Chính sách khai hoang của các Chúa Nguyễn ở đàng trong (1558 – 1777)

Trong suốt hơn 200 năm tồn tại, các chúa Nguyễn đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, trong đó đáng chú ý là quá trình khai hoang mở rộng diện tích lãnh thổ. Với các chính sách quản lý và khai thác phù hợp với từng vùng miền, từng loại đất và với từng giai đoạn lịch sử, các chúa Nguyễn đã khuyến khích được mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình khai hoang. Đó không chỉ là người Kinh, người Chăm, người Khmer mà lực lượng người Hoa cũng được sử dụng đông đảo. Cùng với quá trình khai hoang là quá trình cộng cư, giao thoa văn hóa, tạo nên một nền kinh tế Đàng Trong năng động, mang tính mở và đa dạng.

pdf 12 trang thom 04/01/2024 2500
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách khai hoang của các Chúa Nguyễn ở đàng trong (1558 – 1777)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách khai hoang của các Chúa Nguyễn ở đàng trong (1558 – 1777)

Chính sách khai hoang của các Chúa Nguyễn ở đàng trong (1558 – 1777)
32 Nguyễn Thị Hải
Chính sách khai hoang của các Chúa Nguyễn ở đàng trong 
(1558 – 1777)
Tóm tắt: Trong suốt hơn 200 năm tồn tại, các chúa Nguyễn đã đạt được nhiều thành tựu 
nổi bật, trong đó đáng chú ý là quá trình khai hoang mở rộng diện tích lãnh thổ. Với các chính 
sách quản lý và khai thác phù hợp với từng vùng miền, từng loại đất và với từng giai đoạn lịch 
sử, các chúa Nguyễn đã khuyến khích được mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình khai 
hoang. Đó không chỉ là người Kinh, người Chăm, người Khmer mà lực lượng người Hoa cũng 
được sử dụng đông đảo. Cùng với quá trình khai hoang là quá trình cộng cư, giao thoa văn 
hóa, tạo nên một nền kinh tế Đàng Trong năng động, mang tính mở và đa dạng.
Từ khóa: Đàng Trong; Chúa Nguyễn; Khai hoang
Abstract: During more than 200 years of existence, the Nguyen Lords had gained 
many outstanding achievements, including the remarkable process of reclaiming expanded 
territory. Thank to management and exploitation policies which are suitable to each region, 
each land type and each historical period, the Nguyen Lords encouraged all people of all 
classes to participate in the reclamation process. Participating in the reclamation process, not 
only Kinh, Cham, and Khmer ethnic groups, but also Chinese forces were mobilized. Along 
with the reclamation process is the process of settlement and cross-cultural intercourse, 
creating a dynamic, opened and diversified economy in Dang Trong (Cochinchina). 
Key words: Cochinchina; Nguyễn Lords; Reclamation
Ngày nhận bài: 25/10/2019 Ngày duyệt đăng: 2/12/2019
1. Đặt vấn đề
Lãnh thổ Đại Việt được mở rộng nhanh chóng về phía Nam ở cả đất liền và biển đảo 
từ khi Nguyễn Hoàng được trao cờ tiết làm quan Trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, kiêm nhiệm 
Trấn thủ Quảng Nam năm 1570, được các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn sau này tiếp tục thi 
hành. Nhờ có chính sách khai hoang khéo léo, các chúa Nguyễn đã nhanh chóng đứng vững 
trên vùng đất mới, đủ sức gây dựng một chính quyền độc lập, mở ra một trang sử mới cho 
lịch sử dân tộc, đó là thời kỳ phát triển kinh tế đi đôi với mở rộng và khẳng định độc lập chủ 
quyền lãnh thổ. Bài viết này tập trung làm rõ chính sách khai hoang của các chúa Nguyễn, từ 
đó khẳng định đóng góp của chính quyền này đối với việc mở rộng và xác lập chủ quyền lãnh 
thổ ở Đàng Trong.
Nguyễn Thị Hải 
Viện Sử học,
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Email liên hệ: nguyenhaivsh@gmail.com 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 06 (62) - 2019 33
2. Vài nét về chính sách khai hoang và ruộng đất Đàng Trong trước năm 1558
Công cuộc khai hoang lập làng ở vùng đất Thuận Quảng đã được các tầng lớp lưu dân 
người Việt tiến hành từ rất sớm, thông qua con đường tự phát hoặc theo chính sách của nhà 
nước. Từ thời Lý – Trần lãnh thổ Đại Việt đã được mở rộng đến vùng đất Địa Lý, Ma Linh, Bố 
chính, Châu Ô, Châu Lý1. Từ cuối thời Trần và sang nhà Hồ, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương sau 
khi đã dẹp yên quân Chiêm Thành khiến vua Chiêm phải dâng hai mảnh đất Chiêm Động và 
Cổ Lũy2 cho nước Đại Ngu của nhà Hồ. Nhà Hồ đã đặt vùng đất mới này thành xứ Thăng Hoa 
bao gồm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đến đây lãnh thổ nhà Hồ đã kéo dài đến Bắc Quảng 
Ngãi. Để quản lý và khai khẩn vùng đất mới, nhà Hồ đã chiêu mộ dân nghèo không có ruộng 
ngoài Bắc biên chế thành quân ngũ cho vào khẩn hoang, kêu gọi các nhà giàu nộp trâu bò, 
mua phẩm tước để lấy trâu bò cấp cho dân di cư; lại cho thích tên châu vào cánh tay để làm 
dấu hiệu (Lê Quý Đôn, 2007, tr.35) tránh việc trốn về quê cũ. Tuy nhiên, các chính sách này 
không thu hút được lực lượng đông đảo dân di cư bởi vì trong tiềm thức của người dân Việt 
đó vẫn là vùng biên viễn xa xôi, là nơi đày ải của các tội nhân. Sang thời Lê Sơ, chính quyền đã 
có nhiều chính sách quan tâm hơn đến mở rộng và khai thác lãnh thổ, trong đó chính sách 
mộ dân khai hoang và sử dụng các tù binh khai hoang lập đồn điền được xem là chính sách 
nổi bật. Đến năm 1481 cả nước có cả thảy 43 sở đồn điền, riêng vùng Thuận Quảng có 4 sở 
đồn điền tương ứng với 4 phủ là Triệu Phong, Tân Bình, Thăng Hoa và Tư Nghĩa, các sở đồn 
điền đều đặt chức Chánh, Phó sứ cai quản (Trương Hữu Quýnh, 2009, tr.220). Đến giữa thế kỷ 
XVI dân cư vùng Thuận Hóa mặc dù đã tăng hơn trước3 nhưng lòng dân hãy còn tráo trở, phần 
lớn là những tội nhân, những tay du đãng và những người theo họ Mạc (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2004, tr.31), do đó nhà nước chưa có điều kiện để thi hành những chính sách trong 
phát triển kinh tế. Tác giả Ô châu cận lục mô tả tình hình sinh hoạt ở Thuận Hóa vào nửa đầu 
thể kỷ XVI như sau: “nước lũ mặc cho tràn ngập, chẳng có đê ngăn ngừa, nhà ở thì cất bằng cỏ 
gianh, không có ngói để lợp. Đường xa ngàn dặm không hàng quán” (Dương Văn An, 1997, tr.44).
Vùng đất Nam Bộ vốn trước đây là địa bàn của vương quốc cổ Phù Nam, đến nửa sau thế 
kỷ VII bị người Chân Lạp thôn tính. Tuy nhiên, ngay cả khi Chân Lạp phát triển cường thịnh từ 
khoảng thế kỷ IX đến thế kỷ XVI cũng chủ yếu ở vùng trung tâm quanh Biển Hồ, còn lại vùng 
đất Nam Bộ ngày nay (tức Thủy Chân Lạp) vẫn chưa mang dấu ấn của Chân Lạp. Điều đó cho 
thấy, thực chất Chân Lạp chưa thể quản lý hết được vùng đất Nam Bộ của người Phù Nam và 
không đủ năng lực để khai thác vùng đất rộng lớn này. Theo ghi chép của Chu Đạt Quan vào 
thế kỷ XIII thì diện tích của vùng có khoảng 7.000 dặm nhưng hầu hết chỉ toàn là bụi rậm, rừng 
thấp, những cánh đồng bỏ hoang, chỉ toàn là cỏ kê mọc, mây leo um tùm, trâu rừng họp thành 
từng đàn (Chu Đạt Quan, 2007, tr.73). Đến thế kỷ XVII, vùng đất Thủy Chân Lạp vẫn chỉ “toàn là 
rừng rậm hàng mấy nghìn dặm” (Lê Quý Đôn, 1977, tr.345). Như vậy, trước khi cư dân người Việt 
và chúa Nguyễn vào khai phá, phần lớn diện tích đất ở Nam Bộ là đất hoang, sình lầy chưa được 
khai thác, hoặc nếu có chỉ một ít ở các giồng đất cao ven sông Mê Kông do người Khmer, Chu 
Ru, Stiêng, K’ho, M’Nông khai phá, nhưng số đất giồng đã khai thác này cũng chiếm một diện 
tích nhỏ với trình độ sản xuất thấp kém, còn lại vẫn là “dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um”. 
Như vậy, mặc dù trong chính sử không ghi rõ về tình hình ruộng đất và đời sống nông 
dân trước thế kỷ XVI, nhưng thông qua một vài ghi chép còn lẻ tẻ chúng ta có thể thấy rằng số 
34 Nguyễn Thị Hải
diện tích thực dụng ở Đàng Trong còn quá ít. Diện tích đất khai hoang chủ yếu chỉ tập trung 
ở các vùng đất cao, vùng đồi núi, còn lại vùng ven sông, ven biển chưa được khai thác, phần 
lớn là vùng sình lầy và đất hoang hóa. Đây chính là vùng đất hứa cho công cuộc mở mang bờ 
cõi, xây dựng cơ nghiệp của dòng họ Nguyễn.
3. Chính sách khai hoang của các chúa Nguyễn
Để có thể nhanh chóng ổn định dân cư và sớm có diện tích canh tác, các chúa Nguyễn 
đã áp dụng các chính sách phù hợp với từng khu vực và với từng đối tượng lao động trong các 
giai đoạn khác nhau. Cụ thể như sau:
Đối với những vùng ven sông, ven biển xứ Thuận - Quảng. 
Một trong những chính sách quan trọng nhất của các chúa Nguyễn đối với vùng đất 
đứng chân Thuận – Quảng đó là chính sách sử dụng lực lượng người Chăm, gốc Chăm trong 
khai hoang bên cạnh lực lượng đông đảo người Kinh di cư theo Nguyễn Hoàng từ các tỉnh 
phía Bắc. Về lực lượng người Kinh hay người Việt đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. 
Do đó, trong bài viết này tác giả muốn nhấn mạnh đến lực lượng người Chăm, gốc Chăm 
trong khai hoang.
Vùng đất Thuận Hóa và Quảng Nam vốn là vùng đất gốc của cư dân Champa với đặc 
trưng trồng lúa trên diện tích khô hạn (hay còn gọi là lúa Chiêm), khai thác lâm sản và thương 
mại. Các chúa Nguyễn vào Đàng Trong năm 1558 trong bối cảnh hết sức khó khăn, người 
dân Champa chưa thực sự quy phục, đây lại chủ yếu là nơi đày ải các tội phạm, số người Kinh 
vào đây từ các thế kỷ trước còn rất ít. Vì thế để có thể nhanh chóng thích ứng với môi trường 
mới, Nguyễn Hoàng đã dựa vào bộ máy quản lý đã được nhà Lê xây dựng từ trước đó, đồng 
thời khuyến khích những người dân gốc Chăm ở vùng Thanh Hóa và các tỉnh phía Bắc bị bắt 
trong các thế kỷ trước quay trở lại vùng đất cũ khai hoang với những chính sách ưu ái. Điều 
này mặc dù chưa có tư liệu nào ghi chép cụ thể, nhưng dựa vào số liệu những tù binh người 
Chăm bị bắt trong các cuộc chiến từ thế kỷ X đến thế kỷ XV được ghi chép trong chính sử mà 
chúng ta có thể biết được người Chăm ở Đại Việt là rất lớn. Chẳng hạn: Năm 982 Lê Hoàn tấn 
công Champa đã bắt giữ 100 cung phi Chăm. Thời Lý Thánh Tông năm 1044 bắt 5000 người, 
năm 1069 bắt 5 vạn người (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 1993, tr.266, 275). Vua Lý Thánh 
Tông đã giữ lại một lực lượng cung nữ và thợ thủ công có tay nghề cao ở lại kinh thành. Vì thế, 
tại di tích khảo cổ Thăng Long đã tìm thấy nhiều hiện vật mang đậm phong cách nghệ thuật 
điêu khắc đá Champa. Số còn lại được phân bố rải rác ở các địa phương và làm những công 
việc khác nhau. Tiêu biểu như: năm 1044, vua xuống chiếu cho các chiến tù đều ghép theo 
bộ thuộc cho ở từ trấn Vĩnh Khang (ở Nghệ An) thẳng đến châu Đăng (tức Quy Hóa sau này), 
đặt hương ấp, phỏng theo danh hiệu cũ của Chiêm Thành (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 
1993, tr.267). Sang thời Lê Sơ số tù binh Chăm bị bắt đưa về Đại Việt năm 1471 cũng có khoảng 
hơn 3 vạn người (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 1993, tr.449), ngoài ra còn có cả các gia 
đình hoàng gia (D.G.E.Hall, 1997, tr.306), triều đình nhà Lê đã cho một lượng lớn tù binh an 
tháp ở vùng Thanh Hóa lập sở đồn điền (trong đó đồn điền ở Quảng Thái - Quảng Xương là 
ví dụ), hay ở các làng xã khác ở Thanh Hóa cũng có người Chăm mà ảnh hưởng không thể coi 
nhẹ (Charles Robequain, 2012, tr.327). Cư dân Champa cũng là những người có hiểu biết rất 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 06 (62) - 2019 35
nhiều điều về canh nông. Họ là những người làm vườn rất khéo và hình như chuyên về nghề 
trồng cây ăn quả“ (G.Maspéro, 1928, tr.23). Việc tận dụng những người gốc Chăm hoặc những 
cư dân chịu ảnh hưởng nhiều bởi dân tộc Chăm như dân ở Thanh Hóa, Nghệ An là điều cần 
thiết trong buổi đầu khai phá của các chúa Nguyễn, vì qua đó các chúa Nguyễn có thể dễ 
dàng thu phục những người Chăm còn lại ở vùng Thuận Hóa và Quảng Nam theo chúa khai 
phá tiếp những vùng đất còn lại ở vùng đồi núi, vùng biển đảo và vùng đất trũng ở Nam Bộ.
 Đối với những người Chăm chưa quy phục và luôn tìm cách chống đối, chúa Nguyễn 
Phúc Chu (1691 - 1725) cho lập trấn Thuận Thành vào năm 1694 và giao cho người Chăm toàn 
quyền quản lý và khai thác (vùng đất này tương ứng với Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay) 
do một võ quan người Chăm là Kế Bà Tử làm Trấn thủ (Vũ Văn Mẫu, 1980, tr.159). Việc duy trì 
Trấn Thuận Thành và cho phép người Chăm có quyền tự trị cho thấy các chúa Nguyễn dường 
như chưa có sự khám đạc và quản lý đối với ruộng đất của người Chăm mà để dân được tự ý 
khai khẩn đất đai, hàng năm nộp cống4. Đến năm 1832, sau khi sáp nhập trấn Thuận Thành 
vào tỉnh Bình Thuận, nhà Nguyễn mới quan tâm đến việc kiểm kê ruộng đất của người Chăm 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2004, tập 3, tr.303,304). Theo tài liệu địa bạ năm 1836 mới phát 
hiện gần đây của Đổng Thành Danh (2018, tr.48-52) cho biết: ở Bình Thuận có diện tích điền 
thực là 40264mẫu.5sào.4thước chia làm 4 loại là: dân điền, trà nương điền, phiên liêu điền và 
dương điền5, trong đó dân điền có 10146 mẫu 3 sào 10 thước 3 tấc, phiên liêu điền có 1630 
mẫu 1 sào 9 thước 4 tấc, trà nương điền là 4038 mẫu 6 sào 0 thước 8 tấc, dương điền là 800 
mẫu 3 sào 3 thước 5 tấc. Như vậy dưới thời các chúa Nguyễn, người Chăm vẫn tiếp tục được 
phép khai hoang, và ruộng đất sau khi khai khẩn thuộc về ruộng đất tư do các vua Chăm trực 
tiếp quản lý. Đồng thời cũng có không ít lưu dân người Việt vào khai khẩn vùng đất ven sông, 
ven biển ở trấn Thuận Thành (Đổng Thành Danh, 2008, tr.53).
Các chúa Nguyễn cũng khuyến khích và trọng dụng các dòng họ lớn ở miền Bắc cũng 
như lực lượng tướng sĩ và binh sĩ cùng đi với Nguyễn Hoàng. Theo khảo cứu của Phan Đại 
Doãn và Cao Văn Biền thì đoàn tùy tùng từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa năm 1558 có hơn 1000 
binh sĩ và nhiều chiến thuyền (Phan Đại Doãn, Cao Văn Biền, 1994, tr.87). Trong số những binh 
sĩ đi theo cùng với Nguyễn Ư Dĩ (hay còn gọi là Ư Dị - cậu của Nguyễn Hoàng) quê ở làng Phạm 
Xá, huyện Tứ Kỳ (nay thuộc tỉnh Hải Dương), Tống Phước Trị quê ở huyện Tống Sơn (Thanh 
Hóa) và Mạc Cảnh Huống ắt hẳn cũng có không ít những người gốc Chăm. Nguyễn Hoàng 
lấy lòng thành đối đãi, miễn thuế khóa, khuyến khích nhân dân được tự do khai phá ruộng 
đất, và được tự ý tìm đất dựng nhà, trọng dụng người tài. Sách Đại Nam thực lục cho biết, khi 
đã vào Thuận Hóa dựng dinh ở xã Ái Tử, “chúa khuya sớm chăm lo, nghĩ việc củng cố căn bản. 
Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống cùng lòng hợp sức, quy hoạch nhiều phương, 
chúa đều thành thực tin dùng”, lại “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2004, tr.28). Nhờ đó, các chúa Nguyễn đã nhanh chóng hòa hợp, 
thích nghi với điều kiện mới, mở rộng diện tích canh tác và tạo được thế đứng chân vững chắc 
ở vùng Thuận – Quảng.
Phương thức khai hoang chủ yếu ở vùng ven sông, ven biển Thuận – Quảng đó là kết 
hợp phương pháp trồng lúa nước của người Việt với việc tận dụng hệ thống dẫn nước sẵn có 
của người Chăm từ các thế kỷ trước, áp dụng phương pháp đao canh hỏa chủng tức là dùng 
dao chặt cây rồi đốt đợi vài ngày sau thì xới đất lên và gieo hạt. 
36 Nguyễn Thị Hải
Đối với vùng đồi núi, biên giới phía Tây Đàng Trong: Các chúa Nguyễn nhận thấy đây là 
vùng dân cư thưa thớt, rừng rậm, nhiều tài nguyên nhưng lại là nơi dễ xảy ra các cuộc nổi dậy 
của các thế lực chống đối. Vì thế, việc khai phá và quản lý vùng đất này là một thách thức hết 
sức khó khăn đối với các vị quan Trấn thủ. Trước hết, các chúa Nguyễn đưa ra chính sách cho 
phép công nhận ruộng đất tư hữu cho những ai khai hoang ở những vùng rừng núi, những 
nơi điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi và những vùng đất hoang hóa chưa có người 
khai thác. Chính sách nêu rõ: “Nếu có người khai khẩn rừng hoang mà cày thành ruộng thì cho 
trưng làm ruộng tư (bản bức tư điền), cho được cày mãi mà nộp thuế riêng”(Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2002, tr.82). Đồng thời ở các khu vực miền núi như châu Bắc Bố Chính là vùng đất ven 
rừng, các chúa Nguyễn thực hiện chính sách tô thuế rộng rãi: “đinh điền không phải nộp phú 
thuế, không khai hộ tịch” (Lê Quý Đôn, 1977, tr.100).
Thứ hai, đối với cư dân bản địa sống ở vùng núi cao (người phương Tây hay gọi là Kemoi, 
Rumoi, người Kinh gọi là người Mọi hay người Thượng), họ quen với lối sống tự do và phong 
tục tập quán riêng, lại không dễ khuất phục. Do đó, chính quyền chúa Nguyễn đã áp dụng 
chính sách vừa mềm dẻo vừa cứng rắn nhằm ổn định đời sống nhân dân các bộ tộc “đặc 
biệt hiếu động và thiện chiến” này (Henri Maitre, 2008, tr.196). Chúa Nguyễn cho phép họ 
được tiếp tục sinh sống, khai thác trên những vùng đất mà họ muốn và quản lý họ theo một 
phương thức cũ đã được Bùi Tá Hán6 thi hành. Đó là sử dụng người vùng cao trong việc trông 
coi, giám sát người dân trong xứ dưới quyền của quan Cai trị. Đồng thời tha thuế khóa, nhẹ 
hình phạt, quan tâm đến đời sống của người dân, cho họ được giữ gìn phong tục tập quán 
cũ, Bên cạnh đó, các chúa Nguyễn còn hết  ...  ven sông, 
ven biển mà ngay cả đối với vùng núi, hải đảo và vùng đất trũng đầy chướng khí nguy hiểm 
cũng được khai thác. Đến thế kỷ XVIII số thôn ấp, dân đinh và diện tích ruộng đất khai thác 
được ở Đàng Trong tăng lên đáng kể. Ở Thuận Hóa có khoảng 400.000 người, Quảng Nam có 
khoảng 300.000 người, Nam Trung Bộ (gồm Bình Khang, Diên Khánh, Bình Thuận) khoảng 
60.000 người, vùng Gia Định khoảng 130.000 người, vùng bờ Tây sông Hậu và các hải đảo 
khoảng 80.000 người. Tổng cộng ước tính số dân Đàng Trong đến những năm 70 của thế kỷ 
XVIII đã có khoảng 1 triệu người.
Kết quả khai hoang
Bằng chính sách khai hoang thiết thực, lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đến Cà Mau, Hà 
Tiên cả đất liền và hải đảo. Diện tích ruộng đất canh tác tăng lên đáng kể, tư liệu địa bạ của 
các làng, xã còn lưu giữ lại minh chứng cho điều đó. Ví dụ trong địa bạ làng An Lỗ (nay thuộc 
xã Phong Hiền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) ghi rõ, số ruộng đất từ năm 1586 
đến năm 1659 tăng từ 102 mẫu 7 sào lên 128 mẫu 8 sào 8 thước 4 tấc. Đến năm 1669 tăng lên 
140mẫu. 5sào. 8thước, trong đó số ruộng đất công và đất sử dụng thực tế cũng tăng lên từ 0 
sào ruộng công và 30 mẫu ruộng hoang năm 1586, tăng lên 25 mẫu ruộng công và ruộng bỏ 
hoang giảm còn 26 mẫu năm 1659, đến năm 1669 tăng lên 31 mẫu đất công, đất bỏ hoang 
chỉ còn 2mẫu. 3sào (Lê Văn Thuyên và các cộng sự, 1996, tr.101-110). Ở làng Phú Bài diện tích 
đất cũng tăng đáng kể từ 583mẫu 8sào năm 1581 lên 2.322mẫu. 1sào. 1thước năm 1677 (Bùi 
Thị Tân, 1999, tr.52). Các làng mới khai hoang được liệt kê trong Phủ biên tạp lục so với Ô châu 
cận lục tăng lên đáng kể, hầu hết các làng đều giữ tên làng cũ và đặt thêm chữ “phường” ở 
đằng sau, hay kèm theo chữ “thượng”, “hạ” hoặc chữ “chánh” để phân biệt với làng cũ. Chỉ tính 
riêng các huyện Lệ Thủy, Khang Lộc, Minh Linh, Đăng Xương, Hải Lăng, Hương Trà, Phú Vang, 
Quảng Điền, đã có thêm 69 làng mới được lập. Ở Bắc Quảng Nam từ khi Nguyễn Hoàng vào 
quản lý đến thời chúa Nguyễn Phúc Thuần cũng có 51 làng được khai khẩn bởi cư dân Thanh 
- Nghệ (Huỳnh Công Bá, 2002, tr.75-106). Sau khi ruộng khẩn ngày một nhiều, năm 1726 chúa 
Nguyễn Phúc Chú (1725 - 1738) sai thống kê các thuộc13 và dân số mỗi thuộc để sắp đặt quan 
lại địa phương, cho ta biết số thuộc ở các phủ phần lớn được thành lập từ cuối thế kỷ XVI đến 
thế kỷ XVII như: Phủ Thăng Hoa có 15 thuộc, Phủ Điện Bàn có 4 thuộc, Phủ Quảng Nghĩa có 
4 thuộc, Phủ Quy Ninh có 13 thuộc, Phủ Phú Yên có 38 thuộc, phủ Bình Khang 20 thuộc, phủ 
Diên Ninh 14 thuộc, phủ Bình Thuận 20 thuộc. Đến năm 1773, xứ Thuận Hóa gồm 2 phủ 8 
huyện, 1 châu, có 862 xã, thôn, phường với số dân đinh là 126.857 người và diện tích ruộng 
đất toàn bộ là 265.507 mẫu, trong đó số ruộng thực canh là 153.181 mẫu (Lê Quý Đôn, 1977, 
40 Nguyễn Thị Hải
tr.136). Căn cứ vào số liệu năm 1764 và 1767 thì số ruộng đất thực canh của 3 phủ Thăng Hoa, 
Quảng Nghĩa, Quy Nhơn là 217.939 mẫu.
Ở vùng đất Gia Định xưa, tức Nam Bộ ngày nay, theo báo cáo của Cai bạ ở dinh Long 
Hồ thời bấy giờ là Nguyễn Khoa Thuyên thì số thôn ấp, diện tích và dân đinh ở đây tăng lên 
nhanh chóng vào thế kỷ XVIII: Huyện Tân Bình có hơn 350 thôn, thuộc Quy An, Quy Hóa dân 
đều hơn 3.000 đinh, ruộng đều hơn 5.000 thửa; thuộc Tam Lạch số thôn hơn 100 thôn, dân 
hơn 4.000 đinh, ruộng hơn 5.000 thửa. 3 trại thuộc Bả Canh, Bà Lai, Bà Kiến số thôn 100 thôn, 
dân hơn 4000 đinh, ruộng hơn 4.000 thửa. Huyện Phước Long thuộc dinh Trấn Biên số thôn 
là 250 thôn, dân số khoảng 8.000 đinh. Châu Định Viễn số thôn có khoảng 350 thôn, dân hơn 
7.000 đinh, ruộng hơn 7.000 thửa. Thuộc Canh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp có chừng 40 thôn 
nậu, dân số 1.000 đinh; thuộc Ô Tất chừng 30 thôn dân số ước 500 đinh (Lê Quý Đôn, 1977, 
tr.140, 141, 196). So với vùng Thuận - Quảng thì dân cư vùng đồng bằng Đồng Nai - Cửu Long 
còn thưa thớt, diện tích khẩn hoang được chưa nhiều nhưng đó là thành quả hết sức to lớn 
mà các chúa Nguyễn đã đạt được.
4. Kết luận
Thông qua việc phân tích chính sách khai hoang của các chúa Nguyễn đối với từng khu 
vực và kết quả của quá trình khai hoang, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất: chính sách khai hoang của các chúa Nguyễn là nhất quán ngay từ thời chúa 
Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần đối với tất cả các vùng đất, đó là khuyến khích và tạo 
mọi điều kiện tốt nhất cho dân khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích lãnh thổ. Chính quyền 
dường như chưa có những kiểm soát khắt khe đối với lực lượng khai hoang cũng như chưa có 
những quy định ràng buộc về chế độ đất đai và quản lý nhân khẩu như ở Đàng Ngoài. Do đó, 
người dân có thể tự do khai phá những vùng đất trống, tạo ra một môi trường sống mới năng 
động hơn, đồng thời các chúa Nguyễn cũng đạt được mục đích mở rộng lãnh thổ, tạo nên thế 
đứng chân vững chắc ở Đàng Trong.
Thứ hai, các chúa Nguyễn luôn tôn trọng và trọng dụng những cư dân bản địa, những 
người dân tộc thiểu số hay các lực lượng di cư từ các nơi khác nhau vào Đàng Trong, nhằm mục 
đích chung là mở rộng đất đai. Với các chính sách sử dụng lực lượng khai hoang khéo léo này, 
các chúa Nguyễn đã nhanh chóng có được vùng đất Đàng Trong trù phú và dân cư đông đúc.
Thứ ba, sự khác biệt trong chính sách khai hoang của các chúa Nguyễn đối với mỗi khu 
vực, mỗi giai đoạn được thể hiện rõ trong chính sách sử dụng lực lượng khai hoang và phương 
thức khai hoang: Đối với vùng đất Thuận Hóa, Quảng Nam là nơi đầu tiên các chúa Nguyễn 
vào trấn trị, lại là vùng đất hết sức phức tạp bởi sự tồn tại của các tiểu quốc Champa, và lực 
lượng phạm nhân. Do đó, ngoài việc sử dụng lực lượng người Kinh và quân đội do các tướng 
lĩnh đi theo chỉ huy nhằm trấn áp sự nổi dậy của các thế lực, các chúa Nguyễn đã khéo léo 
sử dụng người Chăm bản địa và người Việt gốc Chăm trong khai hoang. Với số lượng tù binh 
người Chăm bị bắt trong các thế kỷ trước tương đối lớn được an tháp ở vùng Thanh Hóa, Nghệ 
An và Kinh Bắc đến đây họ di cư trở lại theo các chúa Nguyễn để khai phá và lập lại cuộc sống 
nơi quê hương bản quán là điều có thể xảy ra. Trên cơ sở đó, phương thức khai hoang chủ yếu 
ở vùng Thuận – Quảng là phát canh đồi núi, sử dụng hệ thống thủy lợi của người Chăm để sản 
xuất nông nghiệp trồng lúa chống hạn, khai thác lâm thổ sản và nguồn lợi biển đảo.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 06 (62) - 2019 41
 Trong khi đó, ở vùng núi phía Tây là vùng có điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi, 
người Kinh và các dân tộc vùng đồng bằng không có kinh nghiệm khai thác tài nguyên thiên 
nhiên, nên các chúa Nguyễn chủ yếu sử dụng người Thượng (gồm nhiều dân tộc thiểu số khác 
nhau) vào việc khai thác những lợi thế sẵn có của họ ở các vùng đầu nguồn, đó là lâm thổ sản 
và vận chuyển hàng hóa. Họ cũng là tầng lớp trung gian trong hoạt động thương mại giữa 
miền ngược với miền xuôi.
Ở Nam Bộ, lực lượng người Hoa, người Chăm và những người dân giàu có vùng Quảng 
Nam, Quy Nhơn là lực lượng khai hoang chủ đạo. Họ vào Nam khai thác theo phương thức 
“tàm thực”, từng bước khai hoang, lập làng. Sau khi làng xã ra đời, chúa Nguyễn mới từng bước 
thiết lập chính quyền cai trị. Song bộ máy chính quyền quản lý ở miền Nam còn hết sức lỏng 
lẻo, dân di cư không chỉ là dân nghèo mà chủ yếu là dân có vật lực nên ruộng đất tư ở đây rất 
phát triển, tạo nên những địa chủ lớn với nền kinh tế năng động.
Có thể thấy, chính sách khai hoang mở rộng diện tích lãnh thổ được các chúa Nguyễn 
thực hiện không chỉ tác động trực tiếp đến vận mệnh của chính quyền nhà Nguyễn, mà còn 
có ý nghĩa quan trọng đối với việc khẳng định chủ quyền dân tộc trên các vùng đất hoang, 
các vùng đồi núi, biển đảo. 
Chú thích:
1. Năm 1075 vua Lý Nhân Tông đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình (nay thuộc huyện 
Lệ Ninh-Quảng Bình), châu Ma Linh làm châu Minh Linh (nay thuộc các huyện Vĩnh Linh, Gio 
Linh, Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị), châu Bố Chính nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, 
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Châu Ô là tên cũ của vùng đất từ đèo Lao Bảo đến lưu vực sông 
Thạch Hãn phía Nam tỉnh Quảng Trị ngày nay. Châu Lý (hay Rí) nay là tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Hai vùng đất này nay thuộc Quảng Nam và Bắc Quảng Ngãi.
3. Dương Văn An ghi chép về vùng đất Thuận Hóa đến năm 1553 bao gồm: huyện Lệ 
Thủy (32 xã, 1 thôn); huyện Khang Lộc (73 xã); châu Minh Linh (65 xã), châu Bố Chính (69 xã); 
Phủ Triệu Phong có huyện Kim Trà (sau đổi là Hương Trà): 60 xã, huyện Tư Vang (hay Phú Vang) 
có 67 xã, huyện Vũ Xương: 59 xã, huyện Hải Lăng: 49 xã, huyện Đan Điền: 53 xã, huyện Điện 
Bàn: 66 xã; Địa Lý có Phủ Tân Bình gồm 5 huyện; Phủ Thuận Hóa có 9 huyện (395 huyệt). Huyệt: 
chỉ một cụm dân cư nghĩa tương đương như xóm.
4. Lệ cống: voi đực 2 thớt, bò vàng 20 con, ngà voi 6 cái, sừng tê 10 tòa, khăn vải trắng 
500 bức, sáp ong 50 cân, da cá 200 tấm, cát sủi (một loại cát khi cho vào nước sủi lên, dùng để 
gội đầu) 400 thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây, thuyền dài 1 chiếc. Quốc sử quán 
triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, sđd, tr.109.
5. Theo Đổng Thành Danh (2018): 
- Dân điền là ruộng dành cho dân xã thôn như ruộng công làng xã và ruộng tư của 
người Kinh; 
- Trà nương điền là ruộng ngụ lộc của vua Chăm hàng năm giao cho thần dân cày cấy 
hưởng một phần hoa lợi cho vua và một phần cho người lĩnh canh (người Chăm gọi là ruộng 
hamu Patao - ruộng của vua). Quốc sử quán triều Nguyễn chép ”ruộng (trà nương) này ở xứ 
Long Hương, Phan Rí, Phố Hài là ruộng ngụ lộc của vua Phiên, năm nào có người mướn thì cứ 
42 Nguyễn Thị Hải
theo số thóc giống mà nộp thuế, nếu không thì miễn”. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam 
thực lục, tập 1, sđd, tr.306.
- Dương điền: là loại ruộng mà người Chăm gọi là hamu Yang (kỵ điền) dùng vào việc 
cúng tế đền tháp, thánh đường, mương đập hay tế lễ thần nông.
- Phiên liêu điền là ruộng hamu Janang, một loại ruộng công của dân làng người Chăm 
dùng để phân phát cho những người có chức vụ trong thôn xóm như thôn trưởng, biện, trùm, 
một số chức sắc tín ngưỡng hay cho một số đàn ông phục dịch cho thôn xóm trong một thời 
gian cố định sau đó phải nhường lại cho người khác.
6. Bùi Tá Hán người huyện Chương Nghĩa tỉnh Quảng Nam. Ông làm quan dưới triều Lê 
Trung Hưng, từ chức Thổ quan được phong dần lên chức Chưởng phủ sự, Tổng trấn Quảng 
Nam Thiếu bảo, Trấn Quận công. Dưới thời chúa Nguyễn, Bùi Tá Hán thường đem quân đi 
đánh các man Thạch Bích ở Quảng Nghĩa, theo ven núi đặt đồn để chống giữ. Sau khi chết 
được phong tặng Thái Bảo, được lập đền thờ. Đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832) được phong 
thêm là Khuông Tĩnh biên Thụ đức thượng đẳng thần. Theo Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại 
Nam liệt truyện, tập 1, Tiền biên, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2005, tr.100-101.
7. Tổng Diện tích ruộng đất công ở Thuận Hóa ghi lại năm 1770 có 265.507 mẫu 4 sào 2 
thước 3 tấc. Phủ biên tạp lục, tr.129
8. Chẳng hạn vào năm 1658, khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài và Đồng Nai 
đã có dân lưu tán người Việt ở lẫn cùng với người Khmer để khai khẩn ruộng đất, khi nghe tin 
vua nước Cao Miên là Nặc Ông Chăn (hay Nặc Ông Chân) cho quân xâm phạm, chúa Phúc Tần 
bèn sai Phó tướng dinh Trấn Biên là Yến Vũ hầu, Tham mưu là Minh Lộc hầu cùng Cai đội là 
Xuân Thắng hầu đem 2000 quân đi hai tuần đến thành Mỗi Xoài nước Cao Miên đánh phá tan 
được. Chúa tha tội cho Nặc Ông Chăn cho làm phiên thần nộp cống và ra lệnh “không được cho 
dân phiên xâm nhiễm” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2004, tr.75).
9. Phiên chợ lùa trâu có đến 300 con, giá mỗi con trâu không quá 10 quan/ con. Trong 
các gia đình ở Nam Bộ số lượng điền nô lên đến 50, 60 người, trâu bò có từ 300 đến 400 con. 
Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 207, 345.
10. Minh Hương: là tên gọi làng nơi cư trú của cư dân nhà Minh vì tình hình khủng 
hoảng trong nước và không khuất phục trước nhà Thanh đã di cư xuống phương Nam để 
tránh nạn, trong đó có Hội An, Thanh Hà ở vùng Thuận – Quảng. Danh xưng ban đầu “Minh 
Hương” muốn nói người Minh luôn nhớ về quê hương nguồn cội. Sau này đến thời Nguyễn, 
từ Hương được đổi với nghĩa là làng, tức là làng của người Minh (gốc nhà Minh – Trung Quốc).
11. Tính riêng năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc, năm Giáp Thân được 5.100 cân 
thiếc, năm Ất Dậu được 126 hốt bạc. Lê Quý Đôn, phủ biên tạp lục, sđd, tr.119-120
12. 1 dặm = 500m (theo đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc cổ)
13. Thuộc: đơn vị hành chính tương đương cấp phủ, huyện ở miền xuôi, được thành lập 
ở những nơi gần núi, ven biển. Mỗi thuộc đều lấy thôn, phường, nậu, man lẻ tẻ họp lại.
Tài Liệu Tham Khảo
Bùi Thị Tân. (1999). Về hai làng nghề truyền thống Phú Bài và Hiền Lương. Nxb Thuận Hóa. Huế.
Charles Robequain. (2012). Tỉnh Thanh Hóa. Nxb Thanh Hóa. Hà Nội.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 06 (62) - 2019 43
D.G.E.Hall. (1997). Lịch sử Đông Nam Á. Nxb Chính trị Quốc Gia. Hà Nội.
Đổng Thành Danh. (2018). Tình hình sở hữu ruộng đất của người Chăm thời Nguyễn qua 
địa bạ (1836). Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 9. 
Dương Hà Hiếu. (2016). Cù Lao Ré – Quê hương của đội Hoàng Sa (từ đầu thế kỷ XVII đến 
giữa thế kỷ XIX). Luận án tiến sĩ. Đại học sư phạm Hà Nội.
Dương Văn An. (1997). Ô Châu Cận lục. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
Henri Maitre. (2008). Rừng người thượng, vùng rừng núi cao nguyên miền trung Việt Nam. 
Nxb Tri Thức. Hà Nội. 
Huỳnh Công Bá. (2002). Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở Bắc Quảng Nam từ 
giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII. Luận án phó Tiến sĩ khoa học lịch sử. Đại học Sư phạm Hà Nội.
Lê Trung Dũng. (2015). Quá trình hình thành đường biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia. 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
Lê Quý Đôn. (1977). Phủ biên tạp lục. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
Lê Quý Đôn. (2007). Đại Việt thông sử. Nxb Văn hoá thông tin. Hà Nội.
Lê Văn Thuyên (chủ biên), Lê Nguyễn Lưu, Huỳnh Đình Kết. (1996). Văn bản Hán Nôm 
làng xã ở Huế giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX. Tập 1. Nxb Thuận Hóa. Huế. 
Li Tana. (1999). Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18. Nxb Trẻ. TP.Hồ 
Chí Minh.
M.Georges Maspéro. (1928). Vương quốc Chàm. Nxb G.Văng-Oét, Pari và Bruy-xen, bản 
dịch tư liệu Viện khảo cổ học.
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê. (1993). Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Nxb Khoa học 
xã hội. Hà Nội.
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê. (1993). Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 2. Nxb Khoa học 
xã hội. Hà Nội.
Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên). (2017). Vùng đất Nam Bộ, tập IV. Từ đầu thế kỷ XVII đến 
giữa thế kỷ XIX. Nxb Chính trị Quốc Gia Sự thật, Hà Nội
Chu Đạt Quan. (2011). Chân lạp phong thổ ký. Hà Văn Tấn dịch. Nxb Thế Giới. Hà Nội.
Nguyễn Huy Quýnh. (2018). Quảng Thuận đạo sử tập. Nxb Đại học Vinh.
Trương Hữu Quýnh. (2009). Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam. Nxb Thế 
Giới, Hà Nội.
Quốc sử quán triều Nguyễn. (2004). Đại Nam thực lục. Tập 1. Nxb Giáo Dục. Hà Nội.
Quốc sử quán triều Nguyễn. (2004). Đại Nam thực lục. Tập 3. Nxb Giáo Dục. Hà Nội.
Quốc sử quán triều Nguyễn. (2006). Đại Nam liệt truyện. Tập 1. Tiền biên. Nxb Thuận Hóa. Huế.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử. (1994). Phụ san “Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến giữa thế 
kỷ XIX”, số 3. 
Trịnh Hoài Đức. (1998). Gia Định thành thông chí. Nxb Giáo Dục. Hà Nội.
Vũ Văn Mẫu. (1980). Trên đường Nam tiến. Phần thứ nhất: Cuộc Nam tiến trên đất Chiêm 
Thành. Nxb Sài Gòn.

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_khai_hoang_cua_cac_chua_nguyen_o_dang_trong_1558.pdf