận thức lí thú. Văn học 
Hi Lạp in đậm dấu ấn của nền văn hóa 
mà nó chịu ảnh hưởng nên mang những lí 
tưởng thẩm mĩ của thời đại dân chủ chủ 
nô Hi Lạp điển hình và độc đáo. Dù là 
thần thoại, trường ca, bi kịch hay hài kịch 
thì con người với những vẻ đẹp về tinh 
thần và thể chất luôn luôn là đối tượng 
ngợi ca và khẳng định của văn học. Các 
thể loại văn học là sự hòa trộn giữa các 
thiên tài cá nhân với tài năng của một 
cộng đồng sáng tạo vĩ đại. Tất cả những 
đặc trưng ấy làm cho văn học Hi Lạp trở 
thành cái mốc đầu tiên trong tiến trình 
văn hóa, văn học của loài người. Đây là 
một nền văn học vĩ đại và chỉ có thể “nảy 
sinh ra trong những điều kiện của quan 
hệ xã hội ấy mà thôi, chứ vĩnh viễn 
không thể trở lại được nữa” [Marx – Lời 
nói đầu cuốn “Phê phán kinh tế chính trị 
học”]. Nếu văn hóa chính là một hệ thống 
được tạo thành bởi nhiều yếu tố khác 
nhau thì “Văn học là một bộ phận không 
thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu 
nó ngoài các mạch nguyên vẹn của toàn 
bộ văn hóa một thời đại trong đó nó tồn 
tại. Không được tách nó khỏi các bộ phận 
khác của văn hóa, cũng như không được, 
như người ta vẫn làm, là trực tiếp gắn nó 
với các nhân tố xã hội kinh tế, vượt qua 
đầu văn hóa. Những nhân tố xã hội kinh 
tế, tác động tới toàn bộ văn hóa nói 
chung, và chỉ thông qua văn hóa, cùng 
với văn hóa, mới tác động được tới văn 
học” [8, tr.81]. Đối với VHNN, tri thức 
văn chương được cung cấp một cách tổng 
hợp với các minh họa toàn diện, cụ thể, 
tiêu biểu về cả nội dung và nghệ thuật 
trong tính kế thừa và phát triển của văn 
hóa. Văn học thế giới được giới thiệu 
trong chương trình là các đỉnh điểm tiêu 
biểu cho văn hóa và quá trình văn học sử 
của các nước. Vì vậy, VHNN sẽ tạo nên 
một tri thức đồ sộ về lịch sử, xã hội, văn 
Ý kiến trao đổi Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 136
hóa, văn học cho SV ngành văn học nói 
chung và ngành GDTH nói riêng. 
2.4. Dạy học Văn học Việt Nam trong 
xu hướng tích hợp với Lí luận văn học 
Thực hiện nguyên tắc này cũng 
chính là quán triệt dạy học VHNN mang 
tính hệ thống, tính liên môn. Lí luận văn 
học và Mĩ học là hai bộ môn khoa học 
vận dụng phương pháp triết học để xác 
định vị trí của văn học nghệ thuật trong 
đời sống. Mục đích của hai bộ môn này 
là nhằm xác lập quan niệm đúng đắn, 
khoa học về bản chất, đặc trưng giá trị 
của văn học và nghệ thuật, hiểu được quy 
luật chung của văn học nói riêng và nghệ 
thuật nói chung; nắm được các khái niệm 
về văn học, nghệ thuật, lấy đó làm công 
cụ để nghiên cứu văn học. Cho nên, Lí 
luận văn học là chìa khóa để GV phân 
tích các giai đoạn văn học của một nền 
văn học, đồng thời cũng là đích khái quát 
về mặt lí luận văn học của Kiểu bài khái 
quát. Ở đây, chúng tôi vận dụng quan 
điểm Phản ánh luận với văn nghệ của 
Marx – Lenin để tìm hiểu sâu đặc điểm 
của từng nền văn học. Trong cuốn Hệ tư 
tưởng Đức, Marx – Engels đã xác định 
rất rõ: “Nghệ thuật là một hình thái ý 
thức xã hội, cho nên cần phải tìm nguyên 
nhân đầu tiên – tạo nên tất cả sự biến đổi 
nghệ thuật – trong tồn tại của con người, 
trong cơ sở kinh tế của xã hội” [8, tr.72]. 
Cùng quan điểm này, Lenin cho rằng: 
“Quan hệ xã hội gồm những quan hệ vật 
chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ tư 
tưởng chỉ là một kiến trúc thượng tầng 
gây dựng trên quan hệ vật chất” [8, 
tr.72]. Áp dụng vấn đề này vào dạy học 
bài Văn học Pháp thế kỉ XIX, GV lí giải 
nhận định Bước ngoặt lớn về chính trị, xã 
hội Pháp sau cách mạng 1789 như sau: 
Xã hội Pháp thế kỉ XIX là xã hội đầy 
biến động và phức tạp. Giai cấp phong 
kiến đã sụp đổ nhưng rất nhiều tham 
vọng. Giai cấp tư sản phản bội lại quyền 
lợi của nhân dân, đặt lên một chính quyền 
cai trị khác tàn bạo không kém chính 
quyền cũ, chẳng khác nào như đặt vào 
nhân dân lao động một xiềng xích mới. 
Giai cấp vô sản chưa đủ mạnh để tự giải 
phóng mình. Các tầng lớp nhân dân vỡ 
mộng trước thực tế xã hội, khẩu hiệu “tự 
do, bình đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản 
đưa ra chỉ là hình thức trống rỗng để mị 
dân. Xã hội trên là cơ sở để hình thành 
nền văn học với nhiều trào lưu khác 
nhau: văn học hiện thực và văn học lãng 
mạn. Lí luận văn học cũng là công cụ để 
phân tích tác gia văn học. Xin dẫn bài 
giảng: V. Hugo (1802 – 1855) và tiểu 
thuyết Những người khốn khổ (tiểu 
thuyết này được trích giảng ở chương 
trình tiểu học với bài tập đọc: Ga-vrốt 
ngoài chiến lũy – TV4, tập 2). Là người 
nghiên cứu văn học, GV cần vận dụng 
phương pháp nghiên cứu tác giả để hiểu 
sâu hơn các tài năng văn học – người đã 
sáng tạo nên những tác phẩm văn 
chương. Những vấn đề chính cần phải 
tìm hiểu là: Quá trình hình thành một tài 
năng văn học, các chặng đường của một 
sự nghiệp văn học, sở trường và sở đoản 
của một tác giả, những đóng góp và vị trí 
của tác giả trong một thời đại, trong một 
nền văn học Đối với V. Hugo, GV lưu 
ý đến nhận định bao quát nhất là: V. 
Hugo là cây đại thụ của văn học lãng 
mạn Pháp thế kỉ XIX, sống và sáng tác 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Thủy 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 137 
trong cả một thế kỉ đầy biến động. Ông 
trở thành hiện thân của chủ nghĩa lãng 
mạn, là tiếng vọng âm vang của thời đại. 
GV chỉ ra những nguyên nhân tạo 
nên tài năng văn học V. Hugo: 
- Về gia đình: Thuở nhỏ, ông được 
nuôi dưỡng khá chu đáo, mẹ là người rất 
sùng đạo, rất quan tâm đến con cái. Ngay 
từ bé, ông được thả vào trong một thư 
viện lớn nên sớm hình thành lòng say mê 
văn học. 
- Về bản thân: Từ nhỏ, V. Hugo đã tỏ 
ra là một thiên tài. Chateaubriand thường 
gọi ông là “cậu bé trác việt”. Mười tuổi 
đã sáng tác những câu thơ đầu tiên. Mười 
bốn tuổi đã viết một vở kịch. Mười bảy 
tuổi đạt giải “Bông huệ vàng” trong cuộc 
thi thơ ở Tuluzơ. 
- Về thời đại: Thời đại mà V. Hugo 
sống có nhiều biến động dữ dội, nhất là 
sự kiện khởi nghĩa năm 1830, nhân dân 
làm chủ Paris. Từ đấy, quan điểm sáng 
tác của ông hoàn toàn đổi mới, sự nghiệp 
sáng tác bước sang một giai đoạn quan 
trọng với nhiều tác phẩm nổi tiếng. 
GV cũng cần khắc sâu các “mốc” 
lớn trong cuộc đời, ảnh hưởng nhiều đến 
sự nghiệp văn học của V. Hugo: 
- Nỗi đau đầu tiên là bố mẹ chia tay 
nhau năm V. Hugo mười sáu tuổi. Mẹ 
yêu một người đàn ông có học thức, 
chống Napoleon và bị xử tử năm 1812. 
Tư tưởng của V. Hugo từ tấm bé chịu ảnh 
hưởng của nhiều người. Mẹ là người gần 
gũi với tư tưởng Ánh sáng, cha đẻ là 
người đầy cao thượng. Cha đỡ đầu là bố 
dượng cũng có ảnh hưởng lành mạnh đến 
V. Hugo – ông dạy cho cậu bé đọc sách 
La-tinh, truyền cho cậu bé lòng yêu tự do 
cháy bỏng. Khát vọng này in đậm trong 
nhiều tác phẩm của V. Hugo. 
- Nỗi đau thứ hai là mãi tới sau này 
với sự kiện con gái chết trôi ở sông Seine 
làm cho ông suy nghĩ nhiều và viết thành 
một tập thơ (con sông mà nhân vật Javert 
trong tiểu thuyết Những người khốn khổ 
đã tự tử). 
- Nỗi đau thứ ba là con trai đau tim 
và chết. 
- Nỗi đau thứ tư là đứa con cuối cùng 
cũng chết, ông chỉ sống với hai đứa cháu 
(cho nên, tác phẩm cuối cùng của V. 
Hugo là Ông và cháu). 
- Cuối cùng là nỗi đau mà V. Hugo 
phải chịu mười chín năm tù, bằng số tù 
của Jean Valjean – nhân vật trung tâm, 
nhân vật chính của Những người khốn 
khổ, do ông phản đối hành động chống 
cách mạng tư sản của Napoleon, còn ông 
thì ủng hộ cách mạng tư sản. 
Với mười chín năm tù đó, ông đã 
hoàn thành cuốn tiểu thuyết đồ sộ Những 
người khốn khổ. Bi kịch của V.Hugo là bi 
kịch của Jean Valjean trong mạn cuối 
cuộc đời của tác phẩm (Cosette quên Jean 
Valjean và ông đã chết vì sự lãng quên 
đó). V.Hugo đã từng viết: “Chết chả sao 
nhưng sống không nổi mới là đau khổ” là 
cắt nghĩa cho điều đó. Phương châm xử 
thế của V. Hugo là: “Tôi đã cúi mình 
xuống tận đáy xã hội mà quan sát”. Tình 
cảm của ông là dành cho những người 
dân lao động. 
Rõ ràng, sự tích hợp giữa Lí luận 
văn học và VHNN giúp chúng tôi tìm về 
cội nguồn thiên tài của nhà văn và gắn 
liền tác phẩm với ý đồ sáng tạo của tác 
Ý kiến trao đổi Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 138
giả, tạo nên một sự hiểu biết sâu, rộng về 
tác phẩm. 
2.5. Mĩ học là một bộ môn có mối quan 
hệ rất khăng khít với VHNN 
Thực ra, khung chương trình không 
cho phép SV ngành GDTH học môn Mĩ 
học như là một bộ môn độc lập. Cho nên, 
GV đã lồng ghép kiến thức Mĩ học vào 
bài giảng nhằm nâng cao khả năng cảm 
thụ văn học của SV. 
Mĩ học là khoa học nghiên cứu 
phương diện thẩm mĩ trong đời sống xã 
hội, nghiên cứu những đặc điểm và quy 
luật chung nhất của mối quan hệ thẩm mĩ 
của con người đối với hiện thực, đồng 
thời nghiên cứu những đặc điểm, những 
quy luật chung nhất của nghệ thuật – một 
hình thái biểu hiện một cách tập trung 
nhất mối quan hệ trên. Văn học chính là 
một hình thái nghệ thuật thể hiện mối 
quan hệ đó. Là đỉnh cao của mối quan hệ 
thẩm mĩ giữa con người với hiện thực, 
văn học có mối quan hệ đặc biệt với cái 
đẹp, văn học là nơi mà những quy luật 
của cái đẹp được thể hiện một cách tập 
trung và điển hình nhất.Vì vậy, khi giới 
thiệu các tác phẩm VHNN, GV cần khai 
thác phương diện thẩm mĩ - một yếu tố 
đặc trưng của văn học. Ví dụ, đối với tác 
phẩm Những người khốn khổ, GV phải 
chỉ ra những nhân vật là hiện thân của cái 
đẹp như: Jean Valjean, Fantine, 
Gavroche. Những nhân vật này còn là 
hiện thân của bi kịch. Đó là xung đột 
giữa những lí tưởng xã hội cao đẹp, 
những khát vọng chính đáng của con 
người với khả năng thực tế, với hoàn 
cảnh cụ thể không thể thực hiện lí tưởng 
và khát vọng đó. Trong cuộc chiến không 
cân bằng lực lượng và không thể thỏa 
hiệp này, lực lượng chính nghĩa phải chịu 
một kết cục bi thảm đó là cái chết. Đây là 
những bi kịch chân chính làm nên cái đẹp 
cho tác phẩm. Sự hiểu biết về các phạm 
trù mĩ học sẽ giúp GV khám phá được 
chiều sâu của tác phẩm văn học, vận 
dụng kiến thức này để hệ thống hóa bài 
giảng. Những cặp phạm trù đó được thể 
hiện qua sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu 
học mà SV dễ dàng nhận ra: cái cao cả: 
Người mẹ (TV3), Ga-vrốt ngoài chiến lũy 
(TV4), Con sẻ (TV4); cái đẹp: Chuỗi 
ngọc lam (TV5), Chim sơn ca và bông 
cúc trắng (TV2), Hai tiếng kì lạ 
(TV1); cái bi: Một vụ đắm tàu (TV5), 
Người mẹ (TV3); cái hài: Rùa và Thỏ 
(TV1), Gà Trống và Cáo (TV4) Đó 
cũng là lí do để chúng tôi tích hợp bài 
giảng ở trường đại học với sự cảm thụ 
văn học ở trường tiểu học nhằm hình 
thành cho người học kĩ năng biết kết hợp 
và huy động các kiến thức nội lực với kĩ 
năng hành nghề nhằm đáp ứng mục tiêu 
của môn học. 
2.6. Tích hợp giữa bài giảng ở trường 
đại học và cảm thụ văn học ở trường 
tiểu học 
Để tạo nên mối liên hệ bên trong 
môn học (MLH nội môn), GV có thể xâu 
chuỗi kiến thức văn học sử, kiến thức tác 
phẩm văn chương với văn bản được trích 
dẫn trong sách giáo khoa Tiếng Việt bậc 
tiểu học. Chúng tôi sơ đồ hóa mối quan 
hệ đó từ dẫn chứng về nền văn học Nga 
như sau: 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Thủy 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 139 
Thực ra với thời lượng 30 tiết, GV 
phải sử dụng quỹ thời gian một cách hợp 
lí. Sự tích hợp bài giảng ở trường đại học 
với bài dạy ở trường tiểu học là sự tích 
hợp giữa kiến thức và kĩ năng được tiến 
hành bằng cách cho SV lồng ghép thuyết 
trình tác giả với tác phẩm của tác giả đó 
được đưa vào chương trình tiểu học. Ví 
dụ: Thuyết trình các tác giả J. Grimm và 
W. Grimm với Truyện cổ Grimm và 
truyện được dạy học ở tiểu học (Cô bé 
trùm khăn đỏ - TV1, tập 2), H. Andersen 
với truyện cổ của ông (Chim sơn ca và 
bông cúc trắng – TV2, tập 2, Người mẹ – 
TV3, tập 1), E. Amicis với Những tấm 
lòng cao cả (Ai có lỗi – TV3, tập 1, Buổi 
học thể dục – TV3, tập 2, Một vụ đắm tàu 
– TV5, tập 2). Ở những tiết học này, SV 
sẽ hoạt động theo nhóm, mỗi em trình 
bày một phần trong cuộc đời và sự 
nghiệp văn học của các tác gia nổi bật. 
Đây là công đoạn có khả năng lồng ghép 
kĩ năng tin học vào môn học có hiệu quả. 
SV cũng tiến hành bình giảng và tập 
giảng những văn bản văn chương có 
trong chương trình tiểu học. Nhiều nhóm 
đã dàn dựng công phu những bài tập đọc 
ở tiểu học thành những vở kịch rồi trình 
diễn ngay tại lớp. Quả là một công việc 
đầy thú vị. Thực tế đã chứng minh rằng, 
Chuyên đề VHNN đã tạo nên mối liên hệ 
sâu sắc giữa kiến thức đại học với kiến 
thức tiểu học, giữa lí thuyết với thực 
hành, tạo điều kiện hình thành năng lực 
nghề cho người học. 
3. Kết luận 
Tóm lại, với sự hòa nhập, kết hợp 
các môn học có liên quan với nhau, tích 
hợp các phương diện kiến thức và kĩ 
năng trong Chuyên đề VHNN dành cho 
SV ngành GDTH, chúng tôi đã tạo nên 
một phương pháp dạy - học tích hợp ở 
Ý kiến trao đổi Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 140
trường đại học sư phạm. Vì vậy, chuyên 
đề này sẽ giúp SV có điều kiện để phát 
triển những kĩ năng liên môn và nội môn, 
tạo tiền đề cho việc dạy học VHNN ở 
trường tiểu học một cách vững vàng hơn. 
Trong sự chuyển đổi chương trình từ niên 
chế sang tín chỉ, đổi mới phương pháp 
dạy học, quan điểm DHTH đã và sẽ tạo 
nên một văn hóa dạy học mới, có ý nghĩa 
thực tiễn lớn lao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Văn Dương, Lê Đình Lục, Lê Hồng Vân (2009), Mĩ học đại cương, Nxb Giáo dục 
Việt Nam. 
2. Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị 
Hoàng, Nguyễn Văn Chính, Phùng Văn Tửu (1997), Văn học phương Tây, Nxb Giáo 
dục. 
3. Trần Bá Hoành (2007), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo 
khoa, Nxb Đại học Sư phạm. 
4. Nguyễn Tường Lân (chủ biên), Dương Thanh Kỳ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Trung 
Hiếu, Hoàng Mạnh Hùng, Từ Đức Trịnh (1994), Giáo trình văn học nước ngoài, (3 
tập), Nhà in báo Nghệ An. 
5. Phan Trọng Luận (2004), Phương pháp dạy học văn, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm. 
6. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành 
Thế Thái Bình (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 
7. Trần Đức Minh (1999), “Vận dụng quan điểm liên môn – một yếu tố năng cao tính 
tích cực học tập của học sinh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr.12 -13. 
8. Đỗ Thị Minh Thúy (1996), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Luận án Tiến sĩ, 
Trường Đại học KHXH &NV Hà Nội. 
9. Hoàng Thị Tuyết (2012), Lí luận dạy học tiếng Việt ở tiểu học (phần 1), Nxb Thời 
đại. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 04-01-2013; ngày phản biện đánh giá: 04-3-2013; 
ngày chấp nhận đăng: 10-4-2013) 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_day_hoc_van_hoc_nuoc_ngoai_cho_sinh_vien_nganh_giao.pdf