Đặc điểm nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa “竹” (trúc) trong hệ thống văn tự Hán

Chữ Hán vốn là loại hình văn tự biểu ý, sau được coi là biểu ý kiêm biểu âm, thể hiện sinh

động đặc điểm tri nhận của người xưa về thế giới khách quan trong mối liên hệ với đời sống. Nhóm chữ

Hán có chứa “” (trúc) làm bộ thủ biểu nghĩa là một thí dụ tiêu biểu. Bài viết chủ yếu sử dụng các phương

pháp và thủ pháp nghiên cứu như thống kê, miêu tả, phân tích, tiến hành khảo sát mối quan hệ giữa chữ và

nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa “” (trúc), làm sáng tỏ quá trình phát triển nghĩa cũng như hàm ý văn

hóa của chúng, nhằm góp một tài liệu tham khảo về nghiên cứu chữ Hán cũng như công tác dạy học tiếng

Hán ở Việt Nam.

pdf 11 trang kimcuc 9160
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa “竹” (trúc) trong hệ thống văn tự Hán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa “竹” (trúc) trong hệ thống văn tự Hán

Đặc điểm nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa “竹” (trúc) trong hệ thống văn tự Hán
145Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
ĐẶC ĐIỂM NGHĨA CỦA NHÓM CHỮ HÁN
 CÓ CHỨA “竹” (TRÚC) TRONG HỆ THỐNG VĂN TỰ HÁN
Phạm Ngọc Hàm*
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận bài ngày 13 tháng 02 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 04 tháng 03 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 31 tháng 03 năm 2020
Tóm tắt: Chữ Hán vốn là loại hình văn tự biểu ý, sau được coi là biểu ý kiêm biểu âm, thể hiện sinh 
động đặc điểm tri nhận của người xưa về thế giới khách quan trong mối liên hệ với đời sống. Nhóm chữ 
Hán có chứa “竹” (trúc) làm bộ thủ biểu nghĩa là một thí dụ tiêu biểu. Bài viết chủ yếu sử dụng các phương 
pháp và thủ pháp nghiên cứu như thống kê, miêu tả, phân tích, tiến hành khảo sát mối quan hệ giữa chữ và 
nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa “竹” (trúc), làm sáng tỏ quá trình phát triển nghĩa cũng như hàm ý văn 
hóa của chúng, nhằm góp một tài liệu tham khảo về nghiên cứu chữ Hán cũng như công tác dạy học tiếng 
Hán ở Việt Nam.
Từ khóa: 竹, trúc, chữ Hán, nghĩa, tri nhận 
1. Đặt vấn đề1 
Thế giới khách quan trong đó có muôn 
loài thực vật tồn tại xung quanh ta, mỗi loài 
một vẻ. Đặc trưng của các loài thực vật được 
phản ánh sinh động trong ngôn ngữ - văn tự 
Hán, thể hiện rõ nét năng lực khám phá thế 
giới và đặc điểm nhận thức của người xưa. 
Với tính chất là một loại văn tự biểu ý kiêm 
biểu âm, chữ Hán được coi là “hóa thạch”, là 
“trầm tích” văn hóa, thể hiện sâu sắc khả năng 
liên tưởng và sức sáng tạo to lớn của nhân 
dân Trung Hoa. Có thể nói, chữ Hán là một 
bộ phận hợp thành của ngôn ngữ và văn hóa 
Hán. Từ xưa đến nay, chữ Hán luôn thu hút 
sự quan tâm của giới nghiên cứu ngôn ngữ và 
văn hóa ở Trung Quốc cũng như Việt Nam. 
Thành quả nghiên cứu trước hết phải kể đến 
những bộ tự điển lớn như Thuyết văn giải tự 
(说文解字) của Hứa Thận (许慎), hoàn thành 
trong khoảng hơn 20 năm, từ năm Hán Hòa 
Đế thứ 12, tức năm 100 đến năm An Đế Kiến 
* ĐT: 84-904123803
 Email: phamngochamnnvhtq@gmail.com
Quang nguyên niên, tức năm 121), Khang Hy 
tự điển (康熙字典) của Trương Ngọc Thư 
(张玉书) và Trần Đình Kính (陈廷敬) ra đời 
vào năm Khang Hy đời Thanh. Hai cuốn tự 
điển này về sau đã được tái bản nhiều lần. Từ 
tháng 10 năm 1986 đến tháng 10 năm 1990, 
Từ Trung Thư (徐中舒) chủ biên cùng tập 
thể ban biên soạn hơn 300 người sau nhiều 
năm phấn đấu đã xuất bản bộ Hán ngữ đại tự 
điển (汉语大字典) lần thứ nhất và đến năm 
2010 tái bản lần thứ 2 gồm 9 cuốn, tập trung 
giải thích hình, âm, nghĩa của khoảng 56000 
chữ Hán. Tiếp đó, nhiều công trình nghiên 
cứu nổi tiếng về nguồn gốc, cấu tạo, ý nghĩa 
và nội hàm văn hóa thể hiện trong chữ Hán 
được xuất bản thành sách như Góc nhìn vĩ mô 
về văn hóa chữ Hán Trung Quốc (中国汉字
文化大观) (何九盈, 1990), Giải thích bằng 
hình ảnh các chữ Hán thường dùng (常用汉
字图解) (谢光辉, 1997), Vấn đề chữ Hán và 
văn hóa (汉字和文化问题) (周有光, 2000), 
Mật mã chữ Hán (汉字密码) (唐汉, 2001), 
Từ chữ nhân (从人字说起) (萧启宏, 2004). 
Ở Việt Nam những năm gần đây, nghiên cứu 
146 P.N. Hàm/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
về chữ Hán phải nhắc đến Chữ Hán: chữ và 
nghĩa (Phạm Ngọc Hàm, 2012) và một số bài 
viết về chữ Hán khác của cùng tác giả, Văn tự 
Hán và vai trò của giới trong hôn nhân (Cầm 
Tú Tài, Lê Quang Sáng, 2017). Các công trình 
trên đây tuy ở tầm sâu rộng khác nhau nhưng 
đều tập trung nghiên cứu về cấu tạo, nghĩa và 
hàm ý văn hóa cũng như quá trình diễn tiến 
của chữ Hán.
Trong bốn nguyên tắc cấu tạo chữ Hán 
gồm tượng hình, chỉ sự, hội ý và hình thanh, 
chữ cấu tạo theo nguyên tắc tượng hình ra đời 
sớm nhất và chữ hình thanh (loại chữ gồm 
một phần biểu nghĩa, một phần biểu âm hợp 
thành) chiếm tỷ lệ cao nhất (Nguyễn Kim 
Thản, 1984). Theo ghi chép của ông trong 
chương 2 cuốn sách nhan đề Lược sử ngôn 
ngữ học, mục chữ viết ở Trung Quốc, học giả 
Vương Quân đời Thanh đã khảo sát 9353 chữ 
Hán thu thập trong Thuyết văn giải tự của Hứa 
Thận ra đời vào thế kỷ I và phân xuất thành 
bốn loại theo bốn nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, 
trong đó số chữ được cấu tạo theo nguyên tắc 
tượng hình là 264 chữ, hình thanh còn gọi 
là hài thanh là 7697 chữ. Theo thống kê của 
chúng tôi từ phần lớn các bộ tự điển, trong hệ 
thống chữ Hán có khoảng 214 bộ thủ, trong 
đó “竹” (trúc) vừa có thể độc lập tạo thành 
một chữ Hán, một từ đơn âm tiết, vừa có thể 
đóng vai trò làm bộ thủ cấu tạo chữ phức thể. 
Nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa “竹” (trúc) 
vô cùng phong phú, không những thể hiện đặc 
điểm tri nhận của người xưa về loài thực vật 
tuy thanh mảnh nhưng có sức sống mãnh liệt, 
vượt lên hoàn cảnh này, mà còn thể hiện giá trị 
vật chất và giá trị tinh thần dồi dào của tre/trúc 
đối với đời sống xã hội. Bài viết này là sự kế 
thừa bài tham luận nhan đề Nghĩa của các chữ 
Hán có chứa bộ “竹” (trúc) và mấy suy nghĩ 
về dạy học tiếng Hán (“竹” 部汉字字义及其
教学的几点思考) đăng trên Kỷ yếu Hội thảo 
khoa học về Giảng dạy và Nghiên cứu tiếng 
Hán năm 2018 của chúng tôi. Bài viết chủ yếu 
sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên 
cứu như thống kê tần số xuất hiện, miêu tả cấu 
trúc, phân tích diễn biến nghĩa để tiến hành 
khảo sát, chỉ ra mối quan hệ giữa chữ và nghĩa 
của “竹” (trúc), đặc biệt là nhóm chữ Hán có 
chứa “竹” (trúc), làm sáng tỏ đặc điểm quá 
trình phát triển nghĩa cũng như hàm ý văn hóa 
của nhóm chữ Hán này, nhằm góp một tài liệu 
tham khảo cho công tác nghiên cứu và dạy 
học tiếng Hán hiện nay ở Việt Nam.
2. Nghĩa của “竹” (trúc) 
Trước hết, xét về mặt văn tự, Thuyết văn 
giải thích rằng: “Chữ “竹” (trúc) là một chữ 
tượng hình, chỉ loài thực vật sinh sống được 
vào mùa đông, cành lá buông rủ. Nói chung, 
các chữ Hán có liên quan đến tre/ trúc đều sử 
dụng “竹” (trúc) làm thành tố biểu nghĩa, âm 
đọc là trúc (“竹”,冬生艸也。象形。下垂
者,箁箬也。凡竹之屬皆从竹。陟玉切, 
trúc đông sinh thảo dã, tượng hình, hạ thùy 
giả, bầu nhược dã, phàm trúc chi thuộc giai 
tòng trúc, trắc ngọc thiết) [许慎,2012]. Các 
bộ tự điển tiếng Hán khác của Trung Quốc 
như Hán ngữ đại tự điển cũng có cách giải 
thích tương tự như trong Thuyết văn của Hứa 
Thận và khẳng định thêm “đây là loài thực vật 
xanh tươi quanh năm, vốn thuộc họ hòa thảo, 
thân và cành rỗng, có đốt, có thể dùng làm 
nguyên vật liệu phục vụ xây dựng và chế tác 
các dụng cụ, cũng có thể dùng để làm giấy, 
trải qua giá rét của mùa đông, cành lá vẫn 
không tàn úa” (禾本科多年生常绿植物,茎
中空,有节,可供建筑和制器物用,也可
以作造纸原料。枝叶经冬不凋) [徐中舒等
人,2010]. Loài thực vật này trong tiếng Hán 
chia làm nhiều loại, như 斑竹 ban trúc, 文
竹 văn trúc,青皮竹 thanh bì trúc..., có giá trị 
thưởng ngoạn rất cao, được người ta coi là cây 
cảnh, tương đương với trúc trong tiếng Việt, 
và 毛竹 mao trúc tương đương với tre trong 
tiếng Việt. Dưới đây, chúng tôi gọi chung là 
“tre trúc”.
147Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
Từ cách giải thích của các bộ tự điển có 
uy tín, có thể thấy các nhà từ điển học đều 
chú ý đến đặc điểm về hình dáng, tập tính sinh 
trưởng, môi trường sống và chức năng của tre 
trúc mà các loài thực vật khác không thể có 
được. Trong đó, nổi bật là các đặc điểm như 
tre trúc có sức sống mãnh liệt, trải qua mùa 
đông giá lạnh vẫn tươi xanh, thân và cành đều 
có các đốt với khoảng cách không quá dài 
cũng không quá ngắn, mọc thành khóm, các 
thân cây sánh cùng nhau. Tre trúc không thuộc 
thân thảo, cũng không thuộc thân mộc, không 
quá cương, cũng không quá nhu, độ dẻo dai 
kết hợp với sức mạnh tổng thể của cả cụm 
khóm khiến nó có khả năng vượt qua gió bão. 
Màu xanh của tre trúc không bao giờ thay đổi 
suốt bốn mùa. Tất cả những đặc tính này giúp 
người xưa liên tưởng đến phẩm giá của con 
người. Ngoài ra, những công dụng của tre trúc 
như dùng làm nguyên vật liệu trong xây dựng, 
công cụ lao động, dụng cụ thường ngày, thậm 
chí là dùng để chế tác ra vũ khí phục vụ săn 
bắt, chiến tranh và chế tác ra một số nhạc cụ 
truyền thống như tiêu, sáo, sênh, đàn tơ rưng, 
phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân cũng 
khiến cho từ ngữ chỉ tre trúc trở thành đề tài 
nghiên cứu rất thú vị dưới góc nhìn ngôn ngữ - 
văn tự và văn hóa. Chúng tôi cho rằng, những 
đặc trưng này của tre trúc chính là cơ sở quan 
trọng để hình thành nên quá trình diễn tiến về 
nghĩa của chữ “竹” (trúc) và nhóm chữ Hán 
có chứa “竹” (trúc) làm thành tố biểu nghĩa. 
Thông qua khảo sát sự phát triển nghĩa của 
nhóm chữ Hán có chứa“竹” (trúc), chúng ta 
có thể hiểu được đặc điểm tri nhận, năng lực 
sáng tạo và nhất là tư duy liên tưởng của người 
xưa về loài thực vật độc đáo này.
Quan sát quá trình diễn biến của chữ “竹” 
(trúc), có thể dễ dàng nhận thấy “竹” (trúc) 
trong giáp cốt văn (chữ viết trên mai rùa và 
xương thú) giống như hai thân cây trúc sánh 
cùng nhau buông rủ cành lá, chữ “竹” (trúc) 
dạng tiểu triện cũng có hình dạng giống như 
những lá trúc đang rủ xuống, dạng chữ khải 
của “竹” (trúc) cũng được phát triển từ chữ 
tiểu triện, rất gần với sự mô tả bằng đường nét 
về hình tượng tre trúc mọc thành khóm.
Xét về mặt nghĩa, theo khảo sát của chúng 
tôi, cuốn Hán ngữ đại từ điển đã đưa ra 6 
nghĩa của “竹” (trúc), gồm: (1) chỉ bản thân 
cây tre/ trúc (cụ thể như trên đã mô tả); (2) 
một trong tám loại nhạc cụ thời xưa (còn gọi 
là một trong bát âm), chỉ chung cho các loại 
nhạc cụ như tiêu, sáo..., làm bằng tre trúc; 
(3) thẻ tre; (4) bùa bằng tre; (5) tên một loài 
thực vật thân thảo; (6) họ Trúc. [徐中舒等
人,2010]. Trong đó, nghĩa thứ ba là thẻ tre 
liên quan mật thiết đến nguyên liệu dùng để 
ghi chép của người xưa khi chưa tìm ra giấy. 
Nghĩa thứ tư là bùa làm bằng tre, sau chuyển 
nghĩa thành ấn triện và thẻ lệnh bài. 
Để có thêm cơ sở khoa học, chúng tôi tiến 
hành khảo sát cách giải thích nghĩa của “竹” 
(trúc) với tư cách là một từ đơn qua một số bộ 
từ điển và thấy rằng, cuốn Từ điển quy phạm 
tiếng Hán hiện đại của Lý Bảo Gia, Đường 
Chí Siêu và cuốn Tân hiện đại Hán ngữ từ 
điển của Vương Đồng Ức đều đưa ra bốn 
nghĩa của “竹” (trúc) gồm: (1) loài thực vật 
xanh tươi quanh năm, mùa xuân mọc măng, 
thân có nhiều đốt, trong rỗng, sống trên nền 
đất cứng, chủng loại nhiều, có thể dùng làm 
nguyên liệu chế ra các loại dụng cụ, cũng có 
thể dùng làm vật liệu xây dựng, trong các từ: 
~子。~叶。~笋。~编; (2) chỉ loại nhạc 
cụ hình ống làm bằng tre/ trúc, trong cụm từ 
kim thạch ty trúc (金石丝~) tức là bốn loại 
nhạc cụ truyền thống làm bằng kim loại, đá, 
dây tơ và tre trúc; (3) một trong bát âm, nhạc 
cụ cổ đại Trung Quốc; (4) Họ Trúc. 
Trong các nghĩa trên đây, chúng tôi đặc 
biệt quan tâm đến ba nghĩa sau: (1) một loại 
nhạc cụ làm bằng tre/ trúc; (2) thẻ tre (dùng 
để ghi chép); (3) bùa/ triện/ lệnh bài bằng tre. 
Lý do là cả ba nghĩa này đều phản ánh khả 
năng khám phá, tìm tòi, sáng tạo to lớn của 
148 P.N. Hàm/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
người xưa đối với việc tận dụng tre trúc phục 
vụ đời sống. Sức sáng tạo này phản ánh phần 
nào diện mạo xã hội xưa trên các phương diện 
âm nhạc, lịch sử, văn hóa giáo dục. Mặt khác, 
mối liên hệ giữa tính chất của tre trúc với đời 
sống vật chất và tinh thần của con người được 
thể hiện qua chữ và nghĩa của “竹” (trúc), đặc 
biệt là nhóm chữ Hán chứa “竹” (trúc) cũng 
hết sức lý thú. Quá trình chuyển hóa từ nghĩa 
cụ thể sang nghĩa trừu tượng của các chữ Hán 
có chứa “竹” (trúc) với vai trò là thành tố biểu 
nghĩa đã thể hiện rõ nét khả năng tư duy liên 
tưởng và năng lực tri nhận của người xưa về 
đặc tính của tre/ trúc.
3. Khả năng tạo chữ phức thể của “竹” 
(trúc)
Trong hệ thống văn tự Hán, “竹” (trúc) 
với tư cách là thành tố biểu nghĩa cấu tạo nên 
hàng ngàn chữ mới, phần lớn được thể hiện 
bằng biến thể . So với các thành tố khác, 
khả năng tạo chữ của “竹” (trúc) rất cao. Theo 
thống kê của chúng tôi, trong Hán ngữ đại 
tự điển thu thập được tất cả 1115 chữ Hán 
có chứa “竹” (trúc), trong đó chữ có số nét 
ít nhất là 2 nét, nhiều nhất là 27 nét [徐中舒
等人,2010]. Từ điển quy phạm tiếng Hán 
hiện đại thu thập được 166 chữ có chứa “竹” 
(trúc) [李宝嘉、唐志超,2001], Tân hiện 
đại Hán ngữ từ điển thu thập được 208 chữ [
王同亿,1993]. Điều đáng lưu ý là trong số 
các chữ Hán có chứa “竹” (trúc), vị trí của 
“竹” (trúc) thường ở trên đầu, đóng vai trò 
biểu nghĩa tạo thành chữ phức thể kết cấu trên 
dưới, người học tiếng Hán thường gọi thành tố 
này là bộ trúc đầu. Điều đó một mặt thể hiện 
tre trúc cũng như các loài thực vật thân thảo 
cành lá nhẹ nhàng, luôn vươn lên trên đón ánh 
mặt trời, nhưng khi hầu hết các loài cây cỏ đã 
tàn lụi thì tre trúc cùng với tùng bách vẫn tươi 
cành xanh lá, bất chấp rét giá của mùa đông, 
mặt khác phần nào thể hiện sự yêu chuộng của 
người xưa đối với loài thực vật này. Trong tâm 
thức của người xưa, trúc sánh cùng tùng, mai 
làm nên ba người bạn vượt lên tuyết giá của 
mùa đông, được mệnh danh là tuế hàn tam 
hữu. Trúc sánh cùng mai, lan, cúc được người 
xưa gọi là tứ quân tử. Mỗi năm, thu qua rồi 
đông đến, khi các loài cây cỏ hầu như đã khô 
héo, lụi tàn thì tre trúc cùng với tùng, bách 
vẫn tươi xanh, tràn đầy sức sống, tỏa màu 
xanh trong cõi trời. Vì thế, trúc cùng với tùng, 
bách là chúa của muôn loài cây. Chính vì vậy, 
“竹” (trúc) được coi là hình ảnh biểu trưng 
cho phẩm cách cao thượng và sức sống dẻo 
dai của người quân tử. Người xưa căn cứ vào 
đặc tính này kết hợp với giá trị vật chất và tinh 
thần của tre trúc đối với đời sống con người 
để sử dụng “竹” (trúc) với tư cách là thành tố 
biểu nghĩa và một số trường hợp biểu nghĩa 
kiêm biểu âm tạo nên hàng loạt chữ Hán phức 
thể. Điều đó đồng nghĩa với đại đa số chữ Hán 
có chứa “竹” (trúc) là chữ hình thanh, như 
笼 lung (lồng), 篮 lam (cái làn), 簖 đoạn (cái 
đăng bắt cá). Chữ hội ý chiếm số lượng không 
nhiều, như 笔 bút, 算 toán (tính toán),纂 toản 
(biên tập sách) và một số rất ít chữ hội ý kiêm 
hình thanh như 笑 tiếu (cười) và 笨 bổn (gốc 
tre/ ngu dốt). Có thể nói, “竹” (trúc) và nhóm 
chữ Hán có chứa “竹” (trúc) là bộ phận hợp 
thành quan trọng trong hệ thống văn tự Hán.
4. Khu vực nghĩa của nhóm chữ Hán có 
chứa “竹” (trúc)
Để làm rõ sự phân bố nghĩa của các chữ 
Hán có chứa “竹” (trúc), chúng tôi đã tiến 
hành khảo sát nghĩa của một bộ phận chữ Hán 
trong số 1115 chữ Hán mà Hán ngữ đại tự điển 
thu thập được. Trên cơ sở các nghĩa cơ bản 
của chữ “竹” (trúc) (như đã nêu trong mục 2), 
chúng tôi chọn những chữ Hán có chứa “竹” 
(trúc) làm thành tố biểu nghĩa liên quan đến 
đặc tính của tre trúc và các nghĩa này để phân 
tích quá trình phát triển nghĩa của chúng, mục 
đích là làm sáng tỏ những nghĩa được hình 
thành thông qua tư duy liên tưởng giữa tre trúc 
149Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
với những sự vật hữu quan, từ đó chỉ ra đặc 
điểm tri nhận của người xưa về tre trúc. Kết 
quả khảo sát cho thấy, trong 35 chữ có hội đủ 
3 nghĩa liên quan đến “竹” (trúc) thì hai chữ 
節 tiết (dạng giản thể là 节) và 管 quản có 
nhiều nghĩa liên tưởng nhất, đạt tới 24 nghĩa. 
Tiếp đó là chữ 符 phù có tới 23 nghĩa. Chữ 简 
giản có 22 nghĩa, chữ 策 sách có 21 nghĩa. 
Các chữ có từ 6 đến 9 nghĩa chiếm phần lớn. 
Số còn lại một phần có từ 11 đến 14 nghĩa, 
một phần nhỏ có từ 15 nghĩa đến 20 nghĩa và 
5 nghĩa trở xuống. Qua đó có thể thấy, những 
chữ Hán có chứa “竹” (trúc) làm thành tố biểu 
nghĩa không những số lượng lớn m ... c loại 
ngọc, đá quý và kim loại, mà còn dùng tre trúc 
chế tác nên đồ trang sức, trong đó, các loại đồ 
trang sức vùng đầu khá đa dạng, chẳng hạn như 
笄 kê (một loại trâm cài đầu), 篦 bí (lược mau/ 
lược bí), 簪 trâm (trâm cài đầu), 籢 liêm (một 
loại hộp đựng nữ trang). Người phụ nữ xưa 
nay đều được coi là sự hội tụ vẻ đẹp của cuộc 
sống, đồ trang sức giúp họ càng trở nên lộng 
lẫy hơn. Trong các loại trang sức thời xưa, nổi 
bật lên là cái trâm. Người xưa dùng tre – một 
loại nguyên liệu màu xanh tự nhiên và có độ 
dẻo cao chế tác thành trâm cài khiến cho mái 
tóc gọn gàng, nhờ đó mà người con gái càng 
thêm đoan trang, quý phái. Về sau, trâm trở 
thành đồ trang sức tinh tế của phụ nữ quý tộc. 
Khi người con gái bắt đầu biết cài trâm trên 
mái tóc là thời điểm đánh dấu sự trưởng thành 
vượt bậc: người con gái ấy đã trở thành thiếu 
nữ và có thể lấy chồng. Truyện Kiều có câu 
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. Trong đó, 
cập kê (及笄) nghĩa là đến tuổi cài trâm, cũng 
là đến tuổi lấy chồng. Người xưa còn dùng tre 
trúc làm nên các loại dụng cụ dùng trong gia 
đình như quạt, mành, đệm, chiếu... Điều đó 
thể hiện qua cấu tạo và nghĩa của các chữ Hán 
như 箑 sáp (quạt tre), 簾 liêm (mành tre), 笫 
tử (chiếu trúc), 筵 diên (chiếu tre)... Ngoài ra, 
người xưa còn dùng loại nguyên liệu này để 
152 P.N. Hàm/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
làm thành các dụng cụ che nắng che mưa như 
簦 đăng (nón/ mũ), 笠 lạp (nón)...
Dân dĩ thực vi thiên là quan niệm truyền 
thống của người xưa. Quan niệm đó ảnh hưởng 
rất lớn đến sự hình thành và phát triển của văn 
hóa ẩm thực Trung Hoa. Từ xa xưa, con người 
đã biết chế biến măng tre thành những món ăn 
khoái khẩu được nhiều người ưa thích. Những 
chữ Hán dùng để chỉ các loại măng trúc măng 
tre rất đa dạng, như 笜 chuyết, 笖 dĩ, 笉 quân, 
笌 nha, 筊 giao, 筍 tuần, 箰 duẩn, 箈 trì... 
Những chữ Hán có chứa “竹” (trúc) dùng để 
chỉ dụng cụ phục vụ ẩm thực, nấu nướng, bếp 
núc..., làm bằng tre cũng không kém phần 
phong phú, như 籔 sổ (cái rá vo gạo), 箅 bức 
(cái giá cách thủy để xôi xôi), 箪 đan (cái giỏ), 
筥 cử (cái sọt hình tròn), 筷 khoái (cái đũa), 
笿 lạc (cái khay), 篅 truyền (cái bồ), 笾 biên 
(cái khay đựng đồ tế lễ), 簝 liêu (cái khay 
đựng thịt làm đồ lễ), 篿 đoàn (cái làn tròn)... 
 Có thể nói, “thế giới công cụ” trong các 
gia đình nông dân xưa ở Trung Quốc cũng như 
Việt Nam đều vô cùng đa dạng. Theo thống kê 
của chúng tôi, chỉ tính riêng những công cụ 
phục vụ đời sống lao động thường ngày của 
người nông dân làm bằng tre trúc thể hiện qua 
nhóm chữ Hán có chứa “竹” (trúc) với vai trò 
là thành tố biểu nghĩa đã có tới 15 loại, như 筒 
thống (cái sọt), 篓 lũ (cái sọt), 箕 ki/ cơ (cái 
nia), 筛 sư (cái sàng), 筐 khuông (cái sọt), 箩 
la (cái rổ), 竿 can (cái sào), 笼 lung (cái lồng), 
簏 lộc (cái bồ), 篮 lam (cái làn)... Những chữ 
Hán có chứa “竹”(trúc) với nghĩa chỉ dụng cụ 
xe tơ dệt lụa cũng khá nhiều, chẳng hạn như 
筦 quản (con thoi), 篗 dược (cái sọt đựng tơ 
lụa), 筘 khấu (linh kiện chính trong khung 
cửi)... Những chữ dùng để chỉ công cụ đánh 
bắt cá như 笱 cẩu (cái đó), 箄 bài (cái lờ) và 
ba chữ 箌 đáo, 簎 trắc, 簖 đoạn đều có nghĩa 
là cái đăng. Điều đó chứng tỏ ngư cụ cổ đại 
Trung Quốc cũng như Việt Nam đều rất đa 
dạng, thể hiện rõ nét đời sống mưu sinh vùng 
sông nước của người xưa.
4.5. Những chữ Hán có liên quan đến tiêu 
chuẩn phẩm chất đạo đức truyền thống
Trong lịch sử phát triển của xã hội Trung 
Quốc, lễ giáo phong kiến có ảnh hưởng sâu sắc 
đến mọi mặt đời sống, nhất là quan niệm về đạo 
đức truyền thống. Chữ 節 (节) tiết nghĩa gốc 
dùng để chỉ các đốt trên thân cây tre, cây trúc. 
Những đặc tính như giữa các đốt tre có khoảng 
cách khá đều đặn, không quá dài, cũng không 
quá ngắn đã khiến người xưa liên tưởng đến 
tiết tháo, phẩm hạnh của con người, thể hiện tư 
tưởng trung dung (sống có chuẩn mực, không 
thái quá cũng không bất cập). Các từ ghép có 
chứa 節 tiết trong tiếng Hán đồng thời du nhập 
sang tiếng Việt trở thành từ Việt gốc Hán như
守 節thủ tiết, 節制 tiết chế, 節行 tiết hạnh, 節
操 tiết tháo..., đã thể hiện điều đó. Một ví dụ 
khác là chữ 範 (范) phạm. Chữ 範 phạm nghĩa 
là chuẩn mực, quy phạm, dạng phồn thể thuộc 
loại chữ hình thanh gồm “竹” (trúc) biểu nghĩa, 
氾 phiếm biểu âm. Từ cấu tạo và nghĩa của hai 
chữ Hán này, chúng ta có thể thấy 節 tiết và 範 
phạm đều là hình ảnh biểu trưng cho sự chuẩn 
mực trong cách nhìn nhận sự vật của người 
xưa. Phẩm chất cao đẹp biết giữ gìn phẩm giá 
của con người, nhất là các bậc hiền nhân quân 
tử có mối quan hệ liên tưởng với đặc tính của 
tre trúc. Cuốn Đại học – một trong Tứ thư có 
ghi “Biết cái đích cần đạt tới và phấn đấu đạt 
tới đích, đồng thời kiên trì giữ vững mục tiêu 
mà mình đã đạt được” (知止止之,知终终
之 tri chỉ chỉ chi, tri chung chung chi). Đó là 
sự thể hiện rõ nét của đạo trung dung cũng 
như lý tưởng rèn luyện, phấn đấu vươn lên 
của người xưa. 
5. Đặc điểm tri nhận thể hiện qua sự phát 
triển nghĩa của nhóm chữ Hán có chứa 
“竹” (trúc) 
Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi tập 
trung phân tích sự phát triển nghĩa của một 
số chữ Hán tiêu biểu có chứa “竹” (trúc) với 
tư cách là tự tố biểu nghĩa, được hình thành 
153Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
thông qua tư duy liên tưởng giữa đặc tính của 
tre trúc với những sự vật hiện tượng hữu quan, 
nhằm làm rõ đặc điểm tri nhận của người xưa 
đối với loài thực vật này. 
5.1. Chữ 節 tiết
Chữ 節 tiết theo giải thích của cuốn Hán 
ngữ đại tự điển có tới 24 nghĩa, trong đó bao 
gồm sự phát triển từ nghĩa chỉ đốt tre trúc đến 
nghĩa chỉ cây cỏ, bộ phận cành lá, chỗ tiếp 
nối giữa thân và cành cây, chỗ tiếp nối xương 
của động vật, thời tiết và các mùa, ngày tết 
hoặc ngày kỷ niệm, khoảng thời gian,... Các 
nghĩa phái sinh này có thể chia làm hai loại, 
thứ nhất là từ nghĩa chỉ sự vật cụ thể hữu hình 
(đốt tre) phát triển thành nghĩa chỉ sự vật cụ 
thể, hữu hình khác có liên quan theo phương 
thức hoán dụ. Thứ hai là từ sự vật cụ thể hữu 
hình (đốt tre) phát triển thành nghĩa chỉ sự 
vật trừu tượng, vô hình như đạo đức, phẩm 
chất của con người trong các từ tiết tháo, tiết 
hạnh, tiết nghĩa, trinh tiết, khí tiết, tiết nghĩa, 
tiết kiệm..., và thời tiết, mùa vụ, như trong các 
từ xuân tiết (tiết xuân), thời tiết..., xuất hiện 
trong cả tiếng Hán và tiếng Việt. Từ tết trong 
tiếng Việt chính là biến thể ngữ âm của 節 tiết 
trong tiếng Hán và từ tét trong bánh tét – đặc 
sản của nhân dân miền Trung và miền Nam 
nước ta cũng có nguồn gốc từ đây. 
Sự phát triển từ nghĩa chỉ sự vật cụ thể hữu 
hình (đốt tre) sang nghĩa chỉ sự vật trừu tượng, 
vô hình (đạo đức, phẩm chất) này mang sắc 
thái của thủ pháp ẩn dụ, trong đó miền nguồn 
là ĐỐT TRE ánh xạ lên miền đích là PHẨM 
CHẤT ĐẠO ĐỨC. Quá trình phát triển nghĩa 
đó trong một mức độ nhất định đã phản ánh 
thế giới quan, nhân sinh quan, đồng thời cũng 
thể hiện quan niệm truyền thống thiên địa 
nhân nhất thể của người xưa. 
5.2. Chữ 管 quản
Chữ 管 quản theo cách giải thích của Hán 
ngữ đại tự điển gồm 24 nghĩa. Trong đó, từ 
nghĩa gốc chỉ ống tre trúc chuyển thành nghĩa 
chỉ một loại nhạc cụ thời xưa, sau đó dùng 
để chỉ chung cho các loại nhạc cụ hình ống. 
Chữ 弦 huyền dùng để chỉ các loại nhạc cụ 
có dây. Từ ghép 管弦 quản huyền được hình 
thành từ đó, tương đương với cách nói ti trúc/ 
tiếng ti tiếng trúc/ tiếng tơ tiếng trúc trong 
tiếng Việt). 管 quản tiếp tục phát triển thành 
nghĩa chỉ các vật thể hình ống, đó là sự phát 
triển nghĩa thông qua liên tưởng giữa các sự 
vật cụ thể, hữu hình. Về sau, từ nghĩa chỉ sự 
vật cụ thể, hữu hình, 管 quản phát triển sang 
nghĩa chỉ sự vật trừu tượng. Về mặt từ loại, từ 
danh từ, 管 quản được chuyển hóa thành động 
từ có nghĩa là trông coi, đôn đốc, khống chế 
đối tượng trong một khuôn khổ không gian 
và thời gian nào đó. Mối liên tưởng này được 
hình thành là do người ta nhận thức về các vật 
thể hình ống thường có hình dạng, kích thước 
nhất định. Ống là vật chứa có chức năng lưu 
giữ nội dung bên trong nó theo một khuôn khổ 
nhất định. Hành vi khiến cho hoạt động của 
một khách thể nào đó tuân thủ quy định được 
gọi là 管 quản, như các từ 主管 chủ quản, 管
理 quản lý, 管教 quản giáo, 管制 quản chế, 
管家 quản gia, 保管 bảo quản, 看管 khan 
quản (trông coi)... Sống trong khuôn khổ, quy 
phạm đó, mỗi vật thể đều chịu tác động của 
môi trường và là sản phẩm của môi trường. 
Tiếng Việt có câu ở bầu thì tròn, ở ống thì dài 
đã nói lên sự tác động của không gian sống đến 
sự sinh tồn và phát triển của sự vật. Nghĩa thứ 
7 của 管 quản chỉ sự hiểu biết nông cạn được 
hình thành từ mối liên tưởng thực tế: quan sát 
sự vật khách quan bằng mắt thông qua chiếc 
ống sẽ bị khống chế tầm nhìn trong một không 
gian hẹp, không thể mở rộng tầm mắt, tương 
đương như cách nói 井底之蛙 tỉnh để chi oa 
(ếch ngồi đáy giếng) có cả trong tiếng Hán và 
tiếng Việt. Có thể nói, những nghĩa được phát 
triển từ cụ thể sang trừu tượng đó thể hiện rõ 
nét đặc điểm tri nhận và khả năng tư duy liên 
tưởng phong phú của người xưa. 
154 P.N. Hàm/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
5.3. Chữ 笨 bổn
Chữ 笨 bổn theo cách giải thích của Hán 
ngữ đại tự điển có 9 nghĩa, trong đó, nghĩa 
gốc chỉ tầng trong của cây tre có màng trắng, 
từ đó phát triển thành nghĩa chỉ sự nặng nề, 
cồng kềnh, sau đó tiếp tục phát triển thành 
nghĩa thô thiển, thiếu tinh tế, vụng về, năng 
lực nhận thức yếu kém, ngu dốt... Đó là sự liên 
tưởng hết sức lý thú. Sự liên tưởng giữa sự vật 
cụ thể khách quan với sự vật trừu tượng đó 
phản ánh quá trình nhận thức dưới góc nhìn 
biện chứng từ trực quan sinh động đến tư duy 
trừu tượng, từ đó hình thành nên khái niệm. 
Theo quan điểm của chúng tôi, chữ 笨 bổn là 
một chữ hội ý kiêm hình thanh, tính chất biểu 
ý của 笨 bổn thể hiện ở sự hội hợp thành tố 
biểu nghĩa “竹”(trúc) và thành tố biểu nghĩa 
kiêm biểu âm 本 bản (gốc cây). Quan sát hình 
dạng của các loài tre trúc, chúng ta thấy càng 
về phía tiếp cận với mặt đất, đốt tre càng ngắn, 
to hơn và khoảng không bên trong hẹp hơn 
(đặc hơn) so với những đốt phía trên của thân 
cây. Từ nhận thức trực quan về hình dạng, tính 
chất của phần gốc các loài tre trúc, người xưa 
liên tưởng đến phản xạ chậm chạp trong tư 
duy, đầu óc nặng nề, hình thành nên khái niệm 
mới: không thông minh, ngu dốt. Tiếng Việt 
có cách nói dốt đặc/ dốt đặc cán mai. Trong 
tiếng Anh, từ dense vốn nghĩa là đặc/ dày đặc, 
phát triển thành nghĩa ngu dốt thường dùng 
trong khẩu ngữ. Điều đó chứng tỏ mối liên 
hệ giữa đặc với sự u tối, nặng nề, ngu muội 
là khá phổ biến với nhiều ngôn ngữ trên thế 
giới. Nếu như phần lớn nghĩa phái sinh của 管 
quản gắn liền với động từ thì phần lớn nghĩa 
phái sinh của 笨 bổn lại gắn với tính từ chỉ 
tính chất của sự vật. Vì vậy, nghĩa của từ trở 
nên phong phú, sinh động, cùng với sự chuyển 
hóa về mặt từ loại phản ánh đặc điểm tri nhận 
gắn liền với tư duy trừu tượng của con người. 
Điều đó càng chứng tỏ “tri nhận là sự gia công 
về mặt thông tin”, “tri nhận là tư duy”, “tri 
nhận là cơ sở của ngôn ngữ, ngôn ngữ là cửa 
sổ của tri nhận” (“认知是信息加工”、 “认知
是思维”、“认知是语言的基础,语言是认
知的窗口”) (赵艳芳,2001). Có thể nói, quá 
trình phát triển nghĩa của chữ “竹” (trúc) cũng 
như những chữ Hán có chứa “竹” (trúc) làm 
thành tố biểu nghĩa là kết quả của quá trình 
nhận thức về sự vật khách quan trong mối 
quan hệ với các sự vật khác và trong quan hệ 
với đời sống của con người. Quá trình tư duy 
liên tưởng ấy đã gắn kết các sự vật cụ thể, hữu 
hình với nhau, đồng thời cũng gắn kết sự vật 
cụ thể hữu hình với sự vật trừu tượng, vô hình. 
Khái niệm trừu tượng cũng theo đó mà hình 
thành và phát triển. 
5. Kết luận
Trung Quốc là quê hương của các loài tre 
trúc. Từ xa xưa, dân tộc Trung Hoa đã nhận 
thức được đầy đủ các đặc tính của loài thực 
vật này, từ đó phát huy tác dụng của tre trúc 
đối với đời sống vật chất và tinh thần. Từ 
nghĩa gốc, thông qua tư duy liên tưởng, chữ 
“竹” (trúc) đã phát triển thành nhiều nghĩa 
phái sinh. Nhóm chữ Hán chứa “竹” (trúc) 
làm thành tố biểu nghĩa không những số lượng 
nhiều và nghĩa cũng rất phong phú, đa dạng. 
Nhờ phép tư duy liên tưởng, nhóm chữ Hán 
này đã phát triển từ nghĩa chỉ sự vật cụ thể hữu 
hình này sang sự vật cụ thể hữu hình khác có 
liên quan, đồng thời phát triển thành nghĩa chỉ 
sự vật trừu tượng, vô hình. Một số khái niệm 
trừu tượng cũng theo đó mà hình thành. Nghĩa 
phái sinh của “竹” (trúc) và những chữ Hán 
có chứa “竹” (trúc) chủ yếu dùng để chỉ một 
số loại nhạc cụ, dụng cụ văn phòng, đồ dùng 
hàng ngày hoặc công cụ lao động và một số 
loại vũ khí mà ban đầu được chế tác bằng tre 
trúc. Đồng thời, một bộ phận chữ Hán thuộc 
nhóm này được phát triển thông qua phương 
thức ẩn dụ, từ miền nguồn tre trúc ánh xạ lên 
miền đích là thời tiết, mùa vụ và phẩm chất 
đạo đức. Sự phát triển nghĩa của bản thân 
chữ “竹” (trúc) cũng như nhóm chữ Hán có 
155Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 145 - 155
chứa “竹” (trúc) với tư cách là thành tố biểu 
nghĩa thể hiện sinh động đặc điểm tri nhận của 
người xưa đối với loài thực vật thanh mảnh, 
mọc thành khóm, sắc màu tươi xanh và có sức 
sống mãnh liệt, dẻo dai này. Có thể nói, hàm 
ý văn hóa của nhóm chữ Hán chứa “竹” (trúc) 
rất sâu sắc, trong một chừng mực nhất định, 
nó đã phản ánh diện mạo xã hội Trung Quốc 
cổ đại với nhiều giá trị vật chất và tinh thần, 
trở thành trầm tích văn hóa cần được tiếp tục 
đi sâu nghiên cứu hơn nữa. 
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Phạm Ngọc Hàm (2012). Chữ Hán: Chữ và nghĩa. Hà 
Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cầm Tú Tài, & Lê Quang Sáng (2017). Văn tự Hán và 
vai trò của giới trong hôn nhân. Nghiên cứu Nước 
ngoài, 33(05), 104-112.
Nguyễn Kim Thản (1984). Lược sử ngôn ngữ học, Tập 
1. Hà Nội: Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp.
Lê Quang Thiêm (2015). Sự phát triển nghĩa từ vựng 
tiếng Việt từ 1945 đến 2005. Hà Nội: Nxb Đại học 
Quốc gia Hà Nội.
Tiếng Trung
范明进主编 (2018). 汉字文化圈:汉语教学与研
究. 河内国家大学出版社,25-30.
何九盈等人(1990). 中国汉字文化大观. 北京大学出
版社.
唐汉(2001). 汉字密码. 学林出版社.
谢光辉(1997). 常用汉字图解. 北京大学出版社.
萧启宏(2004). 从人字说起. 新世界出版社.
赵艳芳 (2001). 认知语言学概论. 上海外语教育出版社.
周有光 (2000). 汉字与文化问题. 辽宁人民出版社.
Từ điển
汉语大字典编辑委员会 (2010). 汉语大字典. 湖北长
江出版集团等出版单位出版.
李宝嘉、唐志超 (2001). 现代汉语规范词典. 吉林大
学出版社.
王同亿 (1993). 新现代汉语词典. 海南出版社.
许慎 (2012). 说文解字. 中国书局.
SEMANTIC FEATURES OF WORDS 
CONTAINING “竹 BAMBOO” IN CHINESE CHARACTERS
Pham Ngoc Ham
VNU University of Languages and International Studies
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract. As an ideographic and phonogramic writing system, Chinese characters vividly reflect 
human cognition about the real world and their life. This is evident in such canonical examples as Chinese 
characters that contain the symbol “竹” (bamboo). The article primarily uses common research methods, 
including statistical, descriptive, analytic methods, to examine the relationships between pictograms and 
semantics of Chinese characters containing “竹” (bamboo), clarify their semantic development as well 
as cultural implications. The paper hopes to contribute a reference for studying Chinese characters and 
teaching Chinese in Vietnam.
Keywords: 竹 bamboo, Chinese characters, semantics, cognition, culture

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_nghia_cua_nhom_chu_han_co_chua_truc_trong_he_thong.pdf