Đô thị di sản - Nền tảng xây dựng sản phẩm du lịch mới phát triển du lịch An Giang

Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đến năm 2020 và Việt

Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển đến năm 2030 đã được khẳng định tại

Quyết định số 201/QĐ-TTg, ngày 22-1-2013 của Chính phủ và Quyết định số 381/QĐ-

UBND về phát triển ngành du lịch tỉnh An Giang từ năm 2014 đến năm 2020, ngày 23-2-

2016 của tỉnh An Giang. Dưới góc nhìn di sản kiến trúc - đô thị, các chương trình du lịch

của tỉnh từ trước đến nay chưa đề cập rõ các giá trị thẩm mỹ của hình thái đô thị, nghệ

thuật kiến trúc và không gian cảnh quan gắn với lối sống bản địa ở An Giang. Do đó, mục

tiêu bài viết này nhằm xem xét và gợi mở tiềm năng mới trên cơ sở đô thị lịch sử của tỉnh

có tính “thuộc địa” (đô thị từng là khu vực thuộc địa Pháp) làm nền tảng khởi đầu mới

cho phát triển kinh tế “toàn cầu” giai đoạn sắp tới.

pdf 9 trang kimcuc 10060
Bạn đang xem tài liệu "Đô thị di sản - Nền tảng xây dựng sản phẩm du lịch mới phát triển du lịch An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đô thị di sản - Nền tảng xây dựng sản phẩm du lịch mới phát triển du lịch An Giang

Đô thị di sản - Nền tảng xây dựng sản phẩm du lịch mới phát triển du lịch An Giang
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk 
95 
ĐÔ THỊ DI SẢN - NỀN TẢNG XÂY DỰNG 
SẢN PHẨM DU LỊCH MỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH AN GIANG 
HERITAGE CITY - A BASE TO DEVELOP NEW TOURISM PRODUCTS 
TO PROMOTE AN GIANG’S TOURISM 
NGÔ MINH HÙNG
 và TRẦN THỊ MỸ DIỆU 
 TS. Trường Đại học Văn Lang, hungnm_vn@vanlanguni.edu.vn, Mã số: TCKH10-08-2018 
 PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, tranthimydieu@vanlanguni.edu.vn 
TÓM TẮT: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đến năm 2020 và Việt 
Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển đến năm 2030 đã được khẳng định tại 
Quyết định số 201/QĐ-TTg, ngày 22-1-2013 của Chính phủ và Quyết định số 381/QĐ-
UBND về phát triển ngành du lịch tỉnh An Giang từ năm 2014 đến năm 2020, ngày 23-2-
2016 của tỉnh An Giang. Dưới góc nhìn di sản kiến trúc - đô thị, các chương trình du lịch 
của tỉnh từ trước đến nay chưa đề cập rõ các giá trị thẩm mỹ của hình thái đô thị, nghệ 
thuật kiến trúc và không gian cảnh quan gắn với lối sống bản địa ở An Giang. Do đó, mục 
tiêu bài viết này nhằm xem xét và gợi mở tiềm năng mới trên cơ sở đô thị lịch sử của tỉnh 
có tính “thuộc địa” (đô thị từng là khu vực thuộc địa Pháp) làm nền tảng khởi đầu mới 
cho phát triển kinh tế “toàn cầu” giai đoạn sắp tới. 
Từ khóa: di sản, thuộc địa, toàn cầu, sản phẩm du lịch. 
ABSTRACTS: The target of developing tourism into a spearhead economic sector by 
2020, and Vietnam to become a country with a developed tourism industry by 2030, has 
been affirmed in Decision No. 201/QD-TTg dated January 22, 2013, and Decision No. 
381/QD-UBND dated February 23, 2016 on developing tourism in An Giang province 
from 2014 to 2020. From the perspective of architectural-urban heritage, previous tourism 
programs of the province have not clearly mentioned the aesthetic values of urban form, 
architectural art and landscape associated with local lifestyle in An Giang. Therefore, this 
article aims to study and point out new potentials on the basis of the "colonial" historic 
city (a formerly French colonial city) as the new starting point for the “globalized” 
economic development in the coming period. 
Key words: heritage, colonial, global, tourism product. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
An Giang có vị trí “trung tâm” (theo 
quan điểm không gian vùng của tác giả) 
giữa các điểm đô thị tầm cỡ quốc tế ở phía 
Tây - Nam Bộ. Các điểm đô thị kể đến 
gồm: Thành phố Hồ Chí Minh (phía Đông), 
thành phố Cần Thơ, sông Hậu thông 
thương cửa biển Định An và Trần Đề (phía 
Đông Nam), thành phố Cà Mau, cửa biển 
kết nối khu vực Đông Nam Á (phía Nam), 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
96 
đảo Phú Quốc, vịnh Thái Lan (phía Tây), 
thành phố Phnôm Pênh (phía Bắc). Đây là 
tỉnh có nhiều đặc trưng riêng mang dấu ấn 
của nền văn hóa đa sắc thái - dân tộc trong 
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. 
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thủy 
[7] cho thấy, An Giang từ thế kỷ I đến 
thế kỷ VII là một điểm quần cư quan 
trọng ở miền Tây sông Hậu. Khởi đầu, 
nơi đây mạnh về kinh tế với thương 
cảng Óc Eo - lớn nhất Đông Nam Á thời 
đó. Nơi đây cũng từng diễn ra cuộc chiến 
dài giữa Campuchia và Chămpa (giai đoạn 
1113-1220) trên sông Tiền, sông Hậu. Qua 
đó cho thấy, An Giang trở thành đầu mối 
giao thông thương mại chiến lược; đồng 
thời, là trung tâm tiếp nhận văn hóa 
nước ngoài và Ấn Độ. Khi đó, An Giang 
là một khu đô thị sầm uất có lớp văn hóa cổ 
Óc Eo- Ba Thê (Vọng Thê - Thoại Sơn), đá 
Nổi (Phú Hòa cách thị xã Long Xuyên 
khoảng 7 km), Định Mỹ (núi Sập), Tráp Đá 
(núi Chóc), Lỗ Mô (Châu Phú), Núi Sam, 
Phum Quao, Trà Cột (Tịnh Biên) và Đam 
Pô (Tri Tôn). 
Trong thế kỷ VIII, người Khơme đã 
đến An Giang cư trú rải rác trên những 
vùng đất (giồng) cao ven sông thuận lợi 
cho kinh tế nông nghiệp. Tiếp đến đầu thế 
kỷ XVIII, cư dân Việt (chủ yếu binh lính 
theo Nguyễn Hữu Cảnh, người khai phá 
đầu tiên vùng đất An Giang) đã có mặt từ 
Chợ Mới đến Cái Hố. 
Hình 1. Bản đồ Đông Dương và An Giang năm 1872 
Nguồn: www.bandovietnamtreotuong.com (tháng 6-2018) 
Cho đến năm 2015, tỉnh An Giang 
đang trên đà phát triển mọi mặt và đã có 2 
thành phố Châu Đốc và Long Xuyên được 
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công 
nhận là đô thị loại II. Đến năm 2017, thành 
phố Long Xuyên đang trên hành trình trở 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk 
97 
thành đô thị loại I [12] thuộc tỉnh, tập trung 
phát triển mạng lưới các điểm, tuyến du 
lịch sinh thái, sản xuất công nghiệp-tiểu thủ 
công nghiệp. Về hạ tầng kỹ thuật, thành 
phố ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống thoát 
nước và xử lý nước thải Long Xuyên, triển 
khai các đề án nâng cấp giao thông và các 
dự án trọng điểm khác (hạ tầng khu Tây 
Sông Hậu, khu hành chính thành phố, cụm 
dân cư Tây Khánh 3 mở rộng, khu hành 
chính Mỹ Hòa Hưng, khu văn hóa và thể 
thao tỉnh An Giang. Ở vùng biên giới Tây 
Nam, thành phố Châu Đốc nằm trong vùng 
nhiều tiềm năng gắn liền với cửa khẩu Tịnh 
Biên, Vĩnh Xương và cửa khẩu quốc gia 
Khánh Bình. Dân số thành phố trên 159 
nghìn người, tỷ lệ đô thị hóa lên tới 92,55% 
(năm 2014) [13]. Đến nay, Châu Đốc được 
xem là một thành phố đồng bằng đặc biệt 
có sông, núi với cảnh quan tự nhiên hấp 
dẫn, nhiều di tích lịch sử-văn hóa được xếp 
hạng cấp Quốc gia và tỉnh; đồng thời, được 
xác định là thành phố du lịch tâm linh đặc 
sắc tại khu vực ngã ba sông Tiền-sông Hậu 
[14]. Thành phố gồm 5 phường: Châu Phú 
A, Châu Phú B, núi Sam, Vĩnh Mỹ, Vĩnh 
Ngươn, và 2 xã Vĩnh Tế, Vĩnh Châu gắn và 
trải dài dọc các nhánh sông. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Những giá trị “tiền - đô thị” và “hậu 
- thuộc địa” tiềm ẩn 
Ở giai đoạn “tiền - đô thị” (qua nghiên 
cứu của tác giả, khái niệm này chỉ đặc điểm 
một khu vực trong giai đoạn trước khi nơi 
đó chính thức được công nhận là đô thị), di 
tích Óc Eo cho thấy hình ảnh một quần thể 
cổ với nhiều di chỉ cư trú, sản xuất đạt đến 
trình độ cao về kiến trúc và kỹ thuật xây 
dựng. Khu vực Óc Eo là một trong những 
trung tâm hành chính, tôn giáo và xung 
quanh là quần thể các khu dân cư rộng với 
nhà sàn và mạng lưới kênh đào thủy nông 
(trên 200 km) và cảng chính Óc Eo nằm 
sâu trong đất liền (cách biển gần 5km). 
Ngoài ra, các tiền cảng như: Trăm Phố, 
Ông Ngọc, Cần Giờ đều có mối quan hệ 
với trung tâm giao thương Óc Eo bằng 
những con sông và kênh đào. Hệ thống 
cảng này gắn với đường thủy nối liền các 
con sông lớn và đổ ra biển cho thấy cảng 
rất phát triển hoạt động buôn bán với nhiều 
nước trong khu vực và trên thế giới [7]. 
Ở lối tụ cư, người Việt, Hoa, Khơme, 
Chăm đã sử dụng đường thủy, đường bộ di 
chuyển đến Châu Đốc - núi Sam, buôn bán 
tại những đầu mối giao thông thuận lợi. Đó 
là, chợ ở Châu Đốc được hình thành khiến 
cho bộ mặt vùng Châu Đốc thay đổi trở 
thành trung tâm kinh tế của cả vùng. Trong 
khi đó, người Hoa ngày càng đông đảo ở 
Tân Châu, Châu Đốc và Châu Phú. Rồi 
năm 1840, khâm sai Lê Văn Đức từ trấn 
Tây Thành rút về Châu Đốc cùng một số 
người Chăm về cư trú và định cư dọc theo 
sông Hậu nhờ chính sách “tận dân vi binh” 
của vua Thiệu Trị [7]. Những năm 40, thế 
kỷ XIX dân cư ở các tỉnh miền Trung tìm 
tới vùng Năng Gù (do chính sách cấm đạo 
của nhà Nguyễn) để lập làng Năng Gù. 
Theo đặc điểm làng xóm, người Việt, 
Hoa ở An Giang sống tập trung, xen kẽ 
trong các làng. Làng không lũy tre, nhà 
không rào. Trong mỗi làng đều có một ngôi 
đình làm nơi sinh hoạt của làng. Người Hoa 
sống trong làng cùng những người chung 
hoàn cảnh, gốc gác, ngôn ngữ, ngành nghề 
và tuân thủ những quy ước của làng. Họ 
cũng tiến hành xây dựng miếu ông Bổn và 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
98 
miếu bà Thiên Hậu ở mỗi làng. Người 
Chăm cất nhà sàn ở dọc theo bờ sông, bờ 
kênh và không ở dạng quây quần mà tổ 
chức nhà thành từng dãy và lối đi ở giữa. 
Người Khơme sống tập trung trong các 
phum và chùa Khơme trở thành trung tâm 
tôn giáo, văn hóa, xã hội, nơi bảo lưu và 
truyền kế di sản văn hóa. 
Đối với công trình nhà ở, nhà sàn được 
người Khơme, Chăm, Việt, Hoa sử dụng để 
ở phía trên; chăn nuôi, kho vật liệu bên 
dưới, thích hợp với mùa nước nổi. Người 
Khơme cất nhà nơi cao ráo, đất giồng ven 
núi hoặc ven các đường mòn. Trong khi đó, 
người Việt, Hoa, Chăm cất nhà theo các 
kênh, rạch, bờ sông và ưu tiên mặt tiền 
quay ra mặt sông. Nên, dân cư thường tập 
trung đông tại những nơi giáp mặt nước, 
ngã ba (tư) sông, để rồi hình thành nên 
điểm quần cư, trao đổi mua bán “trên bến 
dưới thuyền”. Chính vì lối tụ cư, phong tục 
tập quán của cư dân bản địa mà hầu như 
các điểm dân cư xưa phát triển tự do theo 
kiểu “làng xóm nông nghiệp”, “buôn bán 
gắn với sông nước” (dưới góc nhìn phát 
triển đô thị). 
Toàn quyền Đông Dương Albert 
Sarraut áp đặt tư tưởng cai trị và khai thác 
thuộc địa ứng với hoàn cảnh thực tế [3]. 
Khu vực phía Tây - Nam Kỳ, người Pháp 
đã mở rộng lãnh thổ với chế độ bảo hộ sang 
phần đất Campuchia (1863) và định ra khu 
vực thuộc địa của Pháp giữa Việt, Xiêm và 
Trung Quốc qua hiệp ước năm 1884. Như 
vậy, không gian “thuộc địa mới” được mở 
rộng và không còn đơn thuần “Việt Nam” 
nữa. Kế tiếp, người Pháp đã khép kín để 
xây dựng vùng thuộc địa riêng này. Bước 
đầu, quy hoạch đô thị được thực hiện bằng 
lối tư duy “công binh”, “kiểu ô cờ” được áp 
dụng nhiều thành phố lớn nhỏ từ Nam ra 
Bắc. Đây dường như trở thành hình mẫu đô 
thị hiện đại tại thời điểm đó dưới sự thống 
trị của Pháp tại Nam Kỳ nói chung và An 
Giang nói riêng. 
Song song, họ đầu tư xây dựng hệ 
thống hạ tầng, trường học và trụ sở để phục 
vụ cho quản lý và phát triển thuộc địa. Việc 
giới thiệu hệ thống và phương tiện giao 
thông mới (ô tô, tàu hỏa, tàu thủy hơi nước) 
đã liên kết Nam Kỳ với Campuchia hình 
thành không gian thương mại và đô thị mới 
có tính chất liên vùng quốc tế. Từ đó, xu 
thế di cư “Nam tiến” của người Việt dần 
chuyển sang “Tây tiến” phục vụ cho sự 
phát triển kinh tế chính trị Đông Dương [3]. 
Và Châu Đốc, Long Xuyên trở nên quan 
trọng hơn trong trục không gian kết nối 
Đông - Tây và Nam Kỳ. Hai điểm đô thị 
trên một dòng sông đã dần phát triển theo 
hình thức thành phố phương Tây hiện đại 
tại thời kỳ đó. Lối tổ chức “ô cờ” kết nối 
sông Châu Đốc với trục giao thông chính 
(đường Thủ Khoa Nghĩa ngày nay) cho 
thấy sự kế thừa lối sinh hoạt và giao thương 
“trên bến dưới thuyền” của người Việt và 
Hoa (hình 2). Đi cùng với hình thái đô thị 
đặc trưng đó là hệ thống các ô phố khá rõ 
cùng các công trình kiến trúc tiêu biểu. 
Trước kia, Châu Đốc từng được ví 
trung tâm của một vùng rộng lớn [1]. Rồi 
Châu Đốc được người Pháp dùng làm nơi 
trông giữ một vùng bao trùm Long Xuyên 
(Long Xuyên và Sa Đéc ngày nay). Người 
Pháp đã cho xây dựng nhiều công trình trụ 
sở, nhà ở phục vụ dân sinh (chợ, trường 
học,) mang đặc điểm kiến trúc Pháp, 
Pháp - Việt phục vụ bộ máy cai trị và công 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk 
99 
chức chính quyền tại Châu Đốc và Long 
Xuyên. Ngoài chợ Châu Đốc (xây năm 
1876) còn có đình Thần Châu Phú, Thoại 
Ngọc Hậu, nhà các quan chức và người 
dân. Ngôi biệt phủ xứ Trương Tấn Dĩ, xây 
năm 1921, còn gìn giữ kiểu dáng ban đầu, 
trang trí kiểu Pháp cho đến ngày nay. 
Qua các giai đoạn thăng trầm của vùng 
đất Nam Bộ và „hậu - thuộc địa‟ (dưới góc 
nhìn về kiến trúc để chỉ thời kỳ phát triển 
sau khi một vùng lãnh thổ không còn chịu 
sự cai trị trực tiếp về chính trị của Pháp 
nữa), cấu trúc Long Xuyên xưa đã thay đổi 
khá nhiều và có phần hiện đại cho một 
thành phố trẻ và năng động. Tuy nhiên về 
lịch sử đô thị, Long Xuyên dường như xuất 
phát từ cồn đất cao rộng, bao quanh bởi 
sông Hậu, rạch Rạch Giá - Long Xuyên, 
cầu Quay. Về mặt hình thái đô thị, bản đồ 
năm 1920 (hình 3) đã chỉ ra cấu trúc đô thị 
ở đây được hoạch định theo mạng lưới “ô 
cờ” và trải dọc bên bờ sông Hậu [11]. 
Hình 2. Châu Đốc năm 1890 
Nguồn: commons.wikimedia.org (tháng 6/2018) 
Hình 3. Long Xuyên năm 1920 
Nguồn: sites.google.com (tháng 6/2018) 
Có thể thấy một số công trình còn tồn 
tại đến nay đã phản ánh hình ảnh đô thị 
thuộc địa ở Châu Đốc và Long Xuyên. Đầu 
tiên, phong cách kiến trúc Pháp (cổ điển, 
tân cổ điển, romance, modernism, art 
noveau, art deco) (hình 4) như: nhà thờ 
Năng Gù, dinh Tham biện Châu Đốc, nhà 
thờ Cù lao Giêng, dinh Tham biện Long 
Xuyên, cầu Hoàng Diệu, cầu Quay, trường 
Tiểu học Pháp - Việt, nhà Thờ Cái Đôi. 
Tiếp đến, kiến trúc giao thoa (Pháp - Việt) 
và Đông Dương gồm: biệt thự tại Châu 
Đốc, bệnh viện Long Xuyên, rạp chiếu 
bóng Nam Xương, trường Trung học Long 
Xuyên, đình Thần Bình Long, đình Thần 
Bình Mỹ, đình Châu Phú, miếu Bà Chúa 
Xứ - Núi Sam, thánh đường Hồi giáo 
Chăm, lăng Thoại Ngọc Hầu và hồ Ông 
Thoại [9]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
100 
Hình 4. Một số hình ảnh đô thị thuộc địa Châu Đốc và Long Xuyên xưa 
Nguồn: banxuabannay.blogspot.com (tháng 6/2018) 
2.2. Đô thị “thuộc địa” di sản vươn tầm 
“toàn cầu” 
Nhìn ra khu vực, một số nơi chốn có 
chung đặc điểm từng là thuộc địa, quy mô 
vừa và nhỏ, đa dạng văn hóa Đông - Tây 
so với Châu Đốc và Long Xuyên, đó là 
trung tâm đô thị Thượng Hải và Hong 
Kong (Trung Quốc), Malacca (Malaysia) 
và Singapore. Cho đến nay, những nơi 
này đã trở thành tâm điểm trong mạng 
lưới “thành phố toàn cầu” trên thế giới 
sau khi đã chuyển đổi thành công từ các 
“đô thị thuộc địa”. 
Thượng Hải, đã từng là thuộc địa của 
Anh, với khu Tô giới Pháp là một thí dụ thú 
vị khi nó hầu như cắt đứt phần lớn giao tiếp 
với thế giới sau năm 1949. Thành phố với 
phong cách kiến trúc và không gian Anh, 
Pháp và Châu Âu khác biệt và cổ kính đã tự 
mình đứng lên sau khi bị sụp đổ (kết thúc 
thời kỳ thuộc địa và tồn tại 200 năm). Quá 
trình gây dựng lại hình ảnh vốn có của 
thành phố thuộc địa diễn ra ngay sau khi 
cải cách kinh tế mở cửa vào năm 1978 và 
vai trò của Thượng Hải định vị lại nhằm 
cạnh tranh với các nơi khác (như Thâm 
Quyến). Khu Tô giới Pháp - “một Châu Âu 
thu nhỏ” hiện là một điểm đến đáng tự hào 
của Trung Quốc, với diện mạo mới, tầm 
vóc sánh ngang với nhiều quốc gia phát 
triển, thu hút lượng khách du lịch bậc nhất 
tới tham quan; đồng thời, là khu vực được 
người nước ngoài chọn lựa để sinh sống và 
làm việc. 
Đối với Hong Kong: “mạng công nghệ 
thông tin và truyền thông” (ICT) dường 
Châu Đốc 1937 
Chợ Long Xuyên 
Phố Long Xuyên 
Châu Đốc- L‟Hotel de Inspection 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk 
101 
như đã không thể thay thế “mạng xã hội” 
[6]. Mạng xã hội nơi đây là nền tảng cho 
phát triển kinh tế bền vững trên cơ sở các 
chuẩn mực quốc tế (về luật kinh doanh, 
thương mại, du lịch). Yếu tố này được thiết 
lập bởi người Anh nhằm đáp ứng quản lý 
khu vực thành thị và từ đó phát huy trở 
thành điểm nổi trội khác biệt. Kế đến, đội 
ngũ quản lý được đào tạo tại các trường 
danh tiếng ở Anh với tư tưởng và sự tập 
trung cao, Hong Kong nơi chứa các thành 
phần đô thị lịch sử, đã trở thành trung tâm 
cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp cho 
mọi hoạt động thương mại. Chính vì điều 
này mà Hong Kong từ một làng chài nhỏ 
[2] đã vươn lên thành phố toàn cầu ngày 
nay [10]. 
Thành phố Malacca (di sản văn hóa thế 
giới được công nhận từ năm 2008) được 
mệnh danh là một Venice của Châu Á [8] 
còn lưu giữ nhiều nét lịch sử lâu đời, đa sắc 
màu văn hóa phương Tây. Quy mô thành 
phố tương đương với đô thị cổ Hội An 
(Việt Nam). Nơi đây từng làng chài nhỏ lâu 
đời (từ năm 1403) nằm ở đầu mối giao 
thông quan trọng bậc nhất Đông Nam Á, 
thuộc eo biển Malacca, đã nhanh chóng thu 
hút thương lái người Hoa (thế kỷ XV) sớm 
định cư quanh trung tâm. Từ thế kỷ XVI 
đến thế kỷ XIX, hình ảnh đô thị chính đã 
được tạo dựng bởi người Bồ Đào Nha (130 
năm), sau đó người Hà Lan (154 năm). 
Thời kỳ này, tòa nhà chính quyền thuộc địa 
được xây ở khu đồi St. Paul, trung tâm 
chính nằm dải bờ sông và được chia thành 
các ô phố thương mại. Sau này, thay bằng 
việc chia cắt trung tâm thành các ô phố nhỏ 
và nhóm văn hóa tách biệt, nơi đây đã hình 
thành các không gian phố đi bộ đan xen 
gắn kết xã hội, thúc đẩy hoạt động thương 
mại và du lịch hấp dẫn. 
Gần đây nhất, Singapore, thuộc địa của 
Anh từ năm 1819 đến năm 1942, xác định 
các “sản phẩm không gian di sản” phản ánh 
những ý thức của các thế hệ lãnh đạo và 
văn hóa nổi trội. Sản phẩm di sản này được 
phát huy một cách lô-gíc trên nền văn hóa 
chủ nghĩa tư bản kế thừa từ thời kỳ thuộc 
địa. Vì thế, đô thị di sản gắn chặt với nhận 
thực về kinh tế thị trường và phát huy giá 
trị gia tăng từ góc nhìn về quá khứ. Năm 
1990, quốc đảo này đã tích cực thúc đẩy di 
sản như một “sản phẩm du lịch” bằng việc 
(tái) tạo lại trung tâm đô thị lịch sử ngay tại 
khu vực giao thoa đa văn hóa dân tộc nổi 
bật như: Chinatown, Kampong Glam, Little 
India và xung quanh các công trình thuộc 
địa Anh trước kia [4], [6]. Kết quả, trung 
tâm Singapore nay đã trở thành không gian 
có đặc điểm riêng gắn với chức năng 
thương mại, đã và đang là điểm thu hút du 
lịch rất lớn. Điều này được xác định rõ 
trong chiến lược thành phố toàn cầu của 
Singapore. 
Từ những ví dụ trên cho thấy, Hiến 
chương về Bảo tồn đô thị lịch sử và khu 
vực đô thị (Washington Charter 1987) của 
ICOMOS (Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc 
tế, hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ các di 
sản văn hóa cùng với UNESCO) đã được 
các quốc gia vận dụng linh hoạt mà tỉnh An 
Giang và 2 thành phố có thể học hỏi cho 
định hướng phát triển địa phương. Một số 
nguyên tắc đó là: 
Bảo tồn đô thị lịch sử và các khu vực 
đô thị lịch sử khác cần trở thành một phần 
lồng ghép vào các chính sách phát triển 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
102 
kinh tế, xã hội trong quy hoạch vùng và đô 
thị tại các cấp độ; 
Chất lượng bảo tồn, bao gồm: đặc 
điểm lịch sử của đô thị hay khu vực đô thị 
và các loại vật liệu, thành phần tâm linh, 
đặc biệt về hình thái đô thị, mối tương quan 
giữa công trình, không gian xanh mở và các 
thành phần đô thị xung quanh. 
Mặt ngoài, nội ngoại thất của công trình; 
Sự tham gia của cộng đồng vào 
chương trình bảo tồn và tiếp cận đa chiều. 
3. KẾT LUẬN 
Xét về lịch sử hình thành, vùng đất An 
Giang hàm chứa những chuỗi giá trị văn 
hóa - lịch sử (phi vật thể) cùng không gian, 
công trình kiến trúc, cảnh quan (vật thể) 
đều có mối liên kết chặt trẽ phản ánh các 
giai đoạn thịnh vượng mà lĩnh vực du lịch 
chưa khai phá và bỏ ngỏ. Trong xu thế toàn 
cầu hóa, phát triển du lịch địa phương đòi 
hỏi “tầm nhìn chiến lược” xa hơn (hay) 
mang tính toàn cầu qua việc định vị lại 
“ngành công nghiệp không khói” để nâng 
tầm các điểm hấp dẫn du khách trong bối 
cảnh đô thị lịch sử có tính “thuộc địa” sớm 
đóng vai trò và tầm ảnh hưởng “toàn cầu” 
trên cơ sở khám phá mới và phát huy hệ 
thống giá trị ẩn sâu trong các nơi chốn, 
công trình kiến trúc, cảnh quan, cấu trúc và 
thành phần di sản của hai thành phố Châu 
Đốc và Long Xuyên. 
Ngoài ra, chính quyền địa phương và 
các cấp có liên quan cần phải có kế hoạch 
đầu tư, quy hoạch và quảng bá để đô thị di 
sản An Giang trở thành sản phẩm du lịch 
mới, độc đáo nhằm thu hút khách du lịch 
trong, ngoài nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] ATV (2012), An Giang Đất và Người, www.youtube.com. 
[2] Chui Hau Man và Tsoi Tan Mei (2003), Heritage Preservation: Hong Kong & 
Overseas Experience, The conservation Association, Hong Kong. 
[3] Chistopher E. Goscha (2012), Going Indochinese, Contesting Concepts of Space and 
Place in French Indochina, Nias Press, Denmark. 
[4] Daniel P.S. Goh (2014), Between History and Heritage: Post-Colonialism, Globalisation, 
and the Remaking of Malacca, Penang, and Singapore, Vol 2, Spacial Issue 1: Heritage, 
History, and Historical Processes, Cambridge University Press, United Kingdom. 
[5] Dương Thế Hiền (2014), Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính 
quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kỳ 1757-1867, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học 
Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 
[6] Gregory Bracken (2015), Asian Cities: Colonial to Global, Amsterdam University Press. 
[7] Nguyễn Ngọc Thủy (2004), Vùng đất An Giang thời kỳ 1757-1867, Luận văn Thạc sỹ, 
Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
[8] Nguyễn Hồng (2016), Thành phố Malacca, thegioidisan.vn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk 
103 
[9] Võ Văn Thắng và Nguyễn Thị Ngọc Thơ (2017), Dấu ấn văn hóa Pháp trong kiến trúc 
ở An Giang cuối thế kỷ XIX-nửa đầu thế kỷ XX, Tạp chí Khoa học trường Đại học An 
Giang, Vol 13 (1). ISSN 0866-8086. Việt Nam. 
[10] World Cities Culture Forum (2018), Hong Kong, Perspectives on the City, 
www.worldcitiescultureforum.com. 
[11] Ngô Minh Hùng (2014), Bảo tồn môi trường Di sản, Nxb Đại học Quốc gia Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
[12] Gia Khánh (2017), Long Xuyên với hành trình trở thành đô thị loại I, Báo An Giang 
Online, baoangiang.com.vn, ngày 25/01/2017. 
[13] Hoàng Diên (2015), Công nhận thành phố Châu Đốc là đô thị loại II, Báo Chính phủ 
Online, baochinhphu.vn, ngày 16/04/2015. 
[14] Minh Thư (2018), Châu Đốc-Thành phố du lịch tâm linh đặc sắc, Báo An Giang 
Online, baoangiang.com.vn, ngày 30/04/2018. 
Ngày nhận bài: 13-6-2018. Ngày biên tập xong: 03-7-2018. Duyệt đăng: 23-7-2018 

File đính kèm:

  • pdfdo_thi_di_san_nen_tang_xay_dung_san_pham_du_lich_moi_phat_tr.pdf