Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc qua tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa

Bài viết sử dụng phương pháp miêu tả kết hợp với các thao tác phân tích, tổng hợp với đối

tượng nghiên cứu là 361 đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa1. Hình ảnh con ngựa trong tục

ngữ tiếng Hàn được khắc họa một cách chân thực và tượng trưng cho cuộc đời của một con người. Giá trị

biểu trưng của các đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa thể hiện ở việc đề cao những giá trị

chân - thiện - mĩ, những bài học mang tính chất giáo huấn và chuyển tải kinh nghiệm phong phú về cuộc

sống, quan hệ ứng xử. Giá trị đả kích và phê phán cái ác, mặt tiêu cực, châm biếm những thói hư tật xấu của

con người cũng thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc sống vật chất và tinh thần, dấu ấn văn hóa thể hiện nhân

sinh quan, thế giới quan của người Hàn hàm chứa đậm đặc trong tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa. Việc liên

hệ với tục ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ ngựa cũng cho thấy có không ít những nét tương đồng trong ngôn

ngữ và văn hóa của hai dân tộc.

pdf 15 trang kimcuc 5460
Bạn đang xem tài liệu "Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc qua tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc qua tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa

Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc qua tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa
Mở đầu12
Tục ngữ là đơn vị ngôn ngữ có phương 
thức biểu hiện giản dị, ẩn dụ và súc tích chứa 
đựng những chân lý về kinh nghiệm, trí tuệ 
mang mục đích giáo huấn của một dân tộc. 
Kết quả khảo sát cho thấy, ở Hàn Quốc, có 
khá nhiều công trình tiếng Hàn nghiên cứu 
về tục ngữ động vật nói chung, tiêu biểu như: 
tác giả Jang Jae Hwan (2009) tiến hành so 
sánh tục ngữ động vật trong tiếng Hàn, tiếng 
Nhật (trọng tâm là tục ngữ có yếu tố chỉ ngựa 
* ĐT: 84-972157070 
Email: hoangyen70@gmail.com
1 Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia 
Hà Nội trong đề tài mã số QG.18.21. Bài viết được 
hoàn thiện trên cơ sở tham luận tại Hội thảo Quốc gia 
Nghiên cứu và giảng dạy ngoại ngữ, ngôn ngữ và quốc 
tế học tại Việt Nam, tháng 4/2017, Trường Đại học 
Ngoại ngữ - ĐHQGHN.
và chó). Tác giả Kim Myung Hwa (2011) 
nghiên cứu so sánh tục ngữ động vật 12 con 
giáp trong tiếng Hàn và tiếng Trung... Các 
công trình nghiên cứu đối chiếu về tục ngữ 
có yếu tố chỉ ngựa tiêu biểu có: tác giả Ho 
Nyung Nyung (2011) thực hiện nghiên cứu so 
sánh tục ngữ trong tiếng Hàn và tiếng Trung 
có yếu tố chỉ ngựa. Tác giả Byambachereng 
Battolga (2012) nghiên cứu so sánh tục ngữ 
Hàn Quốc và Mông cổ, tập trung vào tục ngữ 
yếu tố chỉ ngựa... Tại Việt Nam, gần đây có 
các nghiên cứu đối chiếu tục ngữ tiếng Hàn và 
tiếng Việt của Trần Văn Tiếng (2006); Nguyễn 
Thùy Dương (2013), Nguyễn Thị Hồng Hạnh 
(2013)... Các công trình nghiên cứu đối chiếu, 
so sánh hay liên hệ giữa tục ngữ động vật trong 
tiếng Hàn và tiếng Việt gần đây có: Lê Thị 
Thương (2009), Lê Thị Hương (2015), Hoàng 
Thị Yến và Nguyễn Thùy Dương (2016), 
ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA HÀN QUỐC QUA TỤC NGỮ 
CÓ YẾU TỐ CHỈ CON NGỰA
Hoàng Thị Yến*
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận bài ngày 21 tháng 03 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 05 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 05 năm 2018
Tóm tắt: Bài viết sử dụng phương pháp miêu tả kết hợp với các thao tác phân tích, tổng hợp với đối 
tượng nghiên cứu là 361 đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa1. Hình ảnh con ngựa trong tục 
ngữ tiếng Hàn được khắc họa một cách chân thực và tượng trưng cho cuộc đời của một con người. Giá trị 
biểu trưng của các đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa thể hiện ở việc đề cao những giá trị 
chân - thiện - mĩ, những bài học mang tính chất giáo huấn và chuyển tải kinh nghiệm phong phú về cuộc 
sống, quan hệ ứng xử. Giá trị đả kích và phê phán cái ác, mặt tiêu cực, châm biếm những thói hư tật xấu của 
con người cũng thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc sống vật chất và tinh thần, dấu ấn văn hóa thể hiện nhân 
sinh quan, thế giới quan của người Hàn hàm chứa đậm đặc trong tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa. Việc liên 
hệ với tục ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ ngựa cũng cho thấy có không ít những nét tương đồng trong ngôn 
ngữ và văn hóa của hai dân tộc.
Từ khóa: tục ngữ tiếng Hàn, con ngựa, giá trị biểu trưng
139Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
Hoàng Thị Yến (2017) Tuy nhiên, nghiên 
cứu một cách toàn diện về tục ngữ tiếng Hàn 
có yếu tố chỉ con ngựa trong mối liên hệ với 
tiếng Việt còn thiếu vắng. Hi vọng, bài viết sẽ 
góp phần lấp bớt khoảng trống này. 
Trong văn hóa phương Đông, đặc biệt là 
các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và 
Việt Nam, ngựa (ngọ) là một trong 12 con giáp. 
Chúng tôi thu thập được 361 đơn vị tục ngữ 
có yếu tố chỉ con ngựa xuất hiện trong công 
trình Từ điển tục ngữ động vật của tác giả Song 
Jae Seun (1997). Bài viết sử dụng phương pháp 
miêu tả nhằm làm rõ các đặc điểm ngữ nghĩa 
của các đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ 
con ngựa. Các thao tác khảo sát; dịch và phân 
tích thành tố nghĩa, thống kê, phân loại... cũng 
được áp dụng nhằm giải quyết các nhiệm vụ 
nghiên cứu sau: 1) Khắc họa hình ảnh con ngựa 
trong tục ngữ tiếng Hàn; 2) Phân tích giá trị 
biểu trưng của các đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có 
yếu tố chỉ con ngựa; 3) Phân tích cuộc sống của 
người dân Hàn thể hiện qua tục ngữ. Chúng tôi 
cũng thực hiện thao tác liên hệ với tiếng Việt 
nhằm cố gắng phác thảo vài nét so sánh về văn 
hóa của hai dân tộc Hàn – Việt. Nguồn ngữ liệu 
tiếng Việt được lấy từ các công trình liên quan, 
tiêu biểu là Nguyễn Văn Nở (2008), Vũ Ngọc 
Phan (2008)... 
1. Hình ảnh ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn
Trong công trình của Song Jae Seun 
(1997), số lượng các đơn vị tục ngữ có yếu 
tố chỉ con ngựa là 361 đơn vị, đứng thứ tư 
sau tục ngữ chỉ con chó (986 đơn vị), bò (573 
đơn vị), hổ (443 đơn vị). Điều này cho thấy, 
ngựa cũng là loài động vật gần gũi và có ảnh 
hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần 
của người Hàn. Tác giả Song Jae Seun (1997: 
85-133) phân chia tục ngữ chỉ con ngựa thành 
các nhóm nhỏ như dưới đây:
Yếu tố
말
ngựa
망아지
ngựa con
늙은 말 
ngựa già
천리마 
thiên lí mã
용마
long mã
사나운 말 
ngựa dữ
여윈 말
ngựa gầy
Tần số 288 15 14 16 11 9 8
Trong tục ngữ chỉ con ngựa, ngoài từ 말 - 
mal (ngựa) còn có các yếu tố khác chỉ ngựa, ví 
dụ như: 준마 駿馬tuấn mã, 호마 胡馬 Hồ 
mã, ngựa nước Hồ Ngoài ra, chúng ta thấy 
còn có 망아지ngựa con, 늙은 말 ngựa già, 
사나운 말 ngựa dữ, 여윈 말 ngựa gầy ốm, 
천리마thiên lí mã và 용마 long mã. Hình ảnh 
ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn bộc lộ các đặc 
điểm về sinh lí và tập quán ăn uống... khá đa 
dạng khi xét theo các tiểu loại như sau:
1.1. Hình ảnh ngựa nói chung
Qua khảo sát, trong tục ngữ tiếng Hàn, các 
loại ngựa xuất hiện khá phong phú. Theo giới 
tính, ta có: 피마/ 암말 ngựa cái, 수말 ngựa 
đực... Theo màu sắc, ta có: 흰 말 ngựa trắng, 
백마 bạch mã, 가라말/ 검은 말 ngựa đen... 
Căn cứ vào tuổi ngựa, ta có: 갓난 말 ngựa 
mới sinh, 금승말 ngựa non (dưới 1 tuổi), 
하룻망아지 ngựa sơ sinh, 늙은 말/ 노마 
ngựa già... Theo quan hệ huyết thống của cá 
thể ngựa, ta có: 어미말 ngựa mẹ, 말새끼 ngựa 
con, 생마새끼 ngựa hoang con... Theo mục 
đích sử dụng, ta có: 역마 ngựa thồ, 파발마 
ngựa đưa tin... Dựa vào sự sống chết của ngựa, 
ta có: 죽은 말 ngựa chết (tồn tại khoảng trống 
của 살아있는 말ngựa sống); theo môi trường 
sống, ta có 생마 ngựa hoang (tồn tại khoảng 
trống của 길들인 말ngựa nuôi, ngựa nhà). 
Theo giống loài, ta có các loài ngựa: 조랑말 
tiểu mã, giống ngựa nhỏ, 호마 Hồ mã, ngựa 
Hồ, 준마 tuấn mã, 천리마 thiên lí mã, 용마 
long mã..; theo quyền sở hữu, ta có: 삯말 
ngựa thuê, ngựa trạm ...
140 H.T. Yến/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
Về đặc điểm sinh lí, các bộ phận cơ thể của 
ngựa có: 말굽 móng ngựa, 꼬리 đuôi, 말고기 
thịt ngựa, 말귀 tai ngựa, 말다리/ 말발 chân 
ngựa, 말 대가리/ 말머리 đầu ngựa, 말등 
lưng ngựa, 말뼈 xương ngựa, 말살 thịt ngựa, 
말상 mặt ngựa, 털 lông, 말갈기bờm ngựa, 
말배bụng ngựa, 말가죽 da ngựa... Về các 
chất bài tiết của ngựa, ta có: 말똥 phân ngựa, 
말이 방귀를 뀌다 ngựa đánh rắm... Theo đặc 
điểm hình thức của ngựa, ta có: 큰 말 ngựa 
to, 작은 말 ngựa nhỏ, 애꾸말 ngựa chột mắt, 
살찐 말ngựa béo, 마른 말 ngựa gầy, 여윈 
말 ngựa gầy ốm, 날개 달린 말 ngựa có cánh 
= 천리마 thiên lí mã, 네 발 가진 말 ngựa 
có bốn chân, 눈 먼 말 ngựa mù, 저는 말/ 
절뚝발이 말 ngựa què...; 말이 울다 ngựa 
khóc = ngựa hí...; 말냄새 mùi ngựa...
Về đặc điểm tập tính, hành động, theo 
các vật dụng thường dùng được gắn vào mình 
ngựa, ta có: 고삐를 놓은 말ngựa tháo cương, 
고삐없는 말/ 굴레없는 말 ngựa không 
cương, 굴레 씌운 말ngựa đeo cương, 말채 
roi ngựa, 재갈 hàm thiếc... Ngoài ra còn có: 
수레 xe ngựa, 길마 gùi hàng, 안장/ 언치yên 
ngựa... Theo trạng thái, sức khỏe của ngựa, 
có các biểu hiện như: 굶주린 말 ngựa đói, 
상사말 ngựa động đực, 밤 눈 어둔 말 ngựa 
không nhìn thấy trong bóng tối, 배 앓는 말 
ngựa bị đau bụng... Theo sự di chuyển và cách 
thức di chuyển của ngựa, ta có: 가는 말 ngựa 
đi, 넘어지는 말 ngựa ngã, 놓아 먹인 말 
ngựa thả rông, 달리는 말/ 말이 뛰다 ngựa 
chạy/ ngựa phi, 빠른 말 ngựa nhanh... Liên 
quan đến nơi ở của ngựa, ta có: 마방 chuồng 
ngựa, 말뚝 cọc buộc ngựa, 기둥 cột, 마굿간 
chuồng ngựa... Về tập tính ăn uống và thức ăn 
của ngựa, ta có: 말이 콩을 그리워하다 ngựa 
nhớ đỗ/ đậu, 목 마른 말 ngựa khát nước, 
여물 rơm cỏ khô, ...소금을 먹는 말 ngựa 
ăn muối... Tính cách và giá trị của ngựa thể 
hiện trong tục ngữ khá phong phú: 게으른 말 
ngựa lười, 둔한 말 ngựa ngu, 못난 말 ngựa 
xấu, 못된 말 ngựa dở, 무는 말 ngựa hay cắn, 
차는 말 ngựa háu đá, 여윈말 ngựa ốm yếu/ 
bệnh tật, 사라운 말 ngựa dữ, 좋은 말 ngựa 
tốt, 센 말 ngựa khỏe, 약한 말 ngựa yếu...; 
말은 바람을 좋아한다 ngựa thích gió, 말은 
세워서 기른다 đứng nuôi ngựa, 값싼 말 
ngựa rẻ...; 말의 힘 sức ngựa... 
1.2. Hình ảnh ngựa con
Ngựa con 망아지xuất hiện trong tục 
ngữ giống như những đứa trẻ. Chúng được 
ngựa mẹ sinh ra: 말 씹으로 빠진 것은 다 
망아지다 rơi ra từ âm hộ ngựa đều là ngựa 
con. Lúc thì chúng là những con ngựa con ghẻ 
lở, ốm yếu 비루먹는 망아지 trong lữ quán 
tồi tàn, khi lại tung tăng là những chú ngựa 
được tháo dây cương고삐 풀린 망아지/ 굴레 
벗는 망아지..., có chú ngựa con côi cút, lang 
thang 놓아 기른 망아지 hay ngựa hoang con 
생마새끼, có chú ngựa con mù 눈 먼 망아지 
đi theo tiếng chuông, có chú ngựa con ngơ 
ngác, lạc mẹ giữa bầy 뗏말에 망아지... 
1.3. Hình ảnh ngựa già
Ngựa già 늙은 말 cũng giống như người 
cao tuổi, có những hạn chế của tuổi cao sức 
yếu nhưng lại có cái trải đời, hiểu biết và kinh 
nghiệm: 늙은 말은 길을 잃지 않는다 ngựa 
già không lạc đường, 늙은 말은 짐작으로 
길을 안다ngựa già có thể định hướng tìm 
đường, 늙은 말의 지혜다trí tuệ của ngựa 
già... Vốn thích đỗ, ngựa già cũng không chê 
đỗ 늙은 말은 콩은 마다 않는다, thậm chí 
có phần hơi tham lam: ngựa già đòi thêm đỗ 
늙은 말이 콩 더 달란다. Tuy nhiên, 젊어서 
잘 뛰던 말도 늙으면 못 뛴다ngựa già 
không thể chạy như thuở trẻ, 늙으면 용마도 
삯말보다도 못한다già thì long mã cũng 
không bằng ngựa trạm cho thuê ...
1.4. Hình ảnh ngựa dữ
Ngựa dữ 사나운 말 cũng như kẻ bất trị, 
phá phách, tính cách hung dữ. 사나운 말은 
141Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
물고 찬다 ngựa dữ cắn và đá, 사나운 말이 
말뚝이 상한다 ngựa dữ làm hỏng cọc buộc. 
Để trị ngựa dữ, dân tộc Hàn có khá nhiều 
biện pháp hay, ví như: 사나운 말에 지우는 
길마는 따로 있다 với ngựa dữ, có gùi thồ 
hàng riêng; 사나운 말에는 무거운 길마 
지운다chất hàng nặng cho ngựa dữ, 사나운 
말은 고삐와 채찍으로 길 들인다 dùng dây 
cương và roi để trị ngựa dữ, dùng roi vọt để 
sửa đổi, uốn nắn tật xấn. Con người, nếu không 
chịu sửa mình, thì khó có thể tự do: 사나운 말 
재갈 떠날 날 없다 ngựa dữ không có ngày 
tháo bỏ hàm thiếc... Tuy nhiên, cũng như người 
Việt coi ngựa chứng là ngựa hay, người Hàn 
có câu: 사나운 말이 천리 간다 ngựa dữ đi 
ngàn dặm: Đôi khi, người hung dữ cũng giống 
như ngựa dữ, là người có sức khỏe tốt, làm 
việc hăng hái, rất hiệu quả, học cũng có thể làm 
những việc lớn, phi thường...
1.5. Hình ảnh thiên lí mã
Thiên lí mã là ngựa hay, ngựa tốt. 
천리마는 날마다 천리를 뛴다Thiên lí mã 
mỗi ngày có thể đi ngàn dặm. Tuy nhiên, 
người Hàn quan niệm: Một con ngựa muốn 
trở thành thiên lí mã, ngoài tư chất bẩm sinh 
khác thường, cần có những điều kiện như: Phải 
đến độ tuổi nào đó mới có thể thành tựu được 
(cần thời gian): 천리마는 나이가 들어서 
이루어진다 phải có tuổi mới thành thiên lí 
mã; phải có môi trường đủ rộng lớn mới có 
thể huấn luyện, trưởng thành được (cần giáo 
dục tốt): 천리마는 뜰 안에서 길 들일 수 
없다 không thể thành thiên lí mã trên cánh 
đồng được: Môi trường của thiên lí mã phải 
là thảo nguyên bao la, rộng lớn... Thiên lí mã 
là ngựa hay, chứ không phải ngựa thần, có sức 
mạnh siêu nhiên, vì thế: 천리마도 단번에 
열 발자국은 못 뛴다 thiên lí mã không có 
nghĩa là mỗi lần nhảy là nhảy được 10 bước, 
천리마라고 단번에 뛰어 천리를 가는 것은 
아니다 thiên lí mã không phải là một lần 
nhảy có thể đi ngàn dặm: Về đại thể, thiên lí 
mã cũng bình thường như bao con ngựa khác, 
vì thế, mỗi lần nhảy chỉ có thể nhảy một sải 
chân... Khi về già, thiên lí mã hay hồi tưởng về 
thời huy hoàng có thể đi ngàn dặm 천리마는 
늙었어도 천리 가던 생각만 한다thiên lí 
mã già cũng chỉ ngủ 늙은 천리마가 잠만 
잔다. Nếu không gặp được thời vận, thiên tài 
cũng chỉ là người bình thường chết già nơi 
xóm vắng, phố thưa. 천리마가 마굿간에서 
늙는다 thiên lí mã già trong chuồng ngựa. 
Người Việt quan niệm: người tài nhiều tật. 
Người Hàn cũng không thiên vị và chỉ ra: 
천리마에도 못 된 버릇이 있다 thiên lí mã 
cũng có tật xấu của nó...
1.6. Hình ảnh long mã
Long mã là giống ngựa quí nên 말이 천 
마리면 용마가 하나 있다 ngàn con ngựa mới 
có một long mã, 말도 용마라면 좋아하고 
소도 대우라면 좋아한다 ngựa thì thích long 
mã, bò thì thích bò mộng. Cuộc đời mỗi con 
người, lịch sử mỗi gia tộc hay một đất nước... 
đều biến đổi thăng trầm theo qui luật: 되는 
집은 말을 낳아도 용마만 낳는다 nhà phát 
đạt thì có ngựa đẻ cũng đẻ ra long mã: Nếu 
đang ở vận tốt thì mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. 
Tục ngữ Hàn nhấn mạnh đến yếu tố cần yếu 
để sự vật hiện tượng có bước nhảy vọt về chất: 
용마도 장수를 만나야 하늘을 난다 long 
mã phải gặp tướng giỏi mới bay lên trời được, 
용마도 주인을 못 만나면 삯말로 늙는다 
long mã không gặp chủ thì chết già như ngựa 
thuê: Với long mã, yếu tố để tạo thành cặp 
là gặp được người chủ là tướng giỏi, kị sĩ tài 
ba..., khi đó, long mã mới có thể phát huy sức 
mạnh, có thể bay lên trời như rồng. Giống như 
hai mặt của một vấn đề, như âm với dương, 
người Hàn cho rằng: 장수 나면 용마 난다 
nếu có tướng giỏi sẽ có long mã...
1.7. Hình ảnh ngựa gầy
Ngựa gầy ốm có các đặc điểm riêng, dễ 
nhận thấy, ví như: đuôi dài: 마른 말 꼬리가 
142 H.T. Yến/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
길다/ 여윈 말이 꼬리는 길다 ngựa gầy thì 
đuôi dài; hay có nhiều ruồi muỗi bám theo: 
여윈 말에 파리 덤비듯 한다 như ruồi tấn 
công ngựa gầy... Ngựa gầy mà lại chất nhiều 
đồ trông rất đáng thương: 마른 말에 짐 많이 
싣는다 chất nhiều đồ lên ngựa gầy... 
 Hình ảnh ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn 
cũng gần gũi như các giai đoạn cuộc đời một 
con người, có sinh, lão, bệnh, tử; có thời vận 
thăng trầm, cần bí quyết và hội đủ các điều 
kiện mới có thể thành công... Với vài nét phác 
họa hình ảnh của ngựa con, ngựa già, ngựa 
gầy, ngựa dữ, thiên lí mã hay long mã trong 
tục ngữ, có thể thấy dân tộc Hàn có cái nhìn đa 
chiều, khá toàn diện và sâu sắc về cuộc sống 
của con người.
2. Giá trị giáo huấn - truyền kinh nghiệm 
và giá trị phê phán, châm biếm của tục ngữ 
tiếng Hàn có yếu tố chỉ ngựa
2.1. Giá trị giáo huấn - truyền kinh nghiệm, 
cảnh báo
2.1.1. Giá trị giáo huấn - truyền kinh nghiệm
Về quan điểm giáo dục
Tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con 
ngựa hàm chứa giá trị giáo huấn - truyền kinh 
nghiệm khá phong phú và sâu sắc. Khi ca 
ngợi những người tài giỏi khác thường, người 
Hàn ví với hình ảnh ngựa chạy nhanh lại có 
thêm đôi cánh có thể bay được: 날개 달린 
말이다 như ngựa thêm cánh; ca ngợi các anh 
hùng chinh phục thiên hạ, tạo lập quốc gia 
bằng hình ảnh đầy khí thế, hào hùng: 말 타고 
천하를 얻는다 cưỡi ngựa giành thiên hạ; ca 
ngợi phẩm chất, khí tiết vững vàng của bậc 
quân tử trong khó khăn bằng hình ảnh 저는 
말도 길은 바로 간다 ngựa què vẫn đi đúng 
đường, con người dù có rơi vào hoàn cảnh nào 
cũng không nhụt chí, kiên trì nỗ lực sẽ thành 
công: 절뚝발이 말이 천리를 간다 ngựa què 
vẫn đi ngàn dặm. Dân tộc Hàn coi trọng gia 
đình, quê hương bản quán: 말은 마방으로 
가야 한다 ngựa phải về chuồng ngựa, đề cao 
sự rõ ràng, sòng phẳng trong giao dịch, xử thế: 
말이 먹은 물 값도 준다 trả tiền nước ngựa 
đã uống. Trong thành ngữ, tục ngữ Việt, câu 
một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ ca ngợi tình 
đoàn kết, tương thân, tương ái giữa con người 
 ...  gian này.
3. Cuộc sống người dân Hàn qua tục ngữ có 
yếu tố chỉ con ngựa
3.1. Thân phận của người dân Hàn
Trong xã hội phân chia giàu nghèo, có nhiều 
người sống rất thoải mái, dễ chịu: 가벼운 옷을 
149Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
입고 살찐 말을 탄다 mặc áo mỏng, cưỡi 
ngựa béo. Cuộc sống thuận lợi được người 
Hàn ví với hình ảnh 말 타고 강건너기다 cưỡi 
ngựa qua sông: Nhờ đức lộc người khác mà 
sung sướng, qua sông cưỡi ngựa thì không bị 
ướt, lại nhanh. Tuy nhiên, trong cuộc sống, còn 
có rất nhiều người vất vả, đi lang thang khắp 
nơi: 말 갈 데 소 갈 데 다녔다 đi hết cả nơi 
ngựa đi, bò đến. Cuộc sống của người dân rất 
khó khăn, khổ cực, thường bị o ép, ví như: 
말에 재갈 물린다 bắt ngựa ngậm hàm thiếc: 
Ngựa ngậm hàm thiếc thì không thể nói được, 
cũng không thể ăn được; có nhiều hoàn cảnh 
éo le vì tư tưởng trọng nam khinh nữ, chế độ 
đa thê: 한 마당에 암말만 둘이다 một sân 
mà hai ngựa cái. Bên cạnh đó, những người 
tài bị bỏ quên, không được trọng dụng: 좋은 
말이 마굿간에서 앓고 있다 ngựa tốt nằm 
ốm trong chuồng ngựa. Người Việt có câu 
làm thân trâu ngựa chỉ sự vất vả của người 
lao động, luôn phải gánh vác những công việc 
nặng nhọc; đơn thương độc mã chỉ sự cô độc, 
không có người trợ giúp, đồng hành. Cũng 
như các dân tộc khác, người Hàn luôn mong 
muốn, khát khao có cuộc sống tự do: 매인 
말은 항상 뛰고 싶어한다 ngựa bị buộc luôn 
muốn nhảy, 고삐 놓은 말이다 ngựa tháo dây 
cương, 고삐 없는 말이다 ngựa không cương, 
굴레 벗은 말 달아나듯 한다 chạy như ngựa 
tháo dây cương, 굴레 벗은 말이다 như ngựa 
tháo cương... Tình yêu thương thể hiện qua 
tục ngữ, ví như: tình cảm đối với người và vật 
thân thuộc, yêu quí: 말은 콩을 그리워하다 
như ngựa nhớ đỗ; tình yêu quê hương đất nước 
tha thiết: 호마는 북풍을 그리워하다 ngựa 
hồ nhớ gió bắc: Con người sống tha phương 
thường nhớ về quê hương bản quán... 
3.2. Thế giới quan, giá trị quan, phong tục 
tập quán
3.2.1. Thế giới quan
Người Hàn tin vào những dấu hiệu, điềm 
báo: 꿈에 흰 말을 타면 병을 얻는다 trong 
mơ thấy cưỡi ngựa bạch sẽ mắc bệnh: Câu này 
hàm ý cần thận trọng. Tuy nhiên, ngựa bạch là 
loài ngựa quí nên cũng được cho là dấu hiệu 
tốt, điềm lành: 아침에 흰 말을 보면 그날 
돈이 생긴다 sáng dậy nếu gặp ngựa trắng 
hôm đó sẽ có tiền. Theo Song Jae Seun (1997: 
139), người Hàn tin rằng 말굽이 묻혀야 잘 
산다 phải chôn móng ngựa mới sống tốt: Ngày 
kết hôn, tuyết rơi thì phải đem chôn móng ngựa 
mà chàng trai vẫn cưỡi thì đôi vợ chồng mới 
sống tốt, hạnh phúc. Hay, 말 발이 젖어야 잘 
산다 chân ngựa ướt mới sống tốt: Ngày kết 
hôn, trời phải mưa đủ để ướt chân con ngựa 
chú rể cưỡi thì đôi vợ chồng mới sống tốt. 
Bên cạnh đó, cũng có một số đơn vị tục ngữ 
tiếng Hàn thể hiện cái nhìn khá tiêu cực, đánh 
giá thấp về ngựa: coi chân ngựa là xấu, như 
một khiếm khuyết cần che giấu: 말 다리가 
드러났다 lộ chân ngựa; cho rằng con gái tuổi 
ngựa vất vả: 말띠 가진 여자는 팔자가 세다 
con gái tuổi ngựa cao số; quan niệm mặt dài thì 
xấu: 말 상이다 (dài) như mặt ngựa. Tuy nhiên, 
thịt ngựa được dùng như bài thuốc hữu hiệu 
trị chứng trúng gió, co giật: 말고기는 경기 
약이다 thịt ngựa là thuốc kinh phong. 
Người Hàn coi trọng cuộc sống: 말 똥에 
굴러도 이승이 낫다 dù có vấy phân ngựa 
nhưng trần thế vẫn tốt: Dù có khổ cực bao 
nhiêu thì sự sống vẫn quí giá hơn cái chết. Đời 
người 100 năm nhưng cũng chỉ như trong chớp 
mắt, nếu như người Hàn dùng hình ảnh: 인생 
백년이 말 달리듯 한다 trăm năm cõi người 
như ngựa chạy thì người Việt cũng dùng câu: 
đời người như bóng câu qua cửa sổ. Dân tộc 
Hàn cho rằng, những mối nhân duyên tốt đẹp sẽ 
tạo nên kì tích: 준마도 장수를 만나야 하늘을 
난다 tuấn mã phải gặp tướng giỏi mới bay lên 
trời, và ngược lại, nếu không gặp được người 
cặp đôi với mình thì sẽ hoài phí cả cuộc đời: 
준마라도 주인을 못 만나면 삵말로 늙는다 
tuấn mã không gặp được chủ hay thì già với kiếp 
ngựa cho thuê. Những qui luật cuộc đời về thời 
vận và quan hệ nhân gian cũng thể hiện khá rõ 
nhân sinh quan của người Hàn. Người Việt hay 
nói: con chị nó đi thì con dì nó lớn, người Hàn 
150 H.T. Yến/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
dùng hình ảnh: 큰 말이 나가면 작은 말이 큰 
말 노릇한다 ngựa lớn đi thì ngựa nhỏ thế chỗ, 
làm việc của ngựa lớn. Cả người Hàn và người 
Việt đều dùng hình ảnh: ngưu tầm ngưu, mã tầm 
mã = 말 우는 데 말 가고 소 우는 데 소 간다 
ngựa đến nơi ngựa hí, bò đến nơi bò kêu: Người 
ngoan hiền thân với người ngoan hiền, người ác 
chơi với người ác... 
3.2.2. Giá trị quan 
Người Hàn cho rằng, vật có giá trị cũng 
cần phải được dùng đúng lúc, trao đúng người, 
nếu không, khó tránh khỏi hiện tượng: 거지가 
말 얻은 격이다 vô dụng như ăn mày được 
ngựa. Quan niệm về giàu và nghèo của người 
nông dân Hàn khá cụ thể: 마소가 많으면 
부자요, 자식이 많으면 거지다 nhà nhiều 
bò ngựa thì giàu, nhà đông con thì nghèo. Xã 
hội phân chia giai cấp, phân biệt giàu nghèo 
nên thang giá trị cũng được xác định theo tiêu 
chuẩn đó, cách đối xử cũng có sự khác biệt 
rõ rệt: 말없는 양반은 소를 탄다 quí tộc 
không nói (là quí tộc) thì cưỡi bò: Không nói 
rõ thân phận thì không ai biết là quí tộc, kết 
quả là chịu đối xử như thứ dân, chỉ được cưỡi 
bò chứ không phải là cưỡi ngựa. Người Hàn 
sống lạc quan bởi họ có triết lí nhân sinh thật 
giản dị mà sâu sắc: 말 탄 놈도 서울이요, 
소 탄 놈도 서울이요 người cưỡi ngựa cũng 
đến Seoul, người cưỡi bò cũng đến Seoul: 
Trên đường đời, sẽ có người đến đích sớm, có 
người đến muộn hơn nhưng cuối cùng đều tụ 
chung một điểm đích, dù thời gian hay tốc độ 
nhanh chậm, con đường dài ngắn mỗi người 
đi không giống nhau...
Quan niệm của người Hàn về trách nhiệm, 
lương tâm cũng được thể hiện qua tục ngữ: 
말도 부끄러우면 땀을 흘린다 ngựa xấu 
hổ cũng toát mồ hôi. Nhận thức về mối quan 
hệ giữa cái chung và cái riêng, cái toàn thể và 
cái bộ phận, người Hàn dùng hình ảnh: 말이 
뛰면 털도 뛴다 ngựa chạy thì lông cũng chạy 
(chuyển động): đất nước khó khăn thì dân cũng 
đói khổ. Với ý nghĩa này, người Việt dùng hình 
ảnh: nước nổi thì thuyền cũng nổi. Chịu ảnh 
hưởng của tư tưởng Phật giáo, người Hàn nhận 
thức rõ quan niệm nhân quả: 소금 먹는 말이 
물 찾는다 ngựa ăn muối sẽ tìm nước uống: 
Nếu có nhân (nguyên nhân) nào sẽ dẫn tới quả 
(kết quả) tương ứng. Người Việt dùng cách nói 
thẳng, trực tiếp hơn: Đời cha ăn mặn, đời con 
khát nước... Trong quá khứ, đặc biệt là trong 
hoàng tộc hoặc các gia đình quyền quí ở Hàn 
Quốc vẫn thường có hôn nhân cận huyết thống. 
Tuy nhiên, người dân Hàn thể hiện quan điểm 
của mình qua tục ngữ như sau: 말도 상피를 
본다 ngựa cũng phải để ý đến quan hệ họ 
hàng, 말도 칠판촌은 가린다 ngựa cũng phải 
tránh cận hôn đến 7- 8 đời (Song Jae Seun, 
1997: 141). Bên cạnh đó, trong tục ngữ tuy 
không thể hiện rõ nhưng cũng có đơn vị thể 
hiện thái độ coi thường, bất bình đẳng với nữ 
giới: 처녀들은 말 방귀만 뀌어도 웃는다 tụi 
con gái thì ngựa đánh rắm cũng cười...
3.2.3. Phong tục tập quán
Qua các đơn vị tục ngữ có yếu tố chỉ ngựa, 
có thể thấy vài nét văn hóa khá độc đáo của 
người Hàn: 말 머리에 태기 든다 bắt đầu 
thai kì ở đầu ngựa: Trong văn hóa truyền 
thống, khi cô dâu đi lấy chồng thường cưỡi 
ngựa. Câu tục ngữ chỉ công việc tiến hành quá 
nhanh, giống như cô dâu đi lấy chồng đã có 
thai. Câu 말 탄 장가다 cưỡi ngựa đi lấy vợ 
nói đến tập tục xưa, chàng trai thường cưỡi 
ngựa trong ngày lễ kết hôn, đến đón cô dâu. 
Tín ngưỡng dân gian của người Hàn trong tục 
ngữ ngựa thể hiện ở niềm tin vào sức mạnh trừ 
tà của hình tượng hổ và rồng: 말 병 예방에는 
마굿간에 여호 여룡이라는 부적을 
써붙인다 dán bùa chú viết như hổ như long 
ở chuồng ngựa phòng bệnh cho ngựa; 말 병 
예방에는 호랑이 뼈를 목에 걸어준다 đeo 
xương hổ vào cổ ngựa để phòng bệnh cho 
ngựa... Triết lí nhân sinh quan Phật giáo: sinh, 
lão, bệnh, tử cũng thể hiện khá rõ trong tục 
ngữ có yếu tố chỉ con ngựa. Từ việc những 
chú ngựa con ra đời theo qui luật tự nhiên, 
151Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
sống và lớn lên cùng bầy đàn, trở thành những 
chiến bình thiên lí mã, long mã hay những chú 
ngựa thồ, rồi trở về già ốm yếu, bệnh tật, xa 
rời thế giới với sự mong đợi của những người 
thợ da thuộc... Đó cũng chính là những giai 
đoạn của cuộc đời một con người. Lên xe 
xuống ngựa, sông có khúc, người có lúc là các 
câu tục ngữ người Việt chỉ sự thăng trầm của 
cuộc đời. Người Việt cũng liên tưởng thời gian 
trôi nhanh như bóng câu qua cửa; sự thay đổi 
về phe phái thể hiện bằng câu thay ngựa đổi 
chủ... Ngoài ra, một số điều kiêng kị của dân 
gian cũng được truyền lại trong tục ngữ: 말이 
새끼 난 지 이레 안에 간장을 남에게 주면 
어미젖이 마른다 ngựa sinh con trong vòng 
7 ngày, nếu cho người khác nước mắm thì mẹ 
ngựa sẽ mất sữa. 아이 밴 여자가 말 고삐를 
넘으면 아이를 열두 달 만에 낳는다 phụ 
nữ có bầu nếu bước qua dây cương ngựa thì 
mang thai đủ 12 tháng mới sinh.
Ngoài ra, dấu ấn địa lí - văn hóa của một 
số vùng miền trên bán đảo Hàn cũng được 
thể hiện qua tục ngữ, có thể đơn cử một vài ví 
dụ sau đây: i) 금산 체장수 죽은 말 지키듯 
한다 đợi như chejangsu Geumsan chờ ngựa 
chết. Geumsan, Cheonllado 전라도 (nay là 
Chungnam 충남) là nơi sản xuất các sản phẩm 
từ lông đuôi ngựa của Hàn Quốc; ii) 닫는 말 
채질한다고 경상도를 당일 갈까? thúc ngựa 
đang phi hết sức liệu quất roi có đến được 
Gyeongsangdo trong ngày không? Có thể 
thấy Gyeongsangdo là nơi khá xa, không thể 
tới trong ngày dù có ngựa tốt; iii) 말새끼는 
시골로 보내고 사람 새끼는 서울로 보내라 
ngựa con gửi về nông thôn, trẻ con gửi lên 
Seoul. Seoul là nơi đất lành, phát triển, tốt 
cho việc học hành, giáo dục của trẻ. Hay 말은 
나면 제주도로 보내고 사람은 나면 서울로 
보낸다 ngựa đẻ gửi đến đảo Cheju, người sinh 
cho đến Seoul: Đảo Cheju tốt cho ngựa, Seoul 
tốt cho con trẻ; iv) 말 탄 양반 청태 도적이라 
quí tộc cưỡi ngựa trộm rong biển (tục ngữ 
Cheju): Cheju là đảo với bốn bề là biển, rong 
biển là sản vật quí của nơi này; v) Mùa xuân 
trên bán đảo Hàn, thời tiết hanh khô khiến da 
dẻ nứt nẻ: 봄바람에 말 씹도 터진다 gió xuân 
khiến âm hộ ngựa cũng nứt toác. 봄에는 생말 
가죽이 마른다 mùa xuân da ngựa sống cũng 
khô. Tuy nhiên, mùa xuân cũng là mùa mọi vật 
hồi sinh, có sức sống mãnh liệt: 봄이면 삼년 
묵은 말가죽에도 오롱조롱 소리가 난다 
xuân đến, da ngựa khô ba năm cũng phát ra 
tiếng động... Tuy chỉ là một vài nét chấm phá 
về địa lí vùng miền nhưng qua tục ngữ có yếu 
tố chỉ con ngựa, ta có thể hiểu thêm về đất nước 
và con người Hàn Quốc.
Như vậy, qua tục ngữ có yếu tố chỉ con 
ngựa, ta có thể tìm thấy ít nhiều những dấu ấn 
lịch sử, văn hóa, xã hội của một dân tộc; có thể 
nhận biết được phương thức tư duy, tìm hiểu 
về giá trị quan, nhân sinh quan, thế giới quan, 
phong tục tập quán của dân tộc Hàn, đặc điểm 
địa lí vùng miền của Hàn Quốc. 
Kết luận
Với những đặc tính đáng quí, ngựa là 
hình ảnh của sự trung thành, tận tụy, thanh 
nhã mà hào hùng. Mã đáo thành công là câu 
chúc thành công, may mắn người Việt hay 
dùng. Hình ảnh con ngựa trong tục ngữ cũng 
chính là tấm gương phản chiếu của cuộc đời 
con người với quá trình sinh lão bệnh tử. Tục 
ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa hàm 
chứa giá trị giáo huấn, đề cao những giá trị tốt 
đẹp, chuyển tải những bài học kinh nghiệm 
đối nhân xử thế, kinh nghiệm làm ăn, tu thân. 
Giá trị phê phán cũng là một mặt không thể 
thiếu, thể hiện quan điểm rõ ràng của dân tộc 
Hàn đối với cái ác, cái xấu trong xã hội và con 
người. Qua tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa, 
cũng có thể thấy một phần đời sống tinh thần 
và vật chất, những dấu ấn văn hóa mang đậm 
nét dân gian, truyền thống của dân tộc Hàn. 
Vài nét phác họa, liên hệ với tục ngữ tiếng 
Việt cũng cho thấy, có không ít những nét 
tương đồng trong văn hóa của hai dân tộc.
152 H.T. Yến/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Nguyễn Thùy Dương (2013). Một số tín hiệu thẩm mỹ 
trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Luận văn Thạc 
sĩ. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - 
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013). Văn hóa ứng xử của 
người Hàn qua thành ngữ, tục ngữ (so sánh với Việt 
Nam). Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học 
xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia thành phố 
Hồ Chí Minh.
Lê Thị Hương (2015). Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc 
nói về động vật và thực vật (một vài so sánh với Việt 
Nam). Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học 
xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguyễn Văn Nở (2008). Biểu trưng trong tục ngữ người 
Việt. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vũ Ngọc Phan (2008). Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt 
Nam. Hà Nội: Nxb Văn học.
Trần Văn Tiếng (2006). So sánh một số đặc điểm cú pháp-
ngữ nghĩa của tục ngữ tiếng Việt và tiếng Hàn. Luận 
án Tiến sĩ. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Thị Thương (2009). Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ 
Hàn - Việt có thành tố cấu tạo là tên gọi động vật 
từ góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá. Luận văn Thạc sĩ. 
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại 
học Quốc gia Hà Nội.
Hoàng Thị Yến, Nguyễn Thùy Dương (2016). Nghiên 
cứu tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con hổ. Tạp chí 
Hàn Quốc, 01 (15), tr. 61-76.
Hoàng Thị Yến (2017). Tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ 
con mèo (liên hệ với tiếng Việt). Nghiên cứu Nước 
ngoài, 33(2), tr.155-167.
Tiếng Hàn
Byambachereng Battolga (2012). Nghiên cứu so sánh 
tục ngữ Hàn Quốc và Mông Cổ: trọng tâm là tục 
ngữ có yếu tố chỉ ngựa. Đại học Gongjoo. Hàn 
Quốc. Luận văn Thạc sĩ. 
뱜바체렝 받돌가 (2012). 한국과 몽골의 속담 비교 
연구: ‘말 馬’ 관련 속담을 중심으로. 공주대학교. 
석사 논문. 
Ho Nyung Nyung (2011). Nghiên cứu so sánh tục ngữ 
Hàn - Trung có yếu tố chỉ ngựa. Đại học Hoseo. 
Luận văn Thạc sĩ.
호녕녕 (2011). 한국과 중국의 말 (馬) 관련 속담 
비교 연구. 호서 대학교. 석사 논문
Jang Jae Hwan (2009). So sánh tục ngữ động vật Nhật 
- Hàn: trọng tâm là tục ngữ có yếu tố chỉ ngựa và 
chó. Đại học Danguk. Hàn Quốc. Luận văn Thạc sĩ. 
장재환 (2009). 일. 한 동물 속담에 관한 비교. 
고찰: ‘말’과 ‘개’에 관한 속담을 중심으로. 
단국대학교. 석사논문
Kim Myung Hwa (2011). Nghiên cứu so sánh tục ngữ 
động vật 12 con giáp Hàn - Trung. Đại học Dongjoo. 
Hàn Quốc. Luận văn Thạc sĩ. 
김명화 (2011). 한-중 12 지신 동물 속담 비교 연구. 
동주 대학교. 석사논문. 
Song Jae Seun (1997). Từ điển tục ngữ động vật. Nxb 
Dongmunseon. 
송재선 (1997). 동물속담 사전. 東文選.
CHARACTERISTICS OF KOREAN CULTURE 
IN HORSE-RELATED PROVERBS
Hoang Thi Yen
Faculty of Korean Language and Culture, VNU University of Languages and International Studies,
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract: This paper combines descriptive, analytical and synthetic methods in exploring 361 
Korean proverbs containing or relating to the horse. The study finds that the horse is realistically 
depicted in Korean proverbs as a symbol of human life. Symbolic values of Korean horse-related 
proverbs are revealed through the appreciation of Truth, Goodness, and Beauty, educational maxims 
and experience about life and social relationships. Horse-related proverbs also vividly demonstrate 
strong yet sophisticated criticism against evils and negative features as well as satire of human vices. 
Korean people’s material and spiritual life and cultural patterns imbued with their worldview are 
densely packed in horse-related proverbs. A comparison with Vietnamese proverbs, plenty of which 
also contain the horse, enlightens us about the various similarities between the two languages.
Keywords: Korean proverbs, horse, symbolic value 

File đính kèm:

  • pdfdac_trung_van_hoa_han_quoc_qua_tuc_ngu_co_yeu_to_chi_con_ngu.pdf