Di tích và danh thắng huyện Ba Vì thành phố Hà Nội với phát triển du lịch hiện nay
Ba Vì - cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội là một huyện có nhiều di tích lịch sử và danh thắng.
Di tích ở Ba Vì không chỉ có số lượng nhiều, đa dạng về loại hình mà còn có giá trị văn hóa, thẩm mỹ
cao như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, quần thể di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh (đền Thượng, đền
Trung, đền Hạ), khu di tích lịch sử Đá Chông, Bên cạnh đó, đây còn là nơi có nhiều thắng cảnh đẹp
với các loại hình phong phú như vườn quốc gia Ba Vì, hồ Suối Hai, thác Đa, Tuy nhiên trên thực tế,
nguồn tài nguyên đó chưa được khai thác hiệu quả. Chính vì vậy, nếu công tác quản lý nhà nước được
tăng cường và ý thức cộng đồng được nâng cao, Ba Vì sẽ phát triển và trở thành điểm du lịch hấp dẫn
trên cơ sở nguồn tài nguyên du lịch vốn có.
Bạn đang xem tài liệu "Di tích và danh thắng huyện Ba Vì thành phố Hà Nội với phát triển du lịch hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Di tích và danh thắng huyện Ba Vì thành phố Hà Nội với phát triển du lịch hiện nay
B DI TÍCH VÀ DANH THẮNG HUYỆN BA VÌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH HIỆN NAY NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG Tóm tắt Ba Vì - cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội là một huyện có nhiều di tích lịch sử và danh thắng. Di tích ở Ba Vì không chỉ có số lượng nhiều, đa dạng về loại hình mà còn có giá trị văn hóa, thẩm mỹ cao như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, quần thể di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh (đền Thượng, đền Trung, đền Hạ), khu di tích lịch sử Đá Chông, Bên cạnh đó, đây còn là nơi có nhiều thắng cảnh đẹp với các loại hình phong phú như vườn quốc gia Ba Vì, hồ Suối Hai, thác Đa,Tuy nhiên trên thực tế, nguồn tài nguyên đó chưa được khai thác hiệu quả. Chính vì vậy, nếu công tác quản lý nhà nước được tăng cường và ý thức cộng đồng được nâng cao, Ba Vì sẽ phát triển và trở thành điểm du lịch hấp dẫn trên cơ sở nguồn tài nguyên du lịch vốn có. Từ khóa: Di tích, danh thắng, phát triển du lịch, Ba Vì Abstract Ba Vi, the gateway to the North West area of Hanoi, is a district that has many historical relics and beauty spots. The historic sites in Ba Vi are not only great in quantity, diversified in type but also have highly cultural and aesthetic value, such as the Tay Dang and Chu Quyen Communal Houses, temples that worship Tan Vien Son Thanh (Thuong, Trung, Ha Temples), Da Chong historic site, etc.,. Ba Vi also has many beauty spots with diversified forms, such as Ba Vi National Park, Suoi Hai lake and Da waterfall. However, in fact, these resources haven’t been exploited effectively. Therefore, if the management of the State must be intensified and the community’s awareness must be increased Ba Vi will develop and become an attractive destination based on the existing tourist resources. Keywords: Relic, tourist attraction, tourist development, Ba vi 1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nhân văn huyện Ba Vì a Vì nằm ở phía Tây Bắc Thành phố Hà Nội, bên hữu ngạn sông Đà và sông Hồng. Phía Đông giáp thị xã Sơn Tây; phía Nam giáp huyện Thạch Thất và tỉnh Hòa Bình; phía Tây, bên kia sông Đà giáp các huyện: Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Thủy (tỉnh Phú Thọ); phía Bắc, qua con sông Hồng giáp huyện Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phúc) và thành phố Việt Trì (tỉnh Phú Thọ). Huyện có diện tích tự nhiên 424km2, dân số 27 vạn người, trong đó dân tộc Mường có 22.826 người, dân tộc Dao có 1.906 người, các dân tộc thiểu số khác có 241 người, còn lại là người Kinh (tính đến năm 2012). Ba Vì trong lịch sử có nhiều lần biến đổi cơ cấu hành chính: khi thuộc tỉnh Sơn Tây, khi thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, khi thuộc tỉnh Hà Tây. Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH 12 ngày 29/5/2008 của quốc hội“Về việc điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan”, ngày 01/8/2008, tỉnh Hà Tây sáp nhập với Thành phố Hà Nội, Ba Vì thuộc Thành phố Hà Nội. Năm 2012, huyện Ba Vì ổn định địa giới hành chính với 30 xã, 01 thị trấn. Huyện Ba Vì thuộc vùng bán sơn địa, có địa hình thấp dần từ phía Tây Nam sang phía Đông Bắc, chia thành ba tiểu vùng khác nhau: vùng núi, vùng đồi gò, vùng đồng bằng. Vùng núi chiếm 46,5% diện tích toàn huyện, gồm toàn bộ vườn quốc gia Ba Vì và 7 xã miền núi. Vùng đồi gò chiếm 34,7% diện tích toàn huyện. Địa hình của vùng này thấp dần từ độ cao 100m trở xuống khoảng 20m theo hướng Tây bắc, chủ yếu là đồi gò xen lẫn ruộng cao. Vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng, chiếm 18,5% diện tích toàn huyện. Huyện Ba Vì mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10 với nhiệt độ trung bình 230C, tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ cao nhất là 28,60C. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 với nhiệt độ xấp xỉ 200C, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 15,80C. Ba Vì có hệ sinh thái và tài nguyên thủy văn phong phú. Ba Vì có hệ thống đường thủy, đường bộ đa dạng, thuận lợi, nối liền các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc với toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Từ trung tâm Hà Nội theo quốc lộ 32 đi Sơn Tây lên Ba Vì có các tuyến giao thông chính, trong khoảng thời gian hơn 1 giờ đi xe ô tô có thể đến các điểm du lịch ở Ba Vì. Từ Hà Đông đi Sơn Tây, theo tỉnh lộ 88 qua các điểm du lịch: Suối Hai, vườn cò Ngọc Nhị, Đầm Long về quê hương Tản Đà, sang đền Hùng. Từ Hà Nội đi Trung Hà dọc theo quốc lộ 32 đi qua các di tích lịch sử: chùa Mía, đình Quang Húc, đình Chu Quyến, đình Tây Đằng Tuyến Hà Nội đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc lên Khoang Xanh, Suối Mơ, Hóc Cua, vườn quốc gia Ba Vì. Ngoài ra, còn có các tuyến đường thủy: sông Hồng, sông Đà, sông Tích thuận lợi cho khách đến thăm quan các điểm du lịch. Ba Vì có truyền thống văn hóa lâu đời độc đáo mang đặc trưng các dân tộc Kinh, Mường, Dao và một số dân tộc khác. Nét đẹp của mỗi dân tộc thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau: trang phục, ẩm thực, phong tục tín ngưỡng, các hình thức diễn xướng, các trò chơi dân gian Là vùng đất cổ nằm trong nôi văn minh châu thổ sông Hồng thuộc đất Văn Lang của các vua Hùng buổi đầu dựng nước, Ba Vì có điều kiện tự nhiên và văn hóa đặc biệt vì vậy đây là một trong những huyện có tiềm năng du lịch rất phong phú của Hà Nội. 2. Di tích và danh thắng huyện Ba Vì Ba Vì thuộc vùng xứ Đoài, một trong những địa bàn sinh tụ của tổ tiên ta xưa, là quê hương của truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, bản hùng ca về cuộc đấu tranh chống lại thiên tai của cha ông ta. Các di tích ở Ba Vì không chỉ nhiều về số lượng, đa dạng về loại hình mà còn tiêu biểu cho các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ. Về số lượng, theo văn bản báo cáo kết quả thực hiện công tác quản lý di tích trên địa bàn huyện do Phòng VH&TT tổng hợp tháng 12/2016, huyện Ba Vì hiện có 450 di tích, gồm: 08 di tích lịch sử, văn hóa (05 di tích cách mạng, 03 di tích lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh), 442 di tích kiến trúc- nghệ thuật. Trong đó có: 102 Đình, 48 Đền, 105 Chùa, 57 Miếu, 96 Nhà thờ họ, 04 Điếm, 05 Quán, 07 Giếng cổ, 06 Khu di tích lưu niệm + Nhà Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, 01 cây lưu niệm, 04 lăng, 03 văn chỉ, 09 cổng làng, 02 từ chỉ từ đường, 01 mộ, 01 địa điểm chiến thắng. Tổng số di tích đã được xếp hạng là 91, trong đó 01 di tích xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt, 40 di tích xếp hạng cấp quốc gia và 50 di tích xếp hạng cấp thành phố. Các di tích ở Ba Vì đa dạng về loại hình trong đó có loại hình di chỉ khảo cổ học, loại hình di tích lịch sử, loại hình di tích kiến trúc - nghệ thuật, loại hình danh lam thắng cảnh, trong từng loại hình đều có các di tích nổi tiếng có giá trị tiêu biểu. Các di chỉ khảo cổ học như địa điểm khảo cổ học Đồng Chỗ (thôn Phong Châu - xã Phú Phương) có vị trí trung gian giữa di chỉ Gò Bông và di chỉ Phùng Nguyên, di chỉ khảo cổ học Gò Hện (thôn Nhuận Tuấn - xã Vạn Thắng) là di chỉ được xếp vào giai đoạn sơ kỳ thời đại đồng thau. Với bề dày lịch sử, văn hóa, Ba Vì là nơi có nhiều di tích cách mạng, kháng chiến và di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị đặc biệt như: làng kháng chiến Vật Lại, cây đa Bác Hồ (đây là cây đa được Chủ tịch Hồ Chí Minh trồng trên đồi Đồng Váng (xã Vật Lại) là kỷ vật cuối cùng trên đất Hà Tây của Hồ Chủ tịch trước lúc đi xa), Khu di tích lịch sử đồi Đá Chông K9 (xã Minh Quang), nơi có địa hình hiểm trở, phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ đã từng được chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm khu căn cứ của Trung ương để đề phòng chiến tranh có thể mở rộng toàn quốc. Trong những năm có chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, Hồ Chí Minh và các thành viên trong Bộ chính trị đã lên làm việc và nghỉ ngơi và đây cũng là nơi giữ gìn thi hài của Hồ Chủ tịch từ năm 1969 đến 1975. Ba Vì còn có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật với kiến trúc độc đáo, có giá trị văn hóa, thẩm mỹ cao như: đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, đình Thụy Phiêu,..; đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, đền thờ Bác Hồ,...; miếu Mèn, chùa Tản Viên Sơn,...và nhiều đình, chùa, đền, miếu, lăng mộ, điếm, quán, văn chỉ, cổng làng, giếng cổ, nhà thờ dòng họ, cổng làng, từ đường khác. Ba Vì là một vùng đất địa linh nhân kiệt được thừa hưởng kho tàng di sản văn hóa đình làng phong phú (102 ngôi). Hiện nay, cả nước còn 06 ngôi đình làng thời Mạc - được liệt vào hạng quý hiếm nhất Việt Nam thì ở Ba Vì có 03 ngôi. Đó là đình Thụy Phiêu (xã Thụy An), đình Tây Đằng (thị trấn Tây Đằng) và đình Thanh Lũng (xã Tiên Phong), trong đó có đình Tây Đằng được xếp hạng là di tích cấp quốc gia đặc biệt. Đình thuộc thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, còn có tên là đình Cả, thờ Tam vị Đức Thánh Tản. Đây là một trong những ngôi đình đẹp và cổ kính nhất Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay. Di tích này có giá trị cao về lịch sử văn hóa và nghệ thuật tạo hình ở thời Mạc (Thế kỷ XVI) và đã qua nhiều lần trùng tu, sữa chữa. Đình Tây Đằng có 48 cột lớn nhỏ, đều làm bằng gỗ mít, cột lớn nhất có đường kính 80cm. Hiện nay, đình gồm các hạng mục chính: Đại đình, nhà tả - hữu mạc, Nghi môn, hồ sen bán nguyệt..., tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp cho toàn bộ khu di tích. Đặc biệt là có sự có mặt của các đề tài chạm khắc trên kiến trúc về cảnh sinh hoạt của con người, thú vật, cỏ cây, hoa lá. Tư liệu thống kê cho biết toàn bộ 1300 chi tiết chạm khắc gỗ trong đình không trùng nhau một chi tiết nào và được bố trí hài hòa. Trong đình còn có dải trang trí tượng 36 tiên nữ với các tư thế và hình dáng khác nhau. Ngoài ra, ở đây còn có các di vật, đồ thờ có giá trị như: nhang án chạm lộng theo đề tài tứ linh, sơn son thếp vàng, một đôi hạc gỗ thế kỷ XVIII, kiệu bát cống, long ngai, bài vị thờ Tam vị Đức Thánh Tản, Với những giá trị văn hóa, khoa học, lịch sử, ngày 13/1/1964, đình đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đền thờ Tản Viên Sơn Thánh ở Ba Vì bao gồm ba cụm kiến trúc tọa lạc trên một vị thế đẹp là đền Thượng, đền Trung và đền Hạ. Tuy có niên đại khác nhau, đền Trung có quy mô lớn tương truyền được xây dựng từ triều Lý; đền Hạ có từ đầu thế kỷ XVIII với phong cách nghệ thuật, điêu khắc đặc trưng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII; đền Thượng được hoàn thiện vào tháng 12/1996 nhưng cả ba ngôi đền này tạo thành một quần thể di tích - lịch sử có liên quan đến Thánh Tản Viên, có vị thế rất đẹp ở núi Ba Vì. Lễ hội tại cụm di tích này được tổ chức vào rằm tháng Giêng hàng năm thu hút nhiều lượt khách trong nước và quốc tế về tham quan, hành lễ, nghiên cứu những giá trị văn hóa phi vật thể về Đức Thánh Tản. Ngày 21/02/2008, cụm di tích này được Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Ba Vì có 450 di tích được phân bố rộng rãi trên địa bàn 1 thị trấn và 30 xã của huyện. Tuy nhiên phân bố các di tích không đồng đều, có xã có nhiều di tích như Tản Hồng (32 di tích), Phú Châu (31 di tích), Chu Minh (27 di tích), Tây Đằng (25 di tích), Cổ Đô (24 di tích); có xã ít như Thuần Mỹ (03 di tích), Yên Bài (02 di tích), xã Ba Vì (02 di tích). Trong đó, xã có số lượng di tích lịch sử văn hóa đậm đặc nhất là Tản Hồng với 32 di tích và xã có số lượng di tích lịch sử văn hóa ít nhất là Ba Trại với 01 di tích. Như vậy, di tích lịch sử văn hóa ở Ba Vì rất phong phú và đa dạng. Đây chính là một lợi thế để phát triển du lịch. Có thể khẳng định du lịch là thế mạnh để Ba Vì phát triển bởi hiếm có nơi nào vừa có nhiều di tích lịch sử văn hóa lại vừa được thiên nhiên hào phóng ban tặng nhiều danh lam, thắng cảnh phong phú, đa dạng như nơi đây. Về tài nguyên thủy văn, ở Ba Vì có nhiều hồ, sông suối và các thác nước đẹp như hồ Suối Hai, Thác Đa, hồ Tiên Sa, suối Mơ, hồ Cẩm Quỳ, Hồ Suối Hai với diện tích mặt nước trên 800ha, trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ là nơi khai thác và phát triển du lịch đầu tiên của Ba Vì. Mặt hồ rộng mênh mông là nơi dừng chân của những loài chim muông, két, vịt trời và các loại sơn cầm quý hiếm. Du khách có thể thưởng ngoạn nơi đây bằng thuyền nhỏ quanh hồ. Hồ Chủ tịch khi về thăm nơi đây đã từng nói: “Hồ Suối Hai đẹp như hồ Giơnevơ của Thụy Sỹ”. Cùng với dịch vụ nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí và nhiều bãi tắm đẹp, hồ Suối Hai là một trong những khu du lịch quốc gia có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Bên cạnh Suối Hai, Thác Đa cũng là một điểm du lịch hấp dẫn. Thác bắt nguồn từ đỉnh núi Ba Vì chảy trên con đường dài hơn 6km xuống chân núi, với những đoạn suối khi thì róc rách êm đềm, lúc ào ào tung bọt trắng xóa. Với phong cảnh sơn thủy hữu tình, thác còn giữ nguyên vẻ hoang sơ của núi rừng. Thác Đa còn có vườn chim với hàng trăm loài quý hiếm. Một đặc trưng nữa của các danh thắng tại Ba Vì là các khu du lịch với những cảnh quan tươi đẹp, khí hậu trong lành, mát mẻ quanh năm, thường được bao bọc bởi các cánh rừng tự nhiên với nguồn tài nguyên sinh vật phong phú. Khu du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên nằm giữa thung lũng của dãy núi Ba Vì thuộc xã Vân Hòa, ở độ cao 400m so với mực nước biển. Cả khu du lịch được bao bọc bởi núi rừng trùng điệp, có dòng suối Tiên nằm ngay dưới chân núi Tản. Khí hậu ở đây mát mẻ quanh năm. Khu du lịch Thiên Sơn – Suối Ngà nằm giữa thung lũng trong khu rừng tự nhiên, khu du lịch này có tổng diện tích 450ha. Nơi đây còn bảo tồn được hệ động, thực vật phong phú, tập trung nhiều loại thú hiếm như: chồn, sóc, nai, trăn, khi, phượng hoàng,... Đến với khu du lịch này, du khách được tận hưởng sinh khí trong lành của trời đất, khám phá 3 tiểu khu: Hạ Sơn, Trung Sơn và Ngoạn Sơn với thác nước Cổng trời đẹp và hùng vĩ nhất của núi rừng Ba Vì. Điển hình là vườn quốc gia Ba Vì được ví là “lá phổi xanh của thủ đô” bởi nhiều cảnh quan đa dạng, phong phú, khí hậu trong lành, mát mẻ. Vườn quốc gia Ba Vì có các khối núi cao sừng sững với 3 đỉnh: đỉnh Vua cao 1.296m, đỉnh Tản Viên 1.227m, đỉnh Ngọc Hoa 1.131m. Trên núi có nhiều ghềnh, thác nước tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn như Khoang Xanh - Suối Tiên, Ao Vua, Thiên Sơn - Suối Ngà, hồ Tiên Sa, thác Đa... Theo đánh giá của các nhà khoa học, vườn quốc gia Ba Vì có 1.201 loài thực vật bậc cao trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam như: Bách xanh, Sến mật, Phỉ ba mũi, Dẻ tùng sọc trắng, Hoa tiên, và hàng trăm loài cây dược liệu quý giá. Hệ động vật có 63 loài thú, với nhiều loài quý hiếm như: Cầy gấm, Culi lớn, Gà lôi trắng, Rồng đất, Cà cuống, Tê tê vàng, Sóc bay, Vườn quốc gia Ba Vì trở thành điểm đến lý tưởng cho loại hình du lịch sinh thái, tham quan, nghỉ dưỡng và nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp nơi đây lại gắn liền với truyền thuyết tạo nên miền huyền thoại đặc trưng cho các thắng cảnh nổi tiếng như: núi Ba Vì là nơi ngự trị muôn đời của Đức Thánh Tản Viên Sơn Tinh - vị Thánh đứng đầu Tứ bất tử trong tâm linh của người Việt xưa. Ngoài ra Ba Vì còn có khu du lịch Đầm Long - Bằng Tạ, Tản Đà Spa Resort, hồ Tiên Sa, vườn cò Ngọc Nhị,. Với hệ thống di tích lịch sử phong phú đa dạng cùng với những danh thắng đẹp nổi tiếng lại gần trung tâm Thủ đô Hà Nội, những năm vừa qua lượng khách đến tham quan du lịch Ba Vì ngày càng tăng. 5 năm qua, ngành Du lịch huyện Ba Vì đạt mức tăng trưởng ổn định, tổng doanh thu đạt 986 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân là 14,2%/năm, tổng lượng khách đạt hơn 11 triệu lượt người, tốc độ tăng bình quân là 4,5%. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đón 3,5 triệu lượt khách, doanh thu du lịch đạt 500 tỷ đồng. Nhờ phát triển kinh tế du lịch, kinh tế xã hội huyện Ba Vì có nhiều chuyển biến tích cực. Du lịch thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo hướng tăng tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ - du lịch, đạt 52% năm 2015. Thông qua ngành du lịch,hàng hóa, nông sản có giá trị của nhân dân trong vùng được tiêu thụ; nhiều nghề thủ công mỹ nghệ, dân gian được phục hồi và phát triển. Đời sống nhân dân vì vậy được cải thiện, đặc biệt là khu vực miền núi. Nếu năm 2008 là thu nhập bình quân đầu người khu vực này đạt 7,3 triệu đồng/người/năm thì đến năm 2013 đạt 24 triệu đồng/người/năm. Ngành du lịch Ba Vì đã có sự đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước, trở ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Đời sống của cán bộ nhân viên các khu du lịch ngày càng được nâng lên. Hoạt động của các đơn vị du lịch không chỉ đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho công ty mà còn đem lại hiệu quả to lớn đối với phát triển kinh tế vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện, làm chuyển biến nhận thức, nâng cao dân trí của một bộ phận dân cư. Hoạt động du lịch hàng năm cũng thu hút hàng nghìn lao động, giúp tiêu thụ nhiều hàng hóa, nông sản, đồ thủ công mỹ nghệ, thúc đẩy các nghề dân gian hồi phục, phát triển, góp phần làm giảm tệ nạn xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Các khu du lịch phát triển còn tạo sự ổn định kinh tế vùng, tạo môi trường phát triển những giá trị văn hóa bản địa của đồng bào dân tộc Mường, Dao tại vùng núi Ba Vì. - Chủ động xây các dự án phát triển du lịch theo hướng vừa hiện đại, đặc sắc vừa phát huy giá trị văn hóa của địa phương. - Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, văn hóa trong vùng du lịch, gắn với đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp, kỹ năng giao tiếp, đặc biệt là với người nước ngoài. - Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về du lịch, công tác kiểm tra hoạt động kinh doanh của các đơn vị du lịch. Để làm được điều này, chúng ta vừa phải phát huy vai trò của chủ thể quản lý vừa có những biện pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức của cộng đồng. Có như vậy mới có thể phát huy mạnh mẽ giá trị của những di tích và danh thắng để Ba Vì trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. N.T.Q.T (ThS, Khoa Văn hóa học, trường Đại học Văn hóa Hà Nội) 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển du lịch dựa trên tiềm năng di tích và danh thắng huyện Ba Vì Ba Vì là vùng đất có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Đến nay, trên địa bàn huyện đã có 15 đơn vị kinh doanh du lịch với các sản phẩm chủ yếu như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch hội thảo, vui chơi giải trí Trong đó hai loại hình du lịch là du lịch sinh thái và du lịch nghỉ dưỡng hoạt động có hiệu quả nhất, thu hút nhiều du khách tham gia. Tuy nhiên, từ tình hình thực tế hoạt động du lịch những năm vừa qua cho thấy hiệu quả khai thác các di tích và danh thắng tại Ba Vì chưa tương xứng với tiềm năng. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu đề ra nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là: - Tập trung hoàn thành công tác quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết các vùng du lịch gắn với quy hoạch chung của huyện và thành phố. - Cải thiện môi trường đầu tư, tích cực quảng bá du lịch. Tài liệu tham khảo 1. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Ba Vì (2013), Ba Vì – 45 năm xây dựng và phát triển (1968-2013), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 2. Nguyễn Thúy Nga (2014), Quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện Ba Vì thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ 3. Đặng Văn Tu (chủ biên, 1999), Di tích Hà Tây, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây 4. Đặng Văn Tu, Nguyễn Tá Nhí (đồng chủ biên, 2008), Địa chí Hà Tây, Nxb. Hà Nội, Hà Nội. 5. Nhìn lại 5 năm phát triển du lịch trên địa bàn huyện Ba Vì và định hướng 5 năm tới (đăng ngày 11/7/2016 website: bavi.hanoi.gov.vn) Ngày nhận bài: 12 - 12 - 2016 Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 3 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017
File đính kèm:
- di_tich_va_danh_thang_huyen_ba_vi_thanh_pho_ha_noi_voi_phat.pdf