Di cu vì hôn nhân của phụ nữa Việt Nam sau các nước Đông Nam Á
rong một thập kỷ qua, hiện tượng
phụ nữ Việt Nam kết hôn với người
nước ngoài, chủ yếu là với nam giới Đài
Loan và Hàn Quốc, và sau đó di cư sang
các nước đó đã thu hút được sự quan
tâm của xã hội cũng như chính phủ của
cả nơi đi và nơi đến. Hôn nhân với nam
giới ở một số nước phát triển hơn được
một số phụ nữ Việt Nam nhìn nhận như
một cơ hội tốt để nâng cao chất lượng
cuộc sống, cải thiện địa vị xã hội của
mình và mở rộng tầm mắt. ở cả nơi đi
và nơi đến, những phụ nữ này cũng như
cuộc hôn nhân của họ thường bị nhìn
nhận một cách tiêu cực. Tuy nhiên,
nghiên cứu về chủ đề này còn khá hiếm
vì tính nhạy cảm cũng như sự phức tạp
của quá trình thu thập số liệu. Vì vậy,
cho đến nay những thông tin về những
cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam
với nam giới các nước Đông á chủ yếu là
từ báo chí với một số câu chuyện đơn lẻ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Di cu vì hôn nhân của phụ nữa Việt Nam sau các nước Đông Nam Á
Di c− vì hôn nhân của phụ nữ Việt nam sang các n−ớc Đông á Chu Thuý Ngà(*) và Lê Thu(**) ôn nhân quốc tế là một xu thế bình th−ờng trong quá trình toàn cầu hoá. Những biến đổi về nhân khẩu và xã hội ở một số n−ớc phát triển hơn trong khu vực làm nảy sinh nhu cầu về một thị tr−ờng hôn nhân, thu hút dòng nhập c− lớn từ các n−ớc khác. Ngày càng có nhiều đàn ông Đông á lấy vợ ngoại quốc. Vào cuối những năm 2000, số cuộc hôn nhân với cô dâu ngoại quốc chiếm 15% số cuộc hôn nhân ở Đài Loan, 8% ở Hàn Quốc và 6% ở Nhật Bản. Số cô dâu ngoại quốc đến từ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm tỷ lệ lớn nhất ở những n−ớc này. Phụ nữ Việt Nam chiếm tỷ lệ thứ hai ở Hàn Quốc và Đài Loan và phụ nữ Phillippines cũng chiếm tỷ lệ thứ hai ở Nhật Bản. Trong một thập kỷ qua, hiện t−ợng phụ nữ Việt Nam kết hôn với ng−ời n−ớc ngoài, chủ yếu là với nam giới Đài Loan và Hàn Quốc, và sau đó di c− sang các n−ớc đó đã thu hút đ−ợc sự quan tâm của xã hội cũng nh− chính phủ của cả nơi đi và nơi đến. Hôn nhân với nam giới ở một số n−ớc phát triển hơn đ−ợc một số phụ nữ Việt Nam nhìn nhận nh− một cơ hội tốt để nâng cao chất l−ợng cuộc sống, cải thiện địa vị xã hội của mình và mở rộng tầm mắt. ở cả nơi đi và nơi đến, những phụ nữ này cũng nh− cuộc hôn nhân của họ th−ờng bị nhìn nhận một cách tiêu cực. Tuy nhiên, nghiên cứu về chủ đề này còn khá hiếm vì tính nhạy cảm cũng nh− sự phức tạp của quá trình thu thập số liệu. Vì vậy, cho đến nay những thông tin về những cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với nam giới các n−ớc Đông á chủ yếu là từ báo chí với một số câu chuyện đơn lẻ. Dự án nghiên cứu “Di c− quốc tế của phụ nữ Việt Nam sang các n−ớc Đông á” do Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS) và(*)tr−ờng Đại học Western Ontario (Canada) phối hợp thực hiện từ tháng 7/2007 đến tháng 6/2011, nhằm nghiên cứu việc di c− của phụ nữ (và nam giới) Việt Nam sang các n−ớc châu á qua con đ−ờng lao động và kết hôn tạo ra các cơ hội và gây ra tổn th−ơng cho ng−ời di c−, gia đình họ và cộng đồng nh− thế nào. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết này, trên cơ sở các kết quả (*) và (**) ThS., Ban Thời sự, Đài Tiếng nói Việt Nam. H 36 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2011 nghiên cứu của Dự án, các tác giả nêu lên một số vấn đề cần xem xét. Hôn nhân với phụ nữ ngoại quốc ở Đông á đang tăng nhanh Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nơi mà một số đàn ông khó lấy vợ trong n−ớc, ngày càng có nhiều cô dâu ngoại quốc. Trong những năm gần đây, kiểu di c− qua kết hôn này đã phát triển nhanh chóng. Một số n−ớc phát triển ở Đông á, điển hình là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, đạt nhiều kỷ lục về mặt nhân khẩu học: tỷ lệ sinh rất thấp, dân số già đi nhanh chóng và tỷ lệ nữ độc thân cao. Tuy nhiên, có một xu h−ớng mới đang làm thay đổi những n−ớc này: đó là hiện t−ợng nhập c− gia tăng. Năm 2008, 1/2 trong tổng số 214 triệu ng−ời di c− quốc tế sống ở châu á, trong đó bao gồm 15 triệu ng−ời ở Đông á. ở khu vực này, một tỷ lệ khá lớn ng−ời nhập c− là phụ nữ di c− theo diện hôn nhân. ở các n−ớc nh− Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản, những n−ớc vốn không khuyến khích nhập c−, những ng−ời phụ nữ này tạo thành một nhóm ng−ời nhập c− mới lớn nhất, không tính đến những ng−ời ngoại quốc nhập c− tạm thời để lao động. Phần lớn số ng−ời nhập c− này đến từ Trung Quốc, Indonesia, Phillippines và Việt Nam. ở những n−ớc này, họ đ−ợc gọi là “cô dâu ngoại quốc” trong nhóm số liệu thống kê về ng−ời n−ớc ngoài. Từ đầu những năm 1990, số đàn ông độc thân Đông á tìm vợ ngoại quốc ngày càng tăng. ở Đài Loan, số cuộc hôn nhân với phụ nữ ngoại quốc tăng từ vài nghìn mỗi năm giai đoạn đầu những năm 1990 lên gần 50 nghìn cuộc hôn nhân vào năm 2003. Số l−ợng cuộc hôn nhân quốc tế cũng tăng t−ơng tự ở Hàn Quốc, lên gần 30 nghìn cuộc hôn nhân năm 2005, chiếm 10% tổng số cuộc hôn nhân của n−ớc này. Mặc dù đã giảm trong mấy năm gần đây, nh−ng số cuộc hôn nhân này vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ (15% ở Đài Loan năm 2009 và 8% ở Hàn Quốc). Việc hôn nhân quốc tế giảm ở Đài Loan là do các giải pháp của chính phủ nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn những cuộc hôn nhân vốn đ−ợc cho là quá nhiều. ở Nhật Bản, việc kết hôn với phụ nữ ngoại quốc bắt đầu từ những năm 1980 và đạt tỷ lệ 5% - 6% tổng số cuộc hôn nhân vào khoảng giữa những năm 2000. Tuy nhiên, việc này rõ ràng không còn là một hiện t−ợng nhỏ nữa, mà đang làm thay đổi bộ mặt của các n−ớc này. Tại Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản, có số l−ợng lớn cô dâu ngoại quốc đến từ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trong số những phụ nữ này, những ng−ời lấy chồng Hàn Quốc chủ yếu là có nguồn gốc Hàn Quốc. Những phụ nữ lấy chồng Đài Loan đều đã có thể nói đ−ợc ngôn ngữ chính thức của n−ớc này. Đó là tiếng nói Trung Quốc phổ thông. Đây chính là một tài sản giúp họ có thể hoà nhập dễ dàng với gia đình nhà chồng. ở Hàn Quốc và Đài Loan, phụ nữ Việt Nam là nhóm cô dâu ngoại quốc chiếm số l−ợng lớn thứ hai. Những cô dâu Việt Nam này th−ờng còn trẻ, độc thân trong khi cô dâu ngoại quốc ng−ời Trung Quốc th−ờng là những phụ nữ đã ly dị và không thể tái hôn ở Trung Quốc. ở Hàn Quốc, trung bình tuổi vợ là ng−ời Việt Nam và chồng ng−ời Hàn Quốc cách nhau 17 tuổi trong khi vợ ng−ời Trung Quốc và chồng ng−ời Hàn Quốc cách nhau 7 tuổi. Lúc đầu, th−ờng chỉ những ng−ời đàn ông nông thôn nghèo mới lấy vợ n−ớc ngoài, nh−ng bây giờ cả những ng−ời đàn ông Di c− vì hôn nhân 37 thành thị thuộc tầng lớp trung bình cũng có nhu cầu tìm vợ ngoại quốc. Nguyên nhân và hệ lụy Việc phải tìm vợ ngoại quốc một phần bắt nguồn từ những khó khăn mà đàn ông gặp phải khi tìm vợ trong n−ớc. Thế nh−ng năm 2005, 1/6 phụ nữ ở độ tuổi từ 35 đến 39 ở cả Nhật Bản và Đài Loan vẫn độc thân. Phụ nữ ngày càng học cao hơn và nhiều ng−ời có đ−ợc sự chủ động về kinh tế. Đồng thời, mối quan hệ giữa hai giới và sự phân công lao động trong gia đình giữa vợ và chồng hầu nh− không thay đổi và vẫn còn thiếu biện pháp giúp đỡ những bà mẹ đi làm. Phụ nữ buộc phải chọn hoặc là công việc hoặc là kết hôn và làm mẹ. Ngày càng nhiều ng−ời không chấp nhận vai trò ng−ời vợ truyền thống: họ muốn tiếp tục đi làm và vì vậy chọn sống độc thân. Việc thay đổi nhận thức nh− vậy đã dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng phụ nữ trên thị tr−ờng hôn nhân. Về phía mình, đàn ông phải chịu trách nhiệm nối dõi tông đ−ờng bằng cách đẻ con trai và trong nhiều tr−ờng hợp cũng phải chăm sóc cha mẹ già. áp lực xã hội mạnh đến nỗi họ khó có thể sống độc thân và không sinh con. Vì vậy, khi gia đình hết hy vọng con trai mình có thể lấy vợ trong n−ớc thì họ buộc phải chọn cô dâu ngoại quốc. Tỷ lệ bé trai sinh ra ở Hàn Quốc tăng vào những năm 1980 và 1990 do việc phá thai lựa chọn giới tính ngày càng tăng. Tuy nhiên, khác với nhiều ng−ời nghĩ, việc thiếu hụt bé gái chỉ đóng vai trò rất nhỏ trong hiện t−ợng lấy “vợ ngoại”. Trên thực tế thì đàn ông lấy vợ ngoại trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2010 không thuộc thế hệ bị ảnh h−ởng bởi sự thiếu hụt nữ giới. Họ là những ng−ời ở độ tuổi từ 35-40, năm 2005, sinh vào khoảng những năm 1965-1970, khi mà tỷ số chênh lệch giới tính vẫn bình th−ờng. Tuy nhiên, đối với thế hệ nam giới sinh vào những năm 1980 và đặc biệt là vào những năm 1990, đó là khoảng thời gian có tỷ lệ giới tính khi sinh giữa bé trai và bé gái chênh lệch lớn, thì hiện t−ợng cô dâu ngoại có lẽ còn mạnh mẽ hơn khi họ b−ớc vào thị tr−ờng hôn nhân. Mạng l−ới gia đình và các công ty môi giới - Buôn bán cô dâu hay di c− tự nguyện? Khi những cuộc hôn nhân đầu tiên theo kiểu này diễn ra thì gia đình và bạn bè của cô dâu, ng−ời mà đã định c− ở n−ớc đến, sẽ khác những ng−ời phụ nữ khác trong gia đình di c−. Th−ờng thì, những phụ nữ “tiên phong” di c− để kết hôn sẽ đóng vai trò làm ng−ời môi giới và tìm chồng cho em gái hoặc bạn mình, những ng−ời mà sau đó cũng di c−. Tuy nhiên, mạng l−ới gia đình và xã hội chỉ đóng vai trò nhỏ so với các công ty môi giới ở cả n−ớc đến và n−ớc đi. Những công ty này đã đóng vai trò lớn trong việc làm gia tăng nhanh chóng số l−ợng các cuộc hôn nhân xuyên quốc gia này và tất nhiên là việc di c− cũng tăng theo. Các công ty này nắm rõ các thủ tục kết hôn với phụ nữ n−ớc ngoài và giúp họ nhập c− nhanh chóng vào n−ớc của chồng. Họ có thể lo hết mọi nghi lễ và thu xếp vấn đề tài chính, do đó khách hàng rất cần đến họ. Họ là những công ty t− nhân và quảng cáo khắp nơi: trên truyền hình, báo và trên đ−ờng phố. Một đài truyền hình Đài Loan liên tục chiếu hình ảnh các cô gái “sẵn sàng” kết hôn. Cũng nhờ có những quảng cáo tràn lan khắp nơi này mà đàn ông có thể dễ dàng tiếp cận với thị tr−ờng hôn nhân quốc tế. 38 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2011 Các công ty môi giới quốc tế th−ờng cung cấp ch−ơng trình trọn gói cho đàn ông đến các n−ớc “cung cấp” cô dâu, và vì vậy có thể giúp họ, trong khoảng 7 đến 10 ngày, chọn đ−ợc vợ và bắt đầu các nghi lễ kết hôn. Sau đó, chú rể trở về nhà và sau vài tháng, khi công ty môi giới hoàn tất các thủ tục nhập c−, cô dâu có thể đoàn tụ với ng−ời chồng mới c−ới. Gia đình nhà chồng phải chi khoảng từ 6 nghìn USD đến 12 nghìn USD. ở Việt Nam, cô dâu t−ơng lai cũng phải trả tiền cho những dịch vụ này; ng−ời môi giới ở địa ph−ơng hợp tác với các công ty môi giới của Hàn Quốc và Đài Loan cũng tính phí các cô dâu từ 1 nghìn USD đến 3 nghìn USD. Một số ng−ời cho rằng việc di c− theo diện kết hôn này là một hình thức buôn bán ng−ời. Phụ nữ hoặc bị coi là nạn nhân của nạn buôn ng−ời hoặc là những kẻ cơ hội muốn tận dụng cơ hội hôn nhân để định c− ở n−ớc ngoài. Những tranh luận gay gắt về vấn đề này ở Đài Loan và Hàn Quốc đã khiến Chính phủ các n−ớc này phải thông qua các luật mới. ở Đài Loan, chỉ những công ty phi lợi nhuận mới đ−ợc hoạt động hợp pháp, trong khi ở Hàn Quốc Chính phủ đã áp dụng hệ thống kiểm soát mới, yêu cầu các công ty môi giới phải có giấy phép hoạt động. Cần l−u ý rằng những cuộc hôn nhân này diễn ra ở những n−ớc mà hôn nhân sắp đặt và giao dịch tài chính giữa các gia đình liên quan đến hôn nhân, nh− đòi hỏi của hồi môn hay “thách c−ới”, từ lâu đã là một truyền thống. Những tập tục này hiện vẫn đ−ợc xã hội chấp nhận, cho dù không còn phổ biến nh− tr−ớc nữa đối với các thế hệ trẻ ở một số n−ớc. Tuy nhiên, hôn nhân giữa hai ng−ời lạ, do một công ty môi giới sắp xếp, khác với cuộc hôn nhân sắp đặt giữa hai gia đình. Đối với cuộc hôn nhân sắp đặt giữa hai gia đình thì các gia đình gặp gỡ nhau và thể hiện sự nhất trí với cuộc hôn nhân và cuộc hôn nhân này phải phù hợp với các chuẩn mực xã hội của họ. Hai vợ chồng th−ờng có hoàn cảnh xã hội và địa lý giống nhau hoặc t−ơng tự nhau. Phần lớn cô dâu Việt di c− tự đồng ý kết hôn, chứ không phải do áp lực từ phía cha mẹ. Họ th−ờng có hai mục đích: kết hôn và di c−. Mục đích của họ không phải là thực hiện một hợp đồng hôn nhân mà là với hai mục đích. Cũng giống nh− hầu hết những ng−ời nhập c− đến từ các n−ớc đang phát triển, cô dâu ngoại quốc hy vọng rằng bằng hình thức di c− họ có thể giúp đỡ về mặt tài chính cho gia đình ở quê h−ơng và cải thiện đời sống của bản thân. Chồng và gia đình nhà chồng thì mong muốn họ nhanh chóng sinh con và chỉ ở nhà làm việc nội trợ. Hơn nữa, trong nhiều tr−ờng hợp, ng−ời chồng còn muốn họ phải chăm sóc cha mẹ đã già. Do vậy, đôi khi mâu thuẫn và thậm chí cả bạo lực gia đình xảy ra và kết cục là ly dị và ng−ời vợ trở về quê h−ơng. Dân số ngày càng đa dạng Việc nhập c− của các cô dâu ngoại quốc đã khiến xã hội ngày càng đa dạng hơn. Hầu hết những ng−ời đã xin đ−ợc quốc tịch của n−ớc họ di c− đến là cô dâu/chú rể ngoại quốc, và trong đó phần lớn là cô dâu ngoại quốc. ở Đài Loan, 98% trong tổng số hơn 13 nghìn ng−ời đ−ợc nhập tịch là vợ hoặc chồng của công dân Đài Loan, trong đó, 4/5 ng−ời nhập tịch là cô dâu ngoại quốc đến từ Việt Nam. Ước tính có khoảng 110 nghìn phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Di c− vì hôn nhân 39 Loan và 15 nghìn ng−ời lấy chồng Hàn Quốc trong một thập kỷ qua. Ngay cả những đứa trẻ sinh ra từ các cuộc hôn nhân xuyên quốc gia cũng thu hút sự chú ý của cả giới chính trị và giới nghiên cứu, bởi chúng liên quan tới việc điều chỉnh chính sách, các dịch vụ xã hội hiện có nhằm phục vụ nhu cầu của những đứa trẻ này. Cũng năm 2008, 1/10 số trẻ đ−ợc sinh ra ở Đài Loan là con của bà mẹ ngoại quốc. Tình trạng này trái ng−ợc với hệ t− t−ởng về sự thuần khiết dân tộc và quốc gia, vốn rất phổ biến ở Đông á. Vì vậy, những cô dâu ngoại quốc có thể bị phân biệt đối xử và bị loại khỏi thị tr−ờng lao động cũng nh− các hoạt động cộng đồng. ở Đông á, tỷ lệ ng−ời ngoại quốc đ−ợc nhập quốc tịch vẫn thấp hơn so với các n−ớc phát triển khác. Năm 2007, công dân có nguồn gốc n−ớc ngoài chiếm 1,7% dân số ở Nhật, 2,8% dân số Hàn Quốc. Tuy nhiên, con số này đang tăng và việc này tạo ra thách thức lớn đối với các n−ớc có ng−ời nhập c−. Hiện t−ợng cô dâu ngoại quốc là một trong những vấn đề nhập c− quan trọng nhất ở khu vực này và có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về mặt nhân khẩu và xã hội học. Lúc đầu, chính phủ các n−ớc có ng−ời nhập c− ủng hộ các cuộc hôn nhân với cô dâu ngoại quốc, coi đây là một cách duy trì tăng tr−ởng dân số ở các vùng nông thôn, những nơi mà đàn ông khó lấy vợ. Họ cũng rất trông chờ vào việc tỷ lệ sinh sẽ tăng theo. Theo quan điểm của họ thì hiện t−ợng này là một vấn đề xã hội chứ không phải là vấn đề nhập c−. ở Hàn Quốc, một số thành phố còn đ−a ra các chính sách hỗ trợ tài chính cho các gia đình muốn con trai lấy vợ ngoại quốc. Ng−ời ta mong đợi rằng khi những cô dâu ngoại quốc đã có mối quan hệ gần gũi với n−ớc họ nhập c− đến thông qua hôn nhân thì họ sẽ nhanh chóng hòa nhập xã hội. Kết quả các nghiên cứu gần đây cho thấy khi cô dâu ngoại quốc thực sự gặp khó khăn thì các n−ớc có cô dâu nhập c− đã đầu t− vào các ch−ơng trình hòa nhập (dạy ngôn ngữ và văn hóa). Họ còn cấp kinh phí cho các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan chính phủ để cung cấp dịch vụ cho những cô dâu này cũng nh− nh− chỗ ở cho những nạn nhân bị bạo hành gia đình. Tuy nhiên, những năm về sau, số l−ợng cô dâu ngoại tăng cao kéo theo nhiều vấn đề xã hội đã khiến chính phủ các n−ớc Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc dần có những thay đổi trong chính sách dành cho cô dâu ngoại quốc. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hôn nhân với nam giới ở một số n−ớc phát triển hơn đ−ợc một số phụ nữ Việt Nam nhìn nhận nh− một cơ hội tốt để nâng cao chất l−ợng sống, cải thiện địa vị xã hội của mình và mở rộng tầm mắt. Kết quả điều tra từ 250 gia đình có con lấy chồng ngoại quốc, tại huyện Thốt Nốt (Cần Thơ) cho thấy trong năm 2007, 93% gia đình đã nhận đ−ợc tiền gửi về từ phụ nữ di c− theo diện hôn nhân. Trong đó gần 60% gia đình −ớc tính là số tiền gửi về chiếm bằng hoặc lớn hơn 50% tổng thu nhập của họ. Hơn 90% gia đình khẳng định mục tiêu chính của cuộc hôn nhân với ng−ời n−ớc ngoài của con gái họ là để giúp đỡ gia đình. Cụ thể trong một năm hơn 25% phụ nữ lấy chồng n−ớc ngoài gửi về cho gia đình từ 1,2 nghìn đến 3 nghìn USD, hơn 17% gửi về nhà số tiền từ 3 nghìn USD trở lên. Nh− vậy, cô dâu di c− Việt 40 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2011 Nam có đóng góp tài chính quan trọng cho gia đình cha mẹ ruột. Ghi nhận những đóng góp trên là b−ớc quan trọng để tiến đến việc coi những những ng−ời phụ nữ này là những ng−ời di c− có quyền riêng của họ chứ không chỉ hạn chế ở khái niệm “cô dâu ngoại quốc”. * * * Nh− vậy, có thể nói, hôn nhân với ng−ời n−ớc ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Không thể duy ý chí trong việc muốn hay không muốn có hiện t−ợng kết hôn với ng−ời n−ớc ngoài. Đây là một vấn đề bình th−ờng trong quá trình phát triển, giao l−u và hội nhập kinh tế, văn hoá. Điều quan trọng là, làm thế nào để giảm thiểu những rủi ro cho những phụ nữ kết hôn với ng−ời n−ớc ngoài, để cô dâu ngoại quốc nói chung, cô dâu ng−ời Việt nói riêng có thể hoà nhập với quê h−ơng mới. Vì vậy, với Việt Nam, chúng ta cần tăng c−ờng vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội, trong đó đặc biệt là vai trò của Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, các cơ quan t− pháp... Thực tế, hôn nhân với ng−ời n−ớc ngoài những năm gần đây ở n−ớc ta th−ờng đến với các cô gái từ các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, học vấn thấp, ít hiểu biết. Vì thế, không thể bỏ mặc các cô gái ra đi làm dâu xứ ng−ời với hai bàn tay trắng, chỉ với −ớc mơ đổi đời. Cần chuẩn bị cho các cô dâu Việt hành trang thật tốt để đi làm dâu xứ ng−ời. Cần có những thông tin đầy đủ và chính xác về ng−ời chồng t−ơng lai, về gia cảnh ng−ời chồng, về địa ph−ơng mà các cô dâu Việt sẽ đến sinh sống với vai trò ng−ời vợ, ng−ời con dâu trong gia đình sẽ góp phần giúp các em và gia đình cân nhắc tr−ớc khi quyết định lấy chồng n−ớc nào, ở đâu cho phù hợp với mình. Bên cạnh đó, các cô dâu Việt cần tìm hiểu về Luật pháp, phong tục, tập quán, học tiếng của các vùng, miền của n−ớc sẽ đến làm dâu. Chỉ có nh− vậy, chúng ta mới góp phần làm giảm thiểu những rủi ro đối với các em gái lấy chồng n−ớc ngoài và xây dựng đ−ợc những cuộc hôn nhân có yếu tố n−ớc ngoài có đ−ợc hạnh phúc. Đó cũng là điều quan trọng mà d− luận xã hội cần h−ớng tới. Ngoài những trang bị ở n−ớc sở tại, tại n−ớc cô dâu đến nhập c− cũng cần có sự quan tâm, giúp đỡ để cô dâu Việt nhanh chóng hoà nhập vào gia đình, cộng đồng nơi cô dâu đến sinh sống. Có nh− vậy, những cuộc hôn nhân xuyên biên giới mới có thêm những “điểm tựa” hạnh phúc.
File đính kèm:
- di_cu_vi_hon_nhan_cua_phu_nua_viet_nam_sau_cac_nuoc_dong_nam.pdf