Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội ok om bok của người Khmer nam bộ

Từ lâu, lễ hội cúng trăng (Ok Om Bok) của người Khmer Nam Bộ là đề tài hấp dẫn được nhiều tác giả nghiên cứu theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau (lễ hội nông nghiệp, lễ hội truyền thống, lễ hội Phật giáo Nam tông Khmer ). Trên cơ sở lý thuyết về biểu tượng luận (symbolism) và văn hóa so sánh (comparative culture theory), bài viết này tập trung phân tích nét tương đồng và khác biệt giữa lễ hội Ok Om Bok với các lễ hội của Ấn Độ. Từ đó, nhận diện dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội cúng trăng của người Khmer với lớp văn hóa chịu ảnh hưởng Hindu giáo và Phật giáo từ Ấn Độ.

pdf 15 trang thom 04/01/2024 2080
Bạn đang xem tài liệu "Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội ok om bok của người Khmer nam bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội ok om bok của người Khmer nam bộ

Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội ok om bok của người Khmer nam bộ
52 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
TRƯƠNG THỊ KIM THỦY* 
DẤU ẤN VĂN HÓA ẤN ĐỘ TRONG LỄ HỘI 
OK OM BOK CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ 
Tóm tắt: Từ lâu, lễ hội cúng trăng (Ok Om Bok) của người Khmer 
Nam Bộ là đề tài hấp dẫn được nhiều tác giả nghiên cứu theo 
nhiều hướng tiếp cận khác nhau (lễ hội nông nghiệp, lễ hội truyền 
thống, lễ hội Phật giáo Nam tông Khmer). Trên cơ sở lý thuyết 
về biểu tượng luận (symbolism) và văn hóa so sánh (comparative 
culture theory), bài viết này tập trung phân tích nét tương đồng và 
khác biệt giữa lễ hội Ok Om Bok với các lễ hội của Ấn Độ. Từ đó, 
nhận diện dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội cúng trăng của người 
Khmer với lớp văn hóa chịu ảnh hưởng Hindu giáo và Phật giáo từ 
Ấn Độ. 
Từ khóa: Lễ hội, cúng trăng, Khmer, Nam Bộ, văn hóa, Ấn Độ, 
Hindu giáo, Phật giáo. 
1. Dẫn nhập 
Lễ hội Ok Om Bok còn gọi là lễ cúng trăng, nó là một trong ba lễ hội 
lớn của người Khmer Nam Bộ. Có rất nhiều công trình nghiên cứu mô tả 
về lễ hội, hoặc tìm hiểu những giá trị văn hóa, ý nghĩa của lễ hội từ một 
lễ hội nông nghiệp đến lễ hội Phật giáo. Qua việc tìm hiểu ấy, cũng có 
nhiều hoài nghi về lớp tàn tích Hindu giáo trong lễ hội Ok Om Bok. Vì 
vậy, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin tiếp cận lễ hội Ok Om Bok 
từ việc tìm hiểu những biểu tượng thiêng trong lễ hội, tham chiếu với 
những lễ hội Ấn Độ được cho là có chung nguồn gốc, qua đó có thể thấy 
được dấu ấn văn hóa Ấn Độ thể hiện trong lễ hội Ok Om Bok như thế 
nào. Hướng tiếp cận này không đơn thuần là so sánh “khập khiễng” các 
lễ hội, mà là đối chiếu các hiện tượng văn hóa (cụ thể ở đây là lễ hội Ok 
Om Bok của người Khmer Nam Bộ và các lễ hội Ấn Độ như Diwali, 
Chhat Puja, Kartika Poornima), để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt1. 
Theo Đỗ Thu Hà: “Biểu tượng là một ngôn ngữ cho phép chuyển tải một 
cách cô đọng và hình ảnh những sự việc hay tư tưởng nào đó. Hình ảnh 
*
 Trường Đại học Cần Thơ. 
Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ... 53 
đó thể hiện bộ phận nhưng lại gợi ra toàn bộ. Biểu tượng là một “cái biểu 
đạt” thay thế Hệ biểu tượng chỉ có thể được giải thích theo nền văn hóa 
mà nó bắt nguồn. Và sự liên hệ mang tính chất văn hóa này phải có niên 
đại liên quan tới sự tiến hóa của chính nền văn hóa ấy”2. Vì vậy, việc tìm 
hiểu cội nguồn văn hóa Ấn Độ (cụ thể ở đây là Hindu giáo và Phật thoại 
gắn liền với Đức Phật Thích Ca) trong lễ hội Ok Om Bok của người 
Khmer Nam Bộ là cần thiết khi giải thích các biểu tượng văn hóa xuất 
hiện trong các lễ hội kể trên như biểu tượng Mặt Trăng, lửa và nước. 
2. Về lễ hội OK OM BOK 
Lễ hội cúng Trăng, còn gọi là lễ hội Ok Om Bok. Tiếng Khmer “Ok” 
nghĩa là đút, “Om Bok” nghĩa là cốm dẹp3. Lễ hội này thường được tổ 
chức vào ngày 14 và 15 tháng Ka-Đâk (tức tháng 12 theo lịch pháp của 
người Khmer Nam Bộ). Nếu so sánh với lịch pháp của người Việt thì lễ 
hội diễn ra trong khoảng thời gian từ ngày 13 đến 16 Âm lịch. Đây là 
khoảng thời gian chuyển từ mùa mưa sang mùa nắng - mùa gieo trồng 
sắp chấm dứt và mùa thu hoạch đang sắp bắt đầu. Theo quan niệm của 
người Khmer, Mặt Trăng được tôn kính như một vị thần có nhiệm vụ cai 
quản, điều tiết thời gian, thủy văn và thời tiết. Do đó, lễ cúng Trăng là sự 
đưa tiễn mùa mưa, chào đón mùa khô và tạ ơn thần Mặt Trăng đã ban cho 
một mùa màng tốt tươi. 
Lễ hội Ok Om Bok thường được người Khmer Nam Bộ tổ chức trong 
phạm vi gia đình hoặc ở chùa, cũng như ở các nơi sinh hoạt cộng đồng 
như trường hợp người Khmer ở Trà Vinh thường tổ chức tại Ao Bà Om, 
một trong những thắng cảnh tiêu biểu của tỉnh. Diễn trình của lễ hội bao 
gồm các nghi lễ như: đua ghe Ngo, lễ cúng trăng, lễ đút cốm dẹp, lễ đưa 
nước hay còn gọi là lễ thả đèn nước và lễ thả đèn gió. 
Ngày đầu của lễ hội (ngày 14 tháng Ka Đâk) sẽ diễn ra các hoạt động 
như trò chơi dân gian (kéo co, đập nồi, leo cột, nhảy bao, đẩy gậy, đi cà 
kheo,), các môn thể thao (chạy việt dã, bóng chuyền) và đặc biệt là hội 
đua ghe Ngo. Không như những lễ hội khác, lễ hội Ok Om Bok có phần 
hội được diễn ra vào ban ngày và tiến hành trước những nghi lễ cúng 
Trăng diễn ra vào ban đêm. Trong các hoạt động tổ chức ban ngày, đua 
ghe Ngo là một trong những nghi lễ đặc biệt làm nên đặc sắc riêng của lễ 
hội Ok Om Bok so với các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam 
Bộ. Ghe Ngo, thường được làm bằng gỗ cây Sao nguyên vẹn, hình dáng 
dài như con thoi, đầu và đuôi cong lên, đặc biệt ghe này không có mui, có 
54 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
chiều dài từ 25m - 27m, với khoảng 20 đến 24 khoang, sức chứa 50 - 60 
người ngồi chèo. Thân ghe Ngo sơn màu đen, trên be sơn có một vệt màu 
trắng, vàng hoặc đỏ, thường tượng trưng cho các loài chim có màu sắc 
đẹp, hoặc các loài vật vừa đẹp vừa nhanh nhẹn, để thể hiện sức mạnh của 
từng ghe một. Trong tâm thức của người Khmer Nam Bộ, đua ghe Ngo là 
một hoạt động rước nước. Nếu không tham gia, phum sóc của họ sẽ 
không được thuận lợi trong gieo trồng4. 
Ngày thứ hai của lễ hội Ok Om Bok, các nghi lễ chủ yếu diễn ra vào 
ban đêm. Trong số những nghi lễ này, quan trọng nhất là cúng Trăng. 
Thời điểm tổ chức là ban đêm khoảng từ 19 giờ khi Trăng tròn bắt đầu 
nhô lên khỏi ngọn cây. Lễ cúng Trăng thường được tổ chức ở gia đình và 
tại các chùa hoặc các điểm cộng đồng trong phum sóc. Các lễ vật cúng 
Trăng, nhìn chung là những nông sản mà nông dân tự sản xuất ra được 
như: khoai môn, khoai mì, dừa tươi, chuối xiêm chín, các loại bánh làm 
từ chất bột gạo, nếp hoặc các loại trái cây, hoa quả đặc biệt, lễ vật quan 
trọng làm nên tinh thần của buổi lễ là cốm dẹp, nhang đèn, bó hoa tươi, 
salatho (cây bông) và nước có hương thơm. Hình thức cúng Trăng ở từng 
gia đình tuy đơn giản nhưng có ý nghĩa sâu sắc. Vào buổi tối ngày rằm, 
các thành viên quây quần cùng nhau chuẩn bị vật cúng trên một chiếc 
bàn, được đặt trước sân nhà. Khi Mặt Trăng nhô lên cao và thấy rõ nhất 
(không bị mây che hay khuất sau các cành cây) người cúng (thường là gia 
chủ) đứng quay mặt về phía Mặt Trăng khấn nguyện; các thành viên 
trong gia đình trải chiếu ngồi trước bàn cúng và cũng chắp tay trước ngực 
hướng về Mặt Trăng. Gia chủ tiến hành thắp nhang khấn lạy “Ô, Đét đét 
ches, hôm nay là ngày Kômuti rằm tháng Ka Đâk, chúng con ở đây xin 
cảm ơn thần Mặt Trăng, thần là chủ nhân của đất và nước, đã phù hộ gia 
đình chúng con được khỏe mạnh, vụ mùa bội thu. Cầu mong thần tiếp 
nhận lễ vật và chứng giám lòng thành, tha thứ cho những lỗi lầm mà gia 
đình đã gây ra và xúc phạm đến thần, mong thần Mặt Trăng tiếp tục phù 
hộ cho gia đình được những vụ mùa bội thu”. 
Nghi lễ cúng trăng ở chùa hoặc một địa điểm chung nào đó của cộng 
đồng. Quy mô của nó lớn hơn so với các hộ gia đình vì nó mang tính 
cộng đồng của phum sóc. Vào buổi chiều ngày Rằm, người dân trong 
phum sóc chuẩn bị vật cúng, chủ yếu là nông sản do họ tự trồng và thu 
hoạch được. Đến tối, trước khi vào lễ, các vị sư và Phật tử làm lễ tụng 
kinh cầu an. Sau đó, mọi người tập trung ngồi ở những chiếc chiếu trải 
trước bàn cúng, chắp tay trước ngực hướng về phía Mặt Trăng khấn 
Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ... 55 
nguyện. Vị Acha (thầy cúng) đóng vai trò chủ tế, đứng ở bàn lễ, hướng về 
Mặt Trăng thắp nhang khấn lạy “Ô, Đét đét ches, hôm nay là ngày 
Kômuti rằm tháng Ka Đâk, chúng con và mọi người ở đây xin cảm ơn 
thần Mặt Trăng, thần là chủ nhân của đất và nước. Thần đã phù hộ cho 
chúng con và mọi người ở đây một năm qua khỏi bệnh tật, mùa màng 
tươi tốt. Lâu nay chúng con và mọi người ở đây đã cày bừa, cuốc xới, 
trồng trọt, tắm giặt lên thần. Nhân dịp này, chúng con và mọi người ở 
đây mong thần hãy rộng lòng tha thứ, xóa bỏ tội lỗi ấy và tiếp tục làm 
cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, chúng con và mọi ngưởi ở 
đây được no đủ, bình yên; vạn vật đều sinh sôi nảy nở”5. 
Sau nghi lễ cúng Trăng, tại gia đình và chùa đều tiến hành nghi lễ đút 
cốm dẹp. Người cao tuổi nhất trong gia đình hoặc Acha sẽ gọi những đứa 
trẻ đến xếp thành hàng và lấy một ít cốm dẹp cho vào lòng bàn tay đút 
vào miệng những đứa trẻ. Không chỉ đút cốm dẹp mà những đứa trẻ còn 
được đút kèm theo chuối, khoai Việc đút thức ăn đầy miệng được 
người Khmer cho là thể hiện sự sung túc dư dả. Sau đó, những đứa trẻ sẽ 
được người lớn tuổi hỏi về ước nguyện của chúng và sẽ vỗ nhẹ vào lưng 
đứa trẻ ba lần và nói “con sẽ được như ý nguyện”6. 
Hai nghi lễ cuối cùng trong lễ hội Ok Om Bok là nghi lễ thả đèn gió và 
thả đèn nước vô cùng hấp dẫn. Đèn gió của người Khmer Nam Bộ không 
quy định kích cỡ cụ thể. Đèn nhỏ nhất thường có đường kính khoảng 
0.8m, cao khoảng 1.2m; còn đèn lớn nhất thường có đường kính 3m, cao 
khoảng 7m. Đèn được làm bằng chất liệu giấy quyến hoặc các loại giấy 
bóng dán kín. Phía dưới đèn là một khối trụ, người ta dùng dây chì thắt 
thành hình tổ nhện và dùng bông tẩm dầu lửa pha nhớt cặn để làm cháy 
hết lớp không khí bên trên lồng, tạo ra sự chênh lệch áp suất. Nhờ đó tạo 
ra một lực đưa lồng đèn bay lên cao. Bên cạnh nghi lễ thả đèn gió, người 
Khmer còn tổ chức thả đèn nước hay còn gọi là hoa đăng. Đèn nước của 
người Khmer được làm theo nhiều kiểu khác nhau tuy nhiên vẫn phải 
đảm bảo có hai phần chính. Phần đế đèn, có thể sử dụng những vật liệu 
khác nhau như thân cây chuối, tấm xốp, kim loại. Phần thân đèn thường 
được làm bằng giấy, gỗ mô phỏng hình nhà ông thiên, mô hình chính 
điện chùa Phật giáo Nam tông Khmer, mô hình hoa sen, Trên mỗi đèn 
nước đều có một chén đựng bông gòn tẩm dầu dừa hoặc để đèn cầy và 
đốt lên khi thả xuống nước. Những đèn nước lớn thường được chế tác rất 
công phu, trang trí thêm hoa, nhang, vật cúng7. 
56 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
3. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội Ok Om Bok 
3.1. Về tâm linh trong lễ hội 
Như bao lễ hội khác của người Khmer Nam Bộ, lễ hội Ok Om Bok 
cũng gắn liền với nhiều câu chuyện lý giải nguồn gốc của lễ hội. Điều 
đặc biệt thú vị là những hướng lý giải mang đậm dấu ấn văn hóa Ấn Độ, 
cụ thể là sự hiện diện của Hindu giáo và Phật giáo Nam tông. 
Với truyền thống nông nghiệp lâu đời, người Khmer Nam Bộ luôn đặt 
niềm tin vào các nhiên thần để hỗ trợ cho việc canh tác vụ mùa. Vì thế từ 
xa xưa, Hindu giáo đã có một thời giữ vị trí quan trọng trong cộng đồng 
người Khmer. Nét đặc trưng của Hindu giáo thể hiện rõ qua hệ thống đa 
thần linh trong đời sống văn hóa tâm linh của người Khmer Nam Bộ. 
Hiện nay, tuy Phật giáo Nam tông giữ vai trò chủ đạo, nhưng lớp tàn tích 
Hindu giáo vẫn còn thể hiện trong tâm thức người Khmer qua tên gọi các 
vị thần trong câu truyện kể. Thật vậy, ít ai biết đến nguồn gốc lễ hội Ok 
Om Bok thể hiện trong câu chuyện dân gian về thần lúa Preas mê. Sự tích 
Preas Mê được Tiền Văn Triệu sưu tầm ở Sóc Trăng như sau: “Ngày xưa 
khi con người chưa biết trồng trọt, Preas mê tự mọc và tự bay vào nhà 
người dân trong phum sóc khi chín hạt. Mỗi lần như vậy, người dân khó 
chịu, chửi rủa và đuổi Preas Mê đi vì Preas Mê cuốn theo bụi bặm, rác cỏ 
vào nhà. Vì thế Preas Mê cảm thấy tức giận cho hành động vô ơn của con 
người và không bao giờ quay lại nữa. Từ khi Preas Mê không tự mọc và 
bay vào nhà, người dân đói kém, than khóc. Động lòng, thần đất Preas 
Tho Ra Ni báo mộng cho dân trong phum sóc hãy lấy những hạt lúa còn 
sót lại gửi vào thần Preas Tho Ra Ni. Sau khi được gửi vào Preas Tho Ra 
Ni, gặp được Preas Kong Kea (thần nước) và Preas Pray (thần không 
khí), kết hợp với Preas Akki (thần lửa-Mặt Trời) một thời gian, Preas Mê 
nảy mầm và trổ bông kết hạt. Người dân vui mừng và làm lễ tạ ơn tứ thần 
bằng cách mỗi gia đình lấy ít hạt Preas Mê thu hoạch đầu tiên đem ra 
trước sân nhà dưới đêm trăng tròn nhờ thần Mặt Trăng chứng giám tạ ơn 
tứ thần và cũng dâng lễ vật cho thần Mặt Trăng, cầu mưa thuận gió hòa, 
mùa màng tươi tốt”. Từ truyền thuyết này, nhiều người Khmer cao tuổi 
cho rằng lễ cúng Trăng có nguồn gốc từ tục cúng Preas Mê xa xưa. Câu 
truyện xa xưa này không chỉ lý giải nguồn gốc liên quan đến lễ hội cúng 
Trăng mà còn gợi lên sự hiện diện hệ thống đa thần Hindu giáo trong đời 
sống tâm linh của người Khmer Nam Bộ. Gắn liền với đời sống nông 
nghiệp, người Khmer Nam Bộ luôn đề cao vai trò của tứ thần: Thần 
Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ... 57 
Nước, Thần Đất, Thần Gió, Thần Lửa. Trong đó, thần Mặt Trăng là 
quyền lực nhất, chi phối các thần khác. Tên gọi các vị thần trong điển 
tích đa phần đều có gốc vay mượn từ tiếng Pali hoặc Sankrit. Các vị thần 
này cũng vô cùng quen thuộc trong Hindu giáo của người Ấn Độ. Cụ thể 
là, trong thần thoại Ấn Độ cũng có Thần Nước (Vanura) hay thần sông 
Hằng (Ganga)8, thần Đất (Prithivi)9, thần Gió (Vayu), Thần Mặt Trăng 
(Chandra) hay còn gọi là Sôma10, Sasi (“có dấu con thỏ”) và Thần Lửa 
(Agni)11. 
Bên cạnh đó, khi Phật giáo Nam tông có ảnh hưởng sâu đậm, truyền 
thuyết gắn với lễ hội Ok Om Bok thường được biết đến nhiều nhất là sự 
tích kể về tiền kiếp của Phật Thích Ca. Trong các kiếp của Đức Phật có 
một kiếp Ngài đã hóa thành con thỏ sống quanh bờ sông Hằng (Ganga). 
Lúc đó, thỏ kết bạn với khỉ, rái cá và chó rừng. Thỏ thông minh và hiểu 
biết nhiều hơn ba loài thú kia, nên thỏ đã biết tu thân để được gần các 
đấng cao cả. Ngoài ra cũng có dị bản về câu chuyện này khi các nhân vật 
có sự thay đổi gồm thỏ và người hành khất. Truyện kể về lúc Đức Phật 
chưa đắc đạo và còn trong hóa kiếp con thỏ. Lúc này, Ngọc Hoàng hóa 
thân thành người hành khất đói khát đến gặp thỏ xin bố thí. Nghe vậy, 
thỏ bèn nhờ vị hành khất chụm lửa rồi tự mình nhảy vào, dâng tặng bản 
thân mình vì sợ tìm những thức ăn khác sẽ mang tội sát sinh. Vừa lúc ấy, 
Ngọc Hoàng hiện lên, lấy nước từ bảy ngọn núi vẽ lên Mặt Trăng hình 
con thỏ ghi nhớ sự hy sinh của thỏ. Thật ra, những tích chuyện lý giải 
nguồn gốc của lễ hội Ok Om Bok đã được dân gian hóa từ câu truyện 
Phật giáo “Sự tích con thỏ và Mặt Trăng”. Phật thoại Ấn Độ cũng có 
nhắc đến câu truyện “Trăng và Thỏ” này như sau: “Một đạo sĩ muốn thử 
thách lòng người, mang bát chống gậy đi ăn xin từng nhà. Người cho cái 
này, kẻ cho cái kia. Riêng có một con thỏ chỉ có cỏ nhai, không biết nên 
cho đạo sĩ cái gì, bèn nhảy vào lửa, tự thiêu chính mình để dâng cho đạo 
sĩ ăn. Đạo sĩ xúc động trước tấm gương hy sinh vì nhân ái của con thỏ, 
thưởng cho con thỏ một cuộc sống bất tử, bằng cách cho nó lên cung 
trăng ở mãi trên đó. Từ đấy, người trần nhìn lên Mặt Trăng thấy vết đen, 
đó là bóng dáng con thỏ, nên họ gọi Trăng là thỏ luôn (tiếng Ấn Độ, Sasa 
là con thỏ hoặc vết đen trên Mặt Trăng, sasi là Mặt Trăng)”12. Qua đó, có 
thể thấy hình tượng con thỏ trong văn hóa Ấn Độ và trong những câu 
truyện cổ của người Khmer Nam Bộ (cụ thể ở đây là những truyền thuyết 
có liên quan đến giai thoại về Đức Phật) có sự giao lưu, tiếp biến. Với ý 
nghĩa là tiền kiếp của Phật Thích Ca trong cả hai nền văn hóa đã thấy 
58 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
được phần nào sự mờ nhạt dần của Hindu giáo, thay thế vào đó là sự ảnh 
hưởng mạnh mẽ của Phật giáo Nam tông13. 
Dù mức độ hiện diện Hindu giáo mờ nhạt hơn so với Phật giáo Nam 
tông trong lễ hội cúng trăng của người Khmer Nam Bộ nhưng không thể 
phủ nhận lớp tàn tích này vẫn còn ẩn sâu trong đời sống văn hóa của 
người Khmer. Thật vậy, ngày nay lễ hội cúng Trăng được tổ chức cả ở 
nhà, ở chùa, ở những điểm tụ họp c ...  chuyện thần thoại với sự 
giao tranh mạnh mẽ của các vị thần. Khác với điều đó, thiên nhiên vùng 
Nam Bộ khá hiền hòa, thuận lợi canh tác nông nghiệp nên trong nếp nghĩ, 
người Khmer Nam Bộ xem Mặt Trăng như một nữ thần, mang yếu tố âm 
tính vì gắn liền với đêm và yếu tố đất và nước21. Vì vậy, Mặt Trăng xuất 
hiện trong thần thoại người Khmer rất dịu dàng, biểu trưng cho sự biến 
đổi và sinh trưởng. Trong “Sự tích mưa, gió, Mặt Trời và Mặt Trăng”, 
Mặt Trăng hóa thân là người con út hiền lành, hiếu thảo trong một gia 
đình có 4 người con. Trong một lần đi ăn cỗ, ba người anh lớn mải lo ăn 
uống, chỉ có người em út khi ăn miếng ngon là nhớ chừa phần gói về cho 
mẹ. Nhưng trên đường về, ba người anh đã giật lấy phần của người em út 
để dành cho mẹ mà chia nhau ăn. Về sau, ba người anh lớn qua đời, hóa 
kiếp thành Mưa, Gió và Mặt Trời. Bên cạnh sự có ích thì nó cũng là yếu 
tố gây tai họa cho con người. Chẳng hạn như Mưa gây lũ lụt, Gió lớn làm 
hại mùa màng, làm ngà cây cối; còn Nắng hạn làm người dân không gieo 
cấy trồng trọt được. Điều này mang nét tính cách của ba người anh bất 
hiếu khi sống. Còn người em út hóa kiếp thành Mặt Trăng với ánh sáng 
dịu hiền, tươi mát tỏa rộng muôn nơi, giống như bản chất của người con 
hiếu thảo, biết yêu thương mẹ22. 
Xét tục thờ thần Mặt Trăng qua các lễ hội kể trên là xét đến nguồn 
gốc văn minh nông nghiệp lúa nước. Điều này thể hiện rõ qua các lễ vật 
và nghi lễ tổ chức lễ hội. Tất cả các lễ vật dâng cúng trong lễ hội đều là 
những nông sản, những sản vật do chính tay người dân làm ra - các loại 
bánh kẹo trong lễ hội Diwali; cơm, bột mì, chuối trong lễ hội Chhat 
Puja cầu Thần Mặt Trời; hoa và cây hung quế trong lễ hội Kartik 
Poornima cầu Thần Mặt Trăng; cốm dẹp trong lễ hội Ok Om Bok. 
Những nghi lễ thực hiện dâng cúng lễ vật nông nghiệp này hướng đến 
đối tượng là Mặt Trăng - yếu tố chính chi phối đến mùa màng trong 
canh tác nông nghiệp. 
3.2.2. Lửa và nước 
Phải chăng trước khi nhuộm màu Phật giáo Nam tông, lớp văn hóa 
Hindu giáo của người Ấn Độ vốn đề cao hai yếu tố thiêng là nước và lửa 
vẫn còn được lưu truyền, hòa quyện với văn hóa Phật giáo Nam tông 
cùng văn hóa bản địa của người Khmer Nam Bộ làm cho lễ hội cúng 
Trăng Ok Om Bok này càng thêm đặc sắc. 
62 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
Mặt Trăng và nước là yếu tố đi đôi với nhau trong hoạt động nông 
nghiệp. Cả hai đều được tôn thành thần, riêng yếu tố nước còn được biết 
đến là “mẹ” - đối tượng linh thiêng ban nguồn sống đến người dân. Thủy 
triều dâng lên, rút xuống là do chu kỳ Mặt Trăng chi phối và cũng ảnh 
hưởng đến mùa màng. Trong lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam 
Bộ và lễ hội Kartik Poornima cầu Thần Mặt Trăng của Ấn Độ, bằng 
nhiều nghi lễ khác nhau nhưng nhìn chung vẫn hướng về ý nghĩa là tỏ 
lòng biết ơn thần nước, mẹ sông và cũng gửi lời tạ lỗi đến vị thần này vì 
đã làm ô uế đến nguồn nước trong mọi sinh hoạt. 
Ở Ấn Độ, sông Hằng được miêu tả là dòng sông thần thánh và được 
tôn sùng thành nữ thần. Trong các truyền thuyết và huyền thoại cổ xưa 
của Ấn Độ, sông Hằng được nhắc đến nhiều lần trong mối liên hệ với 
nhiều vị thần khác như Śhiva và Vishnu. Vào thời trung cổ, hai nữ thần 
sông Hằng và sông Yamunā được khắc vào hai bên cổng vào của các ngôi 
đền Hindu giáo. Nữ thần sông Hằng thường được khắc họa trong hình 
dáng của một nữ nhân cưỡi cá sấu trắng, một biểu tượng cho sự nguy 
hiểm của chết chóc và sự sung túc của cuộc sống. Trong tâm thức tín đồ 
Hidu giáo, dòng sông này là nơi lưu xuất các nhánh sông thiêng. Họ tin 
rằng nước sông Hằng có thể hóa giải tội lỗi của mình và đạt đến sự giải 
thóat khỏi vòng luân hồi của sự sống và cái chết. Vào đầu mùa vụ, trước 
khi những hạt giống được gieo trồng, nông dân miền Bắc Ấn đặt lọ chứa 
nước sông Hằng vào một nơi đặc biệt trên cánh đồng để mong cầu một 
mùa bội thu23. Vì vậy, trong tất cả các lễ hội ở Ấn Độ đa phần đều gắn 
liền với nước từ địa điểm tổ chức đến những nghi thức thực hiện. Điển 
hình là lễ hội Chhat Puja cầu Thần Mặt Trời và lễ hội Kartik Poornima 
cầu thần Mặt Trăng, diễn ra trong khoảng thời gian linh thiêng Trăng tròn 
tháng Kartika; các nghi lễ đều thực hiện tại các sông hồ. Các tín đồ đều 
phải ngâm mình hành lễ tại các dòng sông để cầu nguyện vào khoảng 
thời gian thiêng là lúc Mặt Trời mọc, Mặt Trời lặn (lễ hội Chhat Puja) và 
lúc Trăng tròn (lễ hội Kartik Poornima). Sau nghi lễ họ phải mang nước 
thiêng ấy về nhà để tiếp tục khấn nguyện. Đồng thời các vật phẩm gửi 
đến cầu xin các vị thần đều được thả trôi trên những dòng sông nơi họ 
tắm mình cầu nguyện vào thời khắc thiêng liêng. 
Từ niềm tin ánh sáng trí tuệ của lễ hội có nguồn gốc Hindu giáo, 
dường như có mối liên hệ về nguồn gốc với lễ hội Ok Om Bok của người 
Khmer Nam Bộ. Theo đa thần giáo, niềm tin vào những vị thần nguồn 
gốc Hindu giáo như thần nước, thần lửa vẫn được người Khmer lưu giữ, 
Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ... 63 
nhưng không thể hiện thành một vị thần hình dáng cụ thể để tôn thờ. Dấu 
tích ấy thể hiện qua các nghi lễ như đua ghe Ngo, thả đèn nước và thả 
đèn gió trong lễ hội Ok Om Bok. Tuy Phật giáo Nam tông có sự ảnh 
hưởng sâu sắc trong cộng đồng người Khmer nhưng tàn tích về Hindu 
giáo vẫn còn thể hiện trong những tín ngưỡng dân gian. Lễ hội cúng 
Trăng đặc biệt hơn những lễ hội khác của người Khmer Nam Bộ khi vừa 
là lễ hội mang đậm chất nông nghiệp, gắn liền với nhiều điển tích Phật 
giáo nhưng lại có dấu tích của tôn giáo dân gian và Hindu giáo. Cụ thể, 
nghi lễ thả đèn nước (người Khmer gọi là Bund Lôi Pres típ) trong lễ hội 
Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ có nét tương đồng với lễ hội 
Kartik Poornima cầu Thần Mặt Trăng của người Ấn Độ là thể hiện lòng 
tôn kính, tạ ơn đến thần nước đã đem lại sự sinh sôi nảy nở cho con 
người. Đồng thời cũng thể hiện sự ăn năn hối lỗi vì đã sử dụng nước để 
sinh hoạt đã làm tổn hại đến thần. Ngoài ra, nghi lễ này còn gợi nhắc lại 
truyền thuyết thả hoa đăng trôi sông để dâng cúng đến dấu chân của Phật 
còn lưu giữ ở bến sông Nam ma Tea (Ấn Độ)24. Các nghi lễ liên quan đến 
nước trong lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ còn phải kể đến 
hội đua ghe Ngo. Nó diễn lại tích xưa rắn thần Naga nổi lên đưa Phật và 
các vị sư qua sông. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Dũng cho 
rằng, “đây cũng được cho là nghi thức người Khmer thực hiện để tiễn 
đưa mẹ nước về với biển cả sau một mùa nước nổi giúp con người gieo 
trồng, cũng như thể hiện ước nguyện đến mùa vụ năm sau, mẹ nước lại 
trở về cùng người dân gieo trồng. Điều này lý giải vì sao trong chu kỳ 
một năm, người Khmer với nhiều lễ hội nhưng chỉ có lễ hội cúng Trăng 
Ok Om Bok mới diễn ra đua ghe Ngo”. 
Không khí sôi nổi của phần hội, thả đèn gió trong lễ hội Ok Om Bok 
còn ý nghĩa sâu xa là tạ ơn thần gió - một trong những vị thần quan trọng 
cùng Thần Mặt Trăng cai quản mùa màng, đem lại mưa thuận gió hòa 
cho mùa màng tốt tươi. Mặt khác, nghi lễ thả đèn gió còn có ý nghĩa tống 
tiễn sự xui rủi, không may mắn đi nơi khác25. Tuy nhiên, vì an toàn cho 
cộng đồng phum sóc, ngày nay nghi lễ này được khuyến khích hạn chế. 
Điều này đã phần nào làm giảm đi nét đặc sắc vốn có của lễ hội Ok Om 
Bok26. Thần Lửa tuy không hiện hữu rõ vai trò vị thần trong lễ hội nhưng 
được nhắc đến như là “phương tiện” tiếp cận nhanh nhất và hiển linh nhất 
của người dân đến các vị thần. Hay phải chăng đã có “tàn tích” lớp văn 
hóa Hindu trong lễ hội Ok Om Bok trước khi Phật giáo Nam tông lan tỏa 
sâu rộng và hòa quyện vào văn hóa bản địa của người Khmer Nam bộ tạo 
64 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
nên những nét đặc sắc riêng như hiện nay và lớp tàn tích Hindu giáo 
dường như đã bị lãng quên? 
4. Kết luận 
Ngày nay, nhiều người biết đến lễ hội Ok Om Bok của người Khmer 
Nam Bộ là lễ hội Phật giáo Nam tông vì gắn liền với câu chuyện Đức 
Phật và con thỏ. Tuy nhiên, xét về ngữ nghĩa, cụm từ Ok Om Bok (có 
nghĩa là đút cốm dẹp) và các lễ vật nông sản dâng cúng trong lễ hội cho 
thấy lễ hội này cũng mang đậm sắc thái dân gian. Bên cạnh đó tục thờ 
Thần Mặt Trăng trong lễ hội không chỉ biểu trưng cho sự thanh khiết, 
hướng thiện gắn liền với tiền kiếp là con thỏ của Đức Phật mà còn là một 
tín ngưỡng dân gian mang đậm dấu ấn Hindu giáo. 
Bài viết từ góc độ tiếp cận biểu tượng học, tham chiếu qua lễ hội Ok 
Om Bok của người Khmer Nam Bộ với các lễ hội ở Ấn Độ đã tìm ra một 
số dấu ấn văn hóa Hindu giáo và Phật thoại Nam tông gắn với lễ hội cúng 
Trăng của người Khmer Nam Bộ. Việc tham chiếu lễ hội Ok Om Bok 
trong mối quan hệ văn hóa với các lễ hội Ấn Độ như: Diwali, Chhat Puja 
cầu Thần Mặt Trời, Kartika Poornima cầu Thần Mặt Trăng không chỉ 
giúp cho việc hiểu biết cội nguồn của những giá trị văn hóa, mà còn có 
thể có những định hướng phù hợp hơn cho công tác bảo tồn và phát huy 
các giá trị văn hóa Khmer Nam Bộ, nhất là khi lễ hội Ok Om Bok (Trà 
Vinh) đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và 
hội đua ghe Ngo (Sóc Trăng) đã nâng cấp thành lễ hội cấp quốc gia./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Phương pháp thực chứng (Postivistic method) trong văn hóa so sánh 
(Comparative culture theory). 
2 Đỗ Thu Hà (2013), “Bước đầu tìm hiểu biểu tượng lửa trong văn hóa Ấn Độ”, 
Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn - Chuyên đề Văn hóa học, Đại học 
Quốc gia. 
3 Sơn Phước Hoan (1998), Các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ, 
Nxb. Giáo dục, Hà Nội: 47. 
4 Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer 
Nam bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 138-139. 
5 Trích Nhật ký điền dã Trà Vinh (11/2015), Trương Thị Kim Thủy. 
6 Trích Nhật ký điền dã Trà Vinh (11/2015), Trương Thị Kim Thủy. 
7 Trích Nhật ký điền dã Trà Vinh (11/2015), Trương Thị Kim Thủy. 
8 Theo Wikipedia, Ganga là tên sông Hằng ở Ấn Độ được miêu tả trong các văn 
bản Hindu và Ấn Độ là dòng sông thần thánh. Dòng sông được nhân cách hóa 
như một nữ thần, được người theo Hindu giáo thờ phụng. 
Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ... 65 
9 Cao Huy Đỉnh (2003), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà 
Nội: 33. Thần Đất Prithivi mang tên theo tên chồng (Prithivi từ Prithu mà ra). 
Càng ngày nông nghiệp phát triển, người Ấn Độ gọi Thần Đất là Bhumideva, 
nghĩa là đất trồng trọt. 
10 Cao Huy Đỉnh (2003), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà 
Nội: 65, Sôma (tên Latin là Asclepias aciđa) là một thứ cây leo có chất ngọt, mọc 
ở các sườn đồi vùng tây bắc Ấn Độ, gần núi Hymalaya. 
11 Cao Huy Đỉnh (2003), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
12 Cao Huy Đỉnh (2003), Sđd: 69. 
13 Tiền Văn Triệu (2010), “Góp phần tìm hiểu biểu tượng con thỏ trong văn hóa 
Khmer Nam Bộ qua truyện cổ”, Nguồn sáng dân gian, số 04. 
14 Cao Huy Đỉnh (2003), Sđd: 67. 
15 Theo tác giả Cao Huy Đỉnh: Trăng nhận chất Amarita từ Thần Mặt Trời rồi phân 
phát cho thần, người, vật, cỏ cây. Mặt Trời nuôi dưỡng Mặt Trăng nên Mặt 
Trăng cũng được gọi là con trai của Mặt Trời. Mặt Trăng có 16 ngón tay (kala 
hay còn gọi là tia sáng) đầy mật. Mỗi ngày qua, các thần sẽ nuốt mất của Trăng 
một ngón. Dần dần Trăng khuyết đi chỉ còn một ngón (lúc này gọi là tiết Trăng 
non). Sau đó, Mặt Trời lại bồi dưỡng thêm mật cho Mặt Trăng đủ dần 16 ngón 
(lúc này trăng đầy đặn gọi trăng tròn ngày rằm). 
16 https://en.wikipedia.org/wiki/Chhath 
17 Satguru Subramuniyaswami (1997), Vedic calendar, Hymalayan Academy 
18 Simoons, Frederick J. (1998). Plants of life, plants of death, Univ of Wisconsin 
Press: 7-40. 
19 Littleton, C. Scott; Marshal Cavendish Corporation (2005), Gods, Goddesses, 
And Mythology, Volume 11, Marshall Cavendish: 1124-26. 
20 Trần Dũng, Đặng Tấn Phúc (2012), Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân 
gian Trà Vinh, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội: 152. 
21 Huỳnh Ngọc Trảng (2009), Ý nghĩa văn hóa tâm linh của lễ hội Oóc Om Bóc, 
Kỷ yếu hội thảo Khoa học, Sóc Trăng: 113. 
22 Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Truyện cổ Khơ-me Nam Bộ, Nxb. Văn hóa, Hà Nội: 24. 
23 Thích Đồng Thành, “Sông Hằng và Phật giáo Ấn Độ”, Thế giới Phật giáo, số 01. 
24 Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer 
Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 132. 
25 Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer 
Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 131. 
26 Quyết định số 95/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ (15/09/2009) về việc 
cấm sản xuất, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, đốt và thả đèn trời 
trong phạm vi cả nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb. Chính Trị Quốc gia, Hà Nội. 
2. Nguyễn Mạnh Cường (2002), Vài nét về người Khmer Nam Bộ, Nxb. Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
3. Jean Chevalier và Alain Gheerbrat (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, 
Nxb. Đà Nẵng và Trường viết văn Nguyễn Du, Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp 
Dictionnaire des symboles (Édition revue et augmentée, Robert Laffont, Paris, 1992). 
4. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
66 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
5. Trần Dũng, Đặng Tấn Đức (2012), Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân 
gian Trà Vinh, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
6. Đỗ Thu Hà (2013), “Bước đầu tìm hiểu biểu tượng lửa trong văn hóa Ấn Độ”, 
Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn - Chuyên đề Văn hóa học, Đại học 
Quốc gia. 
7. Cao Xuân Huy (2003), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
8. Cao Xuân Huy (2003), Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
9. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên. 
10. Nhiều tác giả (2013), Kỷ yếu hội thảo: Dấu ấn Ấn Độ trong tiếp biến văn hóa ở 
Việt Nam và Đông Nam Á, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
11. Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer 
Nam bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
12. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Truyện cổ Khơ-me Nam Bộ, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. 
13. Huỳnh Ngọc Trảng (2009), Ý nghĩa văn hóa tâm linh của lễ hội Oóc Om Bóc, 
Kỷ yếu hội thảo Khoa học, Sóc Trăng. 
14. Tiền Văn Triệu (2011), Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng, Phương Đông. 
15. Donald K.Swearer (2010), The Buddhist world of Southest Asia, SUNY press. 
16. Satguru Subramuniyaswami (1997), Vedic calendar, Hymalayan Academy. 
17. Simoons, Frederick J. (1998), Plants of life, plants of death, Univ of Wisconsin 
Press 
18. Littleton, C. Scott; Marshal Cavendish Corporation (2005), Gods, Goddesses, 
and Mythology, Volume 11, Marshall Cavendish. 
Abstract 
INDIAN CULTURAL TRACES IN THE OK OM BOK 
FESTIVAL OF KHMER PEOPLE IN THE SOUTH VIETNAM 
It is generally believed that Ok Om Bok festival of Khmer people in 
the South Vietnam is an attractive subject which many research in a 
variety of different approaches (agricultural festivals, traditional festivals, 
the Theravada Buddhist festival...). Based on symbolism theory and 
comparative culture theory, this paper focuses on analyzing distinctive 
and similar features between Ok Om Bok festival and India festival. 
Since then, it shows the significant Indian culture mark in Ok Om Bok 
festival with multiple layers of Hinduism and Buddhism from India. 
Keyword: Festival, Khmer in Southern, cultural India, Hinduism, 
Buddhism. 

File đính kèm:

  • pdfdau_an_van_hoa_an_do_trong_le_hoi_ok_om_bok_cua_nguoi_khmer.pdf