Đấu tranh chính trị đầu thế kỷ XX và tư tưởng “tự do” dân quyền của Trần Hữu Độ

Trần Hữu Độ là tác giả có nhiều tác phẩm chính trị được xuất bản tại Sài Gòn

vào khoảng cuối thập niên 20 đầu thập niên 30 thế kỷ XX. Các tác phẩm của

ông có tiếng vang và ảnh hưởng lớn vào thời kỳ đó. Trong bài viết này chúng tôi

sơ lược giới thiệu về ông và quan điểm “tự do” của ông trong cuộc đấu tranh

dân quyền đương thời.

pdf 10 trang kimcuc 14940
Bạn đang xem tài liệu "Đấu tranh chính trị đầu thế kỷ XX và tư tưởng “tự do” dân quyền của Trần Hữu Độ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đấu tranh chính trị đầu thế kỷ XX và tư tưởng “tự do” dân quyền của Trần Hữu Độ

Đấu tranh chính trị đầu thế kỷ XX và tư tưởng “tự do” dân quyền của Trần Hữu Độ
72 
CHUYÊN MỤC 
VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA NGHỆ THUẬT 
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TƯ 
TƯỞNG “TỰ DO” DÂN QUYỀN CỦA TRẦN HỮU ĐỘ 
HUỲNH VĨNH PHÚC* 
Trần Hữu Độ là tác giả có nhiều tác phẩm chính trị được xuất bản tại Sài Gòn 
vào khoảng cuối thập niên 20 đầu thập niên 30 thế kỷ XX. Các tác phẩm của 
ông có tiếng vang và ảnh hưởng lớn vào thời kỳ đó. Trong bài viết này chúng tôi 
sơ lược giới thiệu về ông và quan điểm “tự do” của ông trong cuộc đấu tranh 
dân quyền đương thời. 
Từ khóa: Trần Hữu Độ, chính trị dân quyền, chính trị Việt Nam đầu thế kỷ XX 
Nhận bài ngày: 20/8/2019; đưa vào biên tập: 25/8/2019; phản biện: 10/9/2019; 
duyệt đăng: 4/10/2019 
1. BỐI CẢNH ĐẤU TRANH DÂN 
QUYỀN ĐẦU THẾ KỶ XX 
Năm 1909, sau thất bại của phong 
trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục 
và phong trào Đông Du, nhìn chung 
giới hoạt động chính trị nho học đã 
dần dần mất vai trò chủ đạo trong đấu 
tranh chính trị và nhường vai trò này 
cho các nhà hoạt động chính trị tân 
học. Năm 1925 Phan Chu Trinh - một 
đại biểu xuất sắc và có uy tín lớn của 
thế hệ các nhà chính trị nho học qua 
đời. Do đó trong nghiên cứu này, 
chúng tôi coi năm 1925 là năm đánh 
dấu sự chuyển giao vai trò lịch sử của 
các nhà chính trị nho học trên vũ đài 
chính trị sang các nhà chính trị tân 
học. Các nhà hoạt động chính trị tân 
học thời kỳ này như Nguyễn An Ninh, 
Trần Huy Liệu, Trần Hữu Độ, Hải 
Triều... là những người đang ở độ tuổi 
trưởng thành. Họ chính là thế hệ đầu 
tiên của các nhà hoạt động chính trị 
Việt Nam hiện đại từ những năm 1925. 
Thế hệ các nhà chính trị tân học này 
đã đóng một vai trò chủ chốt trong các 
biến chuyển lịch sử Việt Nam từ thế 
chiến thứ nhất đến khi chấm dứt thế 
chiến thứ hai (1914 - 1945). 
Ở Việt Nam tư tưởng thời kỳ này 
chuyển từ tư tưởng vương đạo, nhân 
trị của Nho giáo sang tư tưởng dân 
quyền, dân chủ của thế giới hiện đại. 
*
 Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
HUỲNH VĨNH PHÚC – ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẦU THẾ KỶ XX 
73 
Điều này thể hiện qua các văn bản 
điều trần của Nguyễn Trường Tộ và 
các cuộc vận động lịch sử như phong 
trào cổ động nông thương trên Nông 
cổ mín đàm năm 1901, phong trào 
Duy Tân và phong trào Đông Du năm 
1904, Đông Kinh Nghĩa Thục năm 
1906, phong trào chống sưu thuế ở 
Trung Kỳ năm 1908, vận động tranh 
thương năm 1919, vận động nữ 
quyền trên Nữ giới chung năm 1918 
và Phụ nữ tân văn năm 1929, phong 
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930. 
Đặc biệt là vào năm 1919 Nguyễn Ái 
Quốc đại diện cho những người trí 
thức Việt Nam tại Pháp gởi đến các 
cường quốc trong hội nghị Versailles 
bản Các yêu sách của dân tộc Việt 
Nam và đồng thời tài liệu này được 
phổ biến trong nước. Trong lời mở 
đầu, bản yêu sách đã nêu rõ: “Thực 
sự công nhận quyền thiêng liêng của 
các dân tộc được tự quyết”, và người 
Việt “chứa chan hy vọng trước viễn 
cảnh một kỷ nguyên pháp quyền và 
công lý tất yếu sẽ phải mở ra”, và 
“nguyên tắc về các dân tộc” (Le 
principe des nationalités) sẽ được 
thực hiện (dẫn theo Trần Văn Giàu, 
1987: 277). 
Bản Các yêu sách của dân tộc Việt 
Nam gồm 8 điểm, xoay quanh các vấn 
đề như: đại xá tù chính trị; cải cách 
pháp lý Đông Dương; tự do về báo chí, 
hội họp; tự do cư trú ở nước ngoài và 
tự do xuất dương. 
Nội dung của bản yêu sách trên cho 
thấy quan điểm chính trị dân quyền đã 
được truyền bá rộng rãi và ý thức dân 
quyền đã phát triển mạnh mẽ trong xã 
hội Việt Nam. Từ đó, chúng tôi nhận 
thấy sự phổ biến kiến thức xã hội, 
kiến thức khoa học đã hình thành nên 
những tư tưởng, nhận thức xã hội và 
hành động xã hội mới của dân chúng. 
Hoạt động vận động canh tân của 
Nguyễn Trường Tộ và các phong trào 
đấu tranh chính trị xã hội nêu trên đã 
phản ánh quá trình chuyển đổi từ 
chính trị triều đình sang chính trị dân 
gian. Trong đó, nhận thức về nhu cầu 
tiến bộ, về dân tộc và dân quyền là 
yếu tố cơ bản, là nội dung chính yếu 
trong tri thức chính trị của công chúng. 
Các phong trào đấu tranh chính trị cho 
thấy sự chuyển giao từ các nhà chính 
trị nho học đến các nhà chính trị tân 
học đã diễn ra hai sự thay đổi quan 
trọng: 1) lần đầu tiên trong lịch sử dân 
tộc người dân đã có được tư cách chủ 
thể trong các quá trình xã hội, và họ 
trở thành một lực lượng chính trị chủ 
yếu của xã hội; 2) hoạt động chính trị 
không còn bị giới hạn, bị che đậy, bị 
kiềm tỏa trong nhãn giới của một học 
thuyết, trong sự độc quyền của lực 
lượng chính trị nho gia. Đây là điểm 
khởi nguồn của tính phong phú, đa 
dạng và tính tương phản trong tư 
tưởng chính trị và thực hành chính trị 
trong xã hội Việt Nam hiện đại: chính 
trị triều đình, chính trị thực dân, chính 
trị dân chúng. 
Trên phương diện tư tưởng và học 
thuật, năm 1925 là năm đánh dấu sự 
chuyển biến tư tưởng chính trị truyền 
thống sang tư tưởng chính trị hiện đại 
bởi 3 văn bản: Hai bài diễn thuyết 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
74 
“Đạo đức và luân lý Đông Tây”, “Quân 
trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa” của 
Phan Chu Trinh, và tác phẩm Dân đạo 
và dân quyền của Tân Nam Tử. Ba 
văn bản trên đều xuất phát và dựa 
trên nền tảng tư tưởng về dân quyền, 
dân chủ và tự do, bình đẳng của triết 
học chính trị hiện đại để triển khai các 
nội dung của nó. Hai bài diễn thuyết 
của Phan Chu Trinh được biết đến 
nhiều hơn so với tác phẩm Dân đạo 
và dân quyền của Tân Nam Tử. 
Trong bối cảnh đấu tranh dân quyền 
đầu thế kỷ XX, Tân Nam Tử với tư 
cách là nhà chính trị tân học đã đi tiên 
phong trong việc phổ biến tư tưởng 
triết học chính trị mới. Trong cuốn Dân 
đạo và dân quyền ông đã dịch toàn 
văn Tờ tuyên cáo nhơn quyền và dân 
quyền của nước Pháp năm 1789 (gồm 
lời nói đầu và 17 khoản), sau đó chú 
giải tường tận ý nghĩa của lời nói đầu 
và từng điều khoản. Bằng một hệ 
thống thuật ngữ triết học chính trị mới, 
Tân Nam Tử đã diễn giải những tư 
tưởng căn bản của chính trị học hiện 
đại đặt nền tảng trên hai tư tưởng lớn 
là nhân quyền và dân quyền. Qua giải 
thích ý nghĩa, ông đưa ra những diễn 
ngôn chính trị dân quyền. 
Theo nhận xét của Tân Nam Tử (1925: 
1): “Trong buổi Quấc dân ta xu hướng 
về cái phong trào chính trị, bàn bạc 
đến dân quyền, mà không có được 
mấy người có cái quan niệm rõ rệt về 
chánh trị dân quyền, riêng tưởng cũng 
là một điều rối rắm”; vì vậy, điều quan 
trọng đầu tiên là làm cho quốc dân 
hiểu rõ được dân quyền, biết được 
những quyền lợi tự nhiên bất khả thủ 
tiêu (imprescriptible) của mình. Đó là 
các quyền: quyền được tự do; quyền 
được bình đẳng; quyền được sở hữu. 
Xét trong phương diện ngữ nghĩa của 
thuật ngữ, Tân Nam Tử đã ghi chú rõ 
về khái niệm “quyền tự nhiên”. Đó là 
những quyền mà: con người sanh ra 
đã có; liên hệ đến bản thân con người; 
cần yếu cho sự sinh hoạt (nếu không 
có không thể sống được); nguyện 
vọng sâu xa của con người (Tân Nam 
Tử, 1925: 8). 
Tuy nhiên, trong tình cảnh hiện thực 
chính trị phong kiến thực dân, Tân 
Nam Tử nhận thấy phong kiến “lấy ý 
riêng và quyền lợi riêng của mình mà 
làm chuẩn (khuôn xếp), chớ không kể 
gì đến dân ý và dân quyền” (Tân Nam 
Tử, 1925: 26), và người Pháp “lấy cớ 
dân ta còn ấu trĩ để định ra thời hạn” 
bắt dân ta phải đợi “nhiều năm nhiều 
thế kỷ” mới được hưởng những quyền 
lợi cố hữu, quyền lợi vốn luôn luôn 
thuộc về ta. Thực tế đó đã phơi bày 
thực trạng dân quyền: “Thế là thủ tiêu 
chớ chẳng phải bất khả thủ tiêu!” (Tân 
Nam Tử, 1925: 12). Do đó, Tân Nam 
Tử (1925: 3) nhấn mạnh: “Tờ tuyên 
cáo nhơn quyền và dân quyền của 
nước Pháp năm 1789 đã khẳng định 
những quyền lợi tự nhiên đó của con 
người để hạn chế quyền của chánh 
phủ (nhà nước), không cho xâm lấn 
đến quyền của cá nhơn (tư nhơn), nếu 
có xâm lấn thì là áp chế, dân có cái 
nghĩa vụ (bổn phận) phải kháng cự lại”. 
Trình độ dân trí là nền tảng sức mạnh 
của quốc gia (Tân Nam Tử, 1925: 17). 
HUỲNH VĨNH PHÚC – ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẦU THẾ KỶ XX 
75 
Vậy mà, Tân Nam Tử nhận thấy dân 
Việt không có kiến thức về tự do, 
không hiểu biết về các quyền của 
người dân, nên phải chịu sống trong 
thảm cảnh nô lệ hèn mạt, bị áp bức và 
khinh khi một cách tủi hổ: “Nguy hại 
thay cho cái độc dốt nát, đau đớn thay 
cho cái độc dốt nát không biết gì về 
dân quyền” (Tân Nam Tử, 1925: 40). 
Vì thế, trong Dân đạo và dân quyền 
ông đã đưa ra một loạt các định nghĩa 
về quyền (xem thêm Tân Nam Tử, 
1925: 14-16). 
2. TRẦN HỮU ĐỘ VÀ TƯ TƯỞNG 
TỰ DO DÂN QUYỀN 
2.1. Trần Hữu Độ - tiểu sử và tác 
phẩm 
Trần Hữu Độ là nhân vật hoạt động 
văn học, văn hóa và chính trị của Sài 
Gòn thời kỳ đầu thế kỷ XX đến 1945. 
Hoạt động văn hóa, chính trị của ông 
khá phong phú. Các tác phẩm chính 
luận của ông đã phổ biến kiến thức về 
chính trị, xã hội, đồng thời khơi gợi tấm 
lòng yêu nước, phát động tinh thần 
đấu tranh cho tự do, độc lập của dân 
tộc, cho các quyền công dân trong các 
tầng lớp dân chúng, đặc biệt là trong 
tầng lớp thanh niên, trí thức. Thế 
nhưng, cho đến nay tên tuổi Trần Hữu 
Độ và sự nghiệp hoạt động của ông 
vẫn chưa được nghiên cứu thỏa đáng. 
Ở bài viết này tuy chưa có điều kiện 
để nghiên cứu tỏ tường hơn về tiểu 
sử của Trần Hữu Độ nhưng chúng tôi 
đã tổng hợp tài liệu của một số nhà 
nghiên cứu để có cái nhìn bao quát về 
ông. Tuy nhiên với điều kiện kiểm 
chứng sự chính xác của thông tin 
trong các tài liệu còn hạn chế, nên cần 
có sự tìm hiểu sâu hơn trong các 
nghiên cứu tiếp theo. 
Bằng Giang trong Văn học quốc ngữ 
Nam Kỳ 1865 - 1930 (1992) đã dùng 
tiêu đề: Trần Hữu Độ: Người một thời 
đã từng “làm sôi nổi can trường” để 
viết về Trần Hữu Độ; phần viết này dài 
8 trang từ trang 200 đến trang 208. 
Bằng Giang (1992: 201) cho rằng 
Trần Hữu Độ là “một tác giả có nhiều 
tác phẩm bị cấm thời thuộc địa”. 
Trong Việt Nam văn học sử trích yếu, 
Hạo Nhiên Nghiêm Toản (1949, tập 2: 
111-112) nói về Trần Hữu Độ: “Từ 
trong Nam Bộ, Hồi trống tự do (dịch 
văn Ẩm Băng) của Trần Hữu Độ, tràn 
ra đến Bắc Hà và được công chúng 
hoan nghênh nhiệt liệt” (dẫn theo 
Bằng Giang, 1992: 203). 
- Về văn hóa nghệ thuật, 1985, tập 1 
của Trường Chinh cũng viết về Trần 
Hữu Độ: “Rồi những vần thơ Chiêu 
hồn nước của Phạm Tất Đắc thống 
thiết vang lên dưới trời Bắc Bộ, Hồi 
trống tự do của Trần Hữu Độ trong 
Nam đáp lại làm sôi nổi can trường” 
(dẫn theo Bằng Giang, 1992: 79-80). 
Ngoài ra, Bằng Giang cũng đề cập 
đến 4 công trình nghiên cứu khác có 
nhắc đến Trần Hữu Độ: Thân thế và 
sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn An 
Ninh. Phương Lan, Sài Gòn, 1970; 
Chúng tôi làm báo, Nguyễn Văn Trấn, 
TPHCM, 1981; Báo chí cách mạng 
Việt Nam 1925 - 1945, Nguyễn Thành, 
Hà Nội, 1984; Lược truyện các tác gia 
Việt Nam, Trần Văn Giáp, tập 2, Hà 
Nội, 1972. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
76 
Trong Lược truyện các tác gia Việt 
Nam - tập 2, Trần Văn Giáp thông tin 
về Trần Hữu Độ được viết ở biên mục 
số 69 từ trang 168 - 169: 
“Trần Hữu Độ, người Gò Công, Nam 
Bộ; không rõ ông sinh năm nào, là 
một nhân sĩ yêu nước nên sớm để 
tâm trước thuật. Từ năm 1925 đến 
1929, ông cho xuất bản những tác 
phẩm tiến bộ như Tiếng chuông truy 
hồn, Hồi trống tự do... 
Năm 1939 khi Mặt trận Dân chủ Đông 
Dương ra đời, ông là đảng viên Đảng 
Cộng sản Đông Dương, hoạt động rất 
tích cực, ông mất năm 1939. 
Các tác phẩm của ông như: Cách làm 
giàu, Sài Gòn, Nhà in Lê Mai, 1924, 
16 trang, P. 7892(7); Thanh niên tu 
độc. Sài Gòn, Bảo Tồn, 1928, 51 trang, 
M. 5476(21) - in lần hai, M. 5616(10); 
Tiếng chuông truy hồn. Sài Gòn, Nhà 
in Imprimerie du Centre, 1926, 20 
trang, M. 4394(26); Hồn độc lập. Sài 
Gòn, Xưa nay, 1926, 25 trang, M 
4650(14); Anh hùng tạo thời thế, Sài 
Gòn, Nhà in Réveil saigonnais, 1926, 
40 trang. M. 4649(20); Hồi trống tự do. 
Sài Gòn, Nhà in Imprimerie du Centre, 
1926, 17 trang, M. 4649(4) - in lần thứ 
hai, Sài Gòn, Xưa nay, 1926, 57 trang 
M. 4813(14); Tờ cớ mất quyền tự do, 
Sài Gòn, Réveil Saigonnais, 1926, 72 
trang. M. 4895(3); Tinh thần tư trợ, Sài 
Gòn, Xưa nay, 1927, 38 trang, M. 
4650(26); Thần quyền lợi, Sài Gòn, 
Bảo Tồn, 1927, 18 trang, M. 4650(27)”. 
Về tác phẩm của Trần Hữu Độ, ngoài 
các tác phẩm Trần Văn Giáp đã đề 
cập, Bằng Giang (1992) đã liệt kê 
thêm bốn tác phẩm là: Cây dù gãy của 
nước Việt Nam (1925); Biện chứng 
pháp (1936); Mười công thức của Karl 
Marx làm cơ sở duy vật sử quan 
(1936); Đế quốc chủ nghĩa (1937). 
Nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu trong 
công trình Sự phát triển của tư tưởng 
ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách 
mạng tháng Tám (tập 2) (1975), cũng 
có đề cập đến tác giả Trần Hữu Độ 
trong hai đoạn viết với ba điểm chủ 
yếu sau: 
(1) Trần Hữu Độ là chủ nhân của Tồn 
Việt thư xã, thư xã này làm nhiều sách 
căn cứ vào tác phẩm của Khang Hữu 
Vi, Lương Khải Siêu, của cuộc vận 
động “tân văn hóa” Trung Quốc, ít 
nhiều bàn đến lý luận, tư tưởng. Về 
tính chất tư tưởng của thư xã này 
trong tình hình vận động chính trị đầu 
thế kỷ XX, Trần Văn Giàu có nhận xét: 
Các tài liệu của Phan Bội Châu và các 
chí sĩ đầu thế kỷ “đều là văn chương 
cổ vũ lòng yêu nước”, ý là các tài liệu 
này chỉ là tài liệu cổ động mà thôi, nó 
thiếu lý luận hay tư tưởng về đấu 
tranh cách mạng. Trong khi đó các tài 
liệu của Tồn Việt thư xã do Trần Hữu 
Độ phổ biến được ông nhận xét là có 
tư tưởng độc đáo: “Tuy vậy, Tồn Việt 
thư xã có một ít sách đạt một mức tư 
tưởng độc đáo nào đó” (Trần Văn 
Giàu, 1975: 554). 
(2) Trong khi phân tích và nhận xét về 
tinh thần yêu nước thể hiện qua các 
thư xã: Nam Đồng thư xã, Cường Việt 
thư xã, Tồn Việt thư xã, Trần Văn 
Giàu có điểm bình sách Thanh niên tu 
độc của Trần Hữu Độ. Ông cho rằng 
HUỲNH VĨNH PHÚC – ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẦU THẾ KỶ XX 
77 
lập luận dựa trên thuyết tiến hóa của 
Thanh niên tu độc có điều lợi làm cho 
mọi người thấy được căn nguyên mất 
nước là do mình yếu hèn, rồi từ đó 
thúc đẩy tinh thần tự cường, nhưng có 
cái hại là nó dựa vào lý luận “vật cạnh 
thiên trạch”, “ưu thắng liệt bại” của 
thuyết tiến hóa để biện minh cho sự 
xâm lược của thực dân, “xóa án cho 
thực dân đế quốc”. Ông viết: “Lập luận 
của tác giả Thanh niên tu độc vô hình 
trung xui bạn đọc nghĩ rằng, nếu như 
thế, sự đi xâm phạm tự do của người 
khác là do bị thúc đẩy bởi quy luật 
khách quan, tự nhiên và nghiêm khắc, 
cho nên xét kỹ thì không phải là một 
cái tội” (Trần Văn Giàu, 1975: 564). 
Tuy nhiên, ông cũng đánh giá rất cao 
tác động tích cực của Thanh niên tu 
độc đến sự phấn phát tinh thần của xã 
hội. Quan điểm nhấn mạnh, khẳng 
định vai trò của dân với tiền đồ thịnh 
suy của dân tộc ở câu “xin đừng trông 
mong ở một hai người mà phải trông 
mong ở nơi muôn triệu người” trong 
Thanh niên tu độc đã được Trần Văn 
Giàu (1975: 571) tán thưởng “thật là 
có ý nghĩa của phát triển tư tưởng”. 
Trần Văn Giàu cho rằng vào những 
năm cuối thập niên 20 đầu thập niên 
30 thế kỷ XX lý luận của thuyết tiến 
hóa về tiến bộ xã hội đã bị thay thế 
bằng lý luận cách mạng, nên tuy 
không tán thành cách lý giải về độc 
lập - nô lệ dựa trên cơ sở tiến hóa 
luận của Thanh niên tu độc, nhưng 
Trần Văn Giàu (1975: 571) có nhiều 
nhận xét đề cao Thanh niên tu độc: 
“Trần Hữu Độ đáp ứng một nhu cầu 
của tình hình xã hội là hô hào tuổi trẻ 
trông cậy ở mình, tin tưởng vào sức 
mình, lo rèn luyện chí khí anh hùng 
của mình, góp sức làm cho cả dân tộc 
thành dân tộc anh hùng”. Hay là khi 
nhận xét về những yếu tố nho giáo 
trong suy tư và lập luận của Trần Hữu 
Độ, ông viết: “Tư tưởng rất cũ trong 
kho võ khí tinh thần xưa mà vẫn còn 
thiết thực hết sức cho cuộc đấu tranh 
hiện đại” và “cũng là vũ khí tư tưởng 
xưa còn tác dụng mạnh đời nay” (Trần 
Văn Giàu, 1975: 573). 
(3) “Đến những năm 30 thì chủ nhân 
của Tồn Việt thư xã hăng hái trở 
thành người theo chủ nghĩa Mác - 
Lênin tuy tuổi đã gần già” (Trần Văn 
Giàu, 1975: 573). 
Với thông tin trên cho thấy, Trần Văn 
Giàu đã đánh giá cao về sự đóng góp 
của Trần Hữu Độ với cuộc vận động 
chính trị đương thời. 
Ngoài ra, qua 2 tác phẩm Từ điển 
nhân vật lịch sử Việt Nam và Văn học 
miền Nam nơi miền đất mới cũng có 
sự ghi nhận của các tác giả về tiểu sử 
và tư tưởng Trần Hữu Độ. 
Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt 
Nam (Nguyễn Q Thắng - Nguyễn Bá 
Thế, 1991: 837-838): Trần Hữu Độ 
(1887 - 1945) được biết đến là nhà yêu 
nước, nhà văn, tự là Quân Hiến, quê 
ở Láng Thé, huyện Càng Long, tỉnh Trà 
Vinh. Ông xuất thân từ gia đình nông 
dân có học chữ quốc ngữ, chữ Pháp. 
Năm 1902 ông lên Sài Gòn tiếp xúc 
với các nhà yêu nước Trương Gia 
Tuân, Trương Gia Mô và các thân 
hữu Nguyễn Minh Chiếu, Nguyễn Viên 
Kiều, Trần Chánh Chiếu. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
78 
Năm 1912 ông kết hôn với người em 
gái của Trương Gia Tuân, sống tại Sài 
Gòn, làm báo viết văn. 
Ông là người chịu ảnh hưởng thuyết 
duy vật sớm nhất ở miền Nam, xuất 
bản sách biên khảo về chính trị, xã hội, 
dịch nhiều sách về chủ nghĩa dân 
quyền của các tác giả Trung Quốc. 
Tác phẩm của ông có nhiều ảnh 
hưởng trong giới học thuật. 
Năm 1928, ông bị bắt giam tại Khám 
Lớn Sài Gòn, sách bị tịch thu. Ông và 
các bạn tù tuyệt thực phản đối. Ông bị 
án 18 tháng tù với tội “xúi dân làm 
loạn”. 
Năm 1936, ông được trả tự do, hoạt 
động công khai trong phong trào Đông 
Dương đại hội, thành lập Tân văn hóa 
tùng thư. Thời gian này ông chịu ảnh 
hưởng học thuyết Mác xít rất rõ nét. 
Năm 1941, ông bị Pháp bắt đày đi Bà 
Rá, năm 1943 được trả tự do. Ra tù 
ông hoạt động cho Đảng Cộng sản 
Đông Dương ở Sài Gòn, vận động 
thành lập Đông Dương văn sĩ liên 
đoàn. 
Tháng 2/1945, ông mất tại Sài Gòn, 
thọ 68 tuổi(1). 
Tác phẩm Văn học miền Nam nơi 
miền đất mới (Nguyễn Q Thắng, 2007). 
đề cập đến Trần Hữu Độ từ trang 
1.076 đến trang 1.080, nhưng có sự 
lặp lại những tài liệu, thông tin của 
Bằng Giang đã nói đến trong Văn học 
quốc ngữ Nam Kỳ 1865 - 1930. 
2.2. Tự do - tâm điểm đấu tranh 
chính trị dân quyền của Trần Hữu 
Độ 
Trong bối cảnh đấu tranh chính trị dân 
quyền và truyền bá tư tưởng dân 
quyền đầu thế kỷ XX, Trần Hữu Độ đã 
chọn hai từ “tự do” làm tâm điểm để 
thể hiện quan điểm chính trị của mình. 
Thông qua việc đề xướng tự do, yêu 
cầu tự do, kêu gọi tranh đấu cho tự do, 
ông đưa ra những diễn ngôn về dân 
quyền, khẳng định các quyền của 
người dân, phê phán trực diện, thẳng 
thắn và mạnh mẽ thể chế chính trị 
thực dân Pháp. Trong Hồi trống tự do 
xuất bản năm 1923, Trần Hữu Độ 
(1926a: 1) đã định nghĩa khái niệm về 
tự do: “Tự do là gì? – Tự do nghĩa là: 
Mình muốn làm chi tự ý mình, hay là 
mình không làm, mà hễ làm việc chi 
cũng không trái pháp luật. Cái tự do là 
cái biểu chứng của cái quyền lợi”. Sau 
khi định nghĩa khái niệm tự do, ông 
đặt ra vấn đề tự do của nước Việt 
Nam: “Hỏi lại trong nước Việt Nam ta 
có tự do hay không? – Có chớ, trong 
nước Việt Nam ta có tự do, song dân 
Annam bấy lâu ngơ ngác không biết 
dùng đến, bỏ trôi cho dị chủng giành 
giựt hết” (Trần Hữu Độ, 1926a: 1). Nói 
“có tự do” là ông đứng trên quan niệm 
của triết học chính trị nhân quyền, 
khẳng định quyền tự do là cái quyền 
tự nhiên vốn có của con người, quyền 
này không phụ thuộc vào sự công 
nhận hay ban bố của người khác. Hễ 
đã là người trong chốn nhân gian là 
tất nhiên có quyền tự do. Tuy nhiên, 
theo nhận định của ông, dân ta đối với 
những quyền tự do của mình “chỉ nghi 
nghi ngại ngại như tuồng chiêm bao 
không hiểu gì hết” (Trần Hữu Độ, 
1926a: 1). Ông nhận xét rằng dân ta 
HUỲNH VĨNH PHÚC – ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẦU THẾ KỶ XX 
79 
thấy người cấm đoán thì run sợ là vì 
“dân ta chưa hiểu rõ hai chữ tự do”, vì 
dân không biết rằng mình vốn có các 
quyền tự do không ai ngăn cấm được, 
trong khi đó ở các nước văn minh 
người dân ý thức rất mạnh mẽ về 
quyền tự do của họ, “các nước văn 
minh bên Âu, Mỹ người ta đặng 
hưởng cái quyền tự do rồi, thì cái 
quyền tự do ấy, chẳng phải chánh phủ 
cầm được, quốc dân cầm mà thôi” 
(Trần Hữu Độ, 1926a: 2). Vì dân mình 
không hiểu tự do, không yêu cầu tự 
do, không tranh đấu giành quyền tự 
do, không cương quyết bảo vệ tự do 
của mình nên “những việc chi mà dân 
Annam ta may mà đặng gọi là tự do 
đó, thì đều nhờ chánh phủ cho phép, 
không cấm cản, gọi là tự do của 
Annam ta! Mà nhứt thời chánh phủ 
cấm đi, tức thì sự tự do ấy tiêu tan 
mất hết, không còn bóng dạng chi 
nữa Như vậy thì dân Annam ta chỉ 
có cái nô lệ tự do đó thôi” (Trần Hữu 
Độ, 1926a: 2). Thuật ngữ hay là khái 
niệm “nô lệ tự do” do Trần Hữu Độ 
viết ra đã cực tả cái tình trạng ma mị 
của chính trị thực dân ở Việt Nam thời 
kỳ đầu thế kỷ XX, cực tả cái thân phận 
bi thảm của người Việt Nam: Tự do 
làm nô lệ. Dân Việt Nam tự do làm nô 
lệ, là một nhận định được Trần Hữu 
Độ viết ra đầy phẫn uất nhưng cũng 
đầy lý tính sắc bén khi nhìn về thực 
trạng của dân tộc mình. Vì “nô lệ tự 
do” nên một dân tộc hai mươi triệu 
dân “không có một người nào được 
gọi là tự do”, con người Việt Nam chỉ 
có “cái hình chất của sinh mạng” mà 
không có được “cái tinh thần của sanh 
mạng”, cho nên người Việt Nam “thì 
khác chi một con thú vậy” (Trần Hữu 
Độ, 1926a: 2). 
Tiếp theo Hồi trống tự do, Trần Hữu 
Độ xuất bản Tờ cớ mất quyền tự do 
(1926). Trong tác phẩm này ông đã 
đặt nổi bật 4 quyền tự do: 1) Tự do về 
chánh trị; 2) Tự do về tôn giáo; 3) Tự 
do về dân tộc; 4) Tự do về kinh tế. 
Bốn quyền tự do đó là điểm khác biệt 
căn bản giữa “hắc ám thời đại” – thời 
đại của chuyên chế, độc đoán, áp 
bức - và “văn minh tự do” – thời đại 
chánh trị tự do, thời đại dân tộc tự do, 
thời đại sanh kế tự do. Vì cho rằng hai 
chữ tự do là đặc điểm chính yếu của 
lịch sử thế giới cận hiện đại, ông đã 
trình bày một niên biểu lịch sử của các 
cuộc vận động tự do bắt đầu từ năm 
1524 với cuộc vận động tự do tân giáo 
ở Thụy Sĩ và đến năm 1925 với cuộc 
khởi nghĩa của Maroc chống lại thực 
dân Pháp và Tây Ban Nha để giành tự 
do cho dân tộc. Qua bảng niên biểu 
đó, ông khẳng định tự do là động lực 
của lịch sử: “từ mấy trăm năm nay 
những cái đại sự trong thế giới không 
có việc nào mà chẳng phải bởi nơi cái 
động lực của tự do mà ra” (Trần Hữu 
Độ, 1926b: 8). Tại đây, về mặt thuật 
ngữ, chúng tôi nhận thấy thuật ngữ 
“động lực của tự do” được Trần Hữu 
Độ viết ra vào năm 1926 có một ý 
nghĩa đặc biệt cả ở phương diện ngôn 
ngữ lẫn phương diện tư tưởng. Sở dĩ 
chúng tôi chú ý như vậy là vì trong 
thập niên thứ hai của thế kỷ XXI 
(2013), tức là khoảng 100 năm sau đó, 
trong tác phẩm Freedom Rising: Human 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
80 
Empowerment and the Quest for 
Emancipation (Tự do bừng lên: sự trao 
quyền cho con người và yêu cầu giải 
phóng), Christian Welzel, nhà xã hội 
học chính trị người Đức, đã coi tự do 
như là động lực phát triển của các xã 
hội đương đại, ông đã đưa ra một lý 
thuyết về sự liên hệ giữa “tự do - phát 
triển”/và “không tự do - kém phát triển” 
(Welzel, C. 2013). Vì tự do là động lực 
phát triển, tiến bộ nên Trần Hữu Độ 
kêu gọi người dân Việt Nam phải “đi 
tìm kiếm mà đòi lại tự do” đã bị mất, và 
vì tự do là quyền tự nhiên nên ông 
nhấn mạnh “kêu bằng đòi chớ chẳng 
phải xin” (Trần Hữu Độ, 1926b: 9). 
Tờ cớ mất quyền tự do ghi rõ những 
quyền tự do dân tộc Việt Nam bị mất: 
1) Quyền tự do tham dự vào quyền 
chánh trị; 2) Quyền tự do dân tộc kiến 
quốc; 3) Quyền tự do hội tập lại đông 
người; 4) Quyền tự do xuất bản; 5) 
Quyền tự do ngôn luận; 6) Quyền tự 
do trước thuật; 7) Quyền tự do hành 
động; 8) Quyền tự do giao thông (Trần 
Hữu Độ, 1926b: 10). 
Dưới ngòi bút của Trần Hữu Độ 
(1926b: 11), thuật ngữ “tự do” - được 
viết hoa “Tự do” - xuất hiện trong tình 
thái ngữ cảnh tràn đầy cảm xúc thống 
thiết: “Đồng bào ơi! Phải biết: cái Tự 
do là biểu chứng của cái quyền lợi, cái 
Tự do là cái tinh thần của sanh mạng 
ta”. Trong diễn đạt ngôn ngữ của Trần 
Hữu Độ, từ “phải biết” hàm ý rằng “tự 
do” là một tri thức, và tri thức về tự do 
“là cái quốc não là trí tuệ là trình độ tri 
thức của dân tộc”, và trong thế giới 
hiện đại khi kiến thức trở thành yếu tố 
quyết định cho sự cạnh tranh sinh tồn 
và đua chen tiến bộ “lấy óc mà chọi 
với óc” (Trần Hữu Độ, 1926b: 18) thì 
trình độ dân trí là nền tảng sức mạnh 
của quốc gia (Tân Nam Tử, 1925: 17). 
3. KẾT LUẬN 
Trong bối cảnh của cuộc đấu tranh 
chính trị dân quyền đầu thế kỷ XX, 
chúng ta nhận thấy thông qua các tác 
phẩm có tính chính luận, Trần Hữu 
Độ đã đóng góp rất nhiều vào việc 
truyền bá tư tưởng dân quyền, cổ xúy 
tranh đấu dân quyền. Bằng văn 
phong, ngôn ngữ và cách lập luận 
riêng, Trần Hữu Độ đã cất lên một 
tiếng nói độc đáo và tràn đầy cảm xúc 
mạnh mẽ cho tương lai độc lập và 
tiến bộ của dân tộc.  
CHÚ THÍCH 
(1)
 Năm mất của Trần Hữu Độ theo công trình nghiên cứu này là 1945, khác với công trình 
nghiên cứu của Trần Văn Giáp ở trên cho rằng ông mất năm 1939. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bằng Giang. 1992. Văn học quốc ngữ Nam Kỳ 1865 - 1930. TPHCM: Nxb. Trẻ. 
2. Lê Ấm (dịch). 1983. Thơ văn Phan Châu Trinh. Hà Nội: Nxb. Văn học. 
3. Nguyễn Q Thắng. 2007. Văn học miền Nam nơi miền đất mới. Hà Nội: Nxb. Văn học. 
4. Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Bá thế. 1991. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Hà Nội: 
Nxb. Khoa học Xã hội. 
HUỲNH VĨNH PHÚC – ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẦU THẾ KỶ XX 
81 
5. Nguyễn Thành. 1984. Báo chí cách mạng Việt Nam 1925 - 1945. Hà Nội. 
6. Nguyễn Văn Trấn. 1981. Chúng tôi làm báo. TPHCM: Nxb. TPHCM. 
7. Phương Lan. 1970. Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Sài Gòn 
8. Tân Nam Tử. 1925. Dân đạo và dân quyền. Sài Gòn: Nhà in Xưa-Nay. 
9. Trần Hữu Độ. 1926a. Hồi trống tự do. Sài Gòn: Nhà in Imprimerie du Centre; in lần 
thứ hai năm 1926. Nhà in Xưa-Nay. 
10. Trần Hữu Độ. 1926b. Tờ cớ mất quyền tự do. Sài Gòn: Réveil saigonnais. 
11. Trần Văn Giáp. 1972. Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 2. Hà Nội. 
12. Trần Văn Giàu (chủ biên). 1987. Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. TPHCM: 
Nxb. TPHCM. 
13. Trần Văn Giàu. 1975. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách 
mạng tháng Tám (tập 2). TPHCM: Nxb. TPHCM. 
14. Welzel, C. 2013. Freedom Rising: Human Empowerment and the Quest for 
Emancipation. Cambridge University Press. 

File đính kèm:

  • pdfdau_tranh_chinh_tri_dau_the_ky_xx_va_tu_tuong_tu_do_dan_quye.pdf