Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á

Trong quá trình triển khai sức mạnh mềm văn hóa, Trung Quốc đã kết

hợp sử dụng ngoại giao văn hóa với truyền thông làm hai kênh tác động chính nhằm

thay đổi cán cân quyền lực giữa các quốc gia. Tuy nhiên, từ mục tiêu chiến lược đến

thực tế triển khai luôn tồn tại những khoảng cách nhất định. Do đó, để nhìn nhận một

cách khách quan quá trình tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc đối với

khu vực Đông Á, bài viết xem xét hai kênh tác động này trong những năm gần đây, đặc

biệt là tại các thời điểm Trung Quốc áp dụng cách hành xử cứng rắn đối với các quốc

gia láng giềng thuộc khu vực Đông Á.

pdf 10 trang kimcuc 6920
Bạn đang xem tài liệu "Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á

Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á
Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc... 
 87 
Các kênh tác động của sức mạnh mềm 
văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á 
Phạm Hồng Thái * 
Nguyễn Thị Thu Phương ** 
Tóm tắt: Trong quá trình triển khai sức mạnh mềm văn hóa, Trung Quốc đã kết 
hợp sử dụng ngoại giao văn hóa với truyền thông làm hai kênh tác động chính nhằm 
thay đổi cán cân quyền lực giữa các quốc gia. Tuy nhiên, từ mục tiêu chiến lược đến 
thực tế triển khai luôn tồn tại những khoảng cách nhất định. Do đó, để nhìn nhận một 
cách khách quan quá trình tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc đối với 
khu vực Đông Á, bài viết xem xét hai kênh tác động này trong những năm gần đây, đặc 
biệt là tại các thời điểm Trung Quốc áp dụng cách hành xử cứng rắn đối với các quốc 
gia láng giềng thuộc khu vực Đông Á. 
Từ khóa: Trung Quốc; Đông Á; sức mạnh mềm văn hóa; ngoại giao văn hóa; kênh 
tác động. 
1. Ngoại giao văn hóa 
1.1. Đẩy mạnh giao lưu và hợp tác văn 
hóa, giáo dục 
Đối với Nhật Bản và Hàn Quốc, hai 
quốc gia láng giềng, nhưng lại có quan hệ 
liên minh chiến lược về an ninh quốc 
phòng với Mỹ, mục tiêu mà các nhà hoạch 
định chính sách về sức mạnh mềm văn hóa 
Trung Quốc hướng tới là tạo ra một thế hệ 
những người Nhật Bản và Hàn Quốc có 
tình cảm thân thiện hơn với Trung Quốc. 
Tại Nhật Bản, trên cơ sở các hiệp định trao 
đổi văn hóa và giáo dục bắt đầu từ năm 
1980, Chính phủ Trung Quốc thường 
xuyên trao học bổng dành cho lưu học sinh 
Nhật Bản. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn 
khuyến khích học sinh đến Nhật Bản để 
trau dồi kiến thức. Việc một số lượng đông 
học sinh Trung Quốc đến Nhật Bản học 
tập, ngoài mục đích kiếm tìm tri thức, 
những người này còn là nhân tố tăng 
cường giao lưu văn hóa, thúc đẩy quá trình 
truyền bá văn hóa Trung Quốc vào Nhật 
Bản. Ở Hàn Quốc, cho đến năm 2004, có 
130 trường đại học Trung Quốc và 120 
trường đại học Hàn Quốc kí kết hợp tác 
đào tạo, nghiên cứu, trao đổi giáo sư và 
sinh viên. Năm 2009, con số lưu học sinh 
Hàn Quốc tại Trung Quốc tăng lên đến 
66.800 người(1). Năm 2010, lưu học sinh 
Trung Quốc ở Hàn Quốc chiếm số lượng 
đông nhất, tới 70% số lưu học sinh tại 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, 
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
ĐT: 0989768589. Email: tapchi@inas.gov.vn. 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển Khoa 
học và Công nghệ (Nafosted) trong đề tài mã số: VI.2-
2010.01. 
(**) Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn 
lâm Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: 0979833816. 
Email: thuphuongvhtq@gmail.com. 
(1) Yonhap New Agency, Chinese Students Rides Korean 
Waves to S.Korea,  
n_feature/2010/09/15/22/4901000000AEN201009150
09400315F.html. 
NGÔN NGỮ - VĂN HỌC - VĂN HÓA 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 
 88 
quốc gia này với con số lên đến 53.461 
người(2). Đây là một hiện tượng chưa từng 
có trong lịch sử hàng nghìn năm giao lưu 
văn hóa giữa hai nước. 
Về học thuật, Trung Quốc sử dụng 
phương thức trao đổi nghiên cứu với Hàn 
Quốc. Đến năm 2009, có hơn 100 cơ quan 
nghiên cứu Trung Quốc được chính phủ và 
tư nhân thành lập ở Hàn Quốc. Hoạt động 
của các cơ quan nghiên cứu Trung Quốc tại 
Hàn Quốc đóng vai trò tư vấn hoạch định 
chính sách đối ngoại, chiến lược đầu tư và 
thương mại của các công ty cũng như tăng 
cường nhận thức của người Hàn Quốc về 
người láng giềng khổng lồ. Về biểu diễn 
nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật biểu 
diễn truyền thống Trung Quốc được trình 
diễn thông qua các cuộc biểu diễn tổ chức 
hàng năm với khoảng 100 đoàn, với số 
lượng hàng nghìn diễn viên tham gia. Lớn 
nhất có thể kể đến sự kiện văn hóa Trung 
Quốc vào năm 2006. 
Trong quá trình truyền bá sức mạnh 
mềm văn hóa, Trung Quốc đã coi các Trung 
tâm văn hóa Trung Quốc là tổ chức xúc tiến 
mạnh mẽ giao lưu văn hóa với Nhật Bản và 
Hàn Quốc. Về mặt cơ cấu của Trung tâm 
Văn hóa Trung Quốc tại Hàn Quốc và Nhật 
Bản, ngoài các bộ phận như phòng triển 
lãm, phòng nghe nhìn, kịch trường, phòng 
đa chức năng, phòng nhảy, phòng võ thuật, 
sân vận động, còn có thư viện, phòng diễn 
thuyết, trung tâm thông tin. Cùng với việc 
tăng cường thiết lập các Trung tâm Văn hóa 
Trung Quốc, việc tổ chức các sự kiện giao 
lưu văn hóa tại Hàn Quốc và Nhật Bản 
cũng là kênh gia tăng tác động của sức 
mạnh mềm văn hóa Trung Quốc. Có thể 
thấy, các hoạt động của Trung tâm Văn hóa 
Trung Quốc ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng 
như các sự kiện giao lưu văn hóa giữa 
Trung Quốc và các quốc gia này là các 
kênh khác nhau của ngoại giao văn hóa 
mang tính truyền thống của Trung Quốc 
hiện nay. Điều đáng chú ý là định hướng 
của những hoạt động giao lưu văn hóa của 
Trung Quốc hiện nay có sự chuyển hoán từ 
việc giới thiệu những thông tin nước ngoài 
đối với trong nước sang tuyên truyền, giới 
thiệu thông tin, quảng bá văn hóa Trung 
Quốc ra khu vực. 
Đối với một số nước Đông Nam Á, do 
sớm xác định Đông Nam Á là địa bàn quan 
trọng, là điểm đến đầu tiên trong hành trình 
truyền bá văn hóa ra toàn thế giới nên 
Trung Quốc đã tiến hành liên tục các hoạt 
động thẩm thấu văn hóa ra toàn khu vực, 
đặc biệt là với các quốc gia láng giềng. 
Hàng loạt chương trình “Vui xuân” đã được 
tổ chức tại Thái Lan, Philippine vào các dịp 
lễ tết cổ truyền của Trung Quốc. Nội dung 
chính là các tiết mục mang đậm nét văn hóa 
truyền thống Trung Quốc như kịch, các 
điệu nhảy của các dân tộc thiểu số Trung 
Quốc, biểu diễn xiếc... Bên cạnh đó, triển 
khai các hoạt động triển lãm văn hóa Trung 
Hoa cũng được Chính phủ Trung Quốc lồng 
ghép trong các dịp kỷ niệm thiết lập quan 
hệ ngoại giao với các nước Đông Nam Á. 
Chính phủ Trung Quốc cũng không bỏ 
lỡ cơ hội thúc đẩy kênh trao đổi giáo dục 
nhằm mở rộng khả năng thẩm thấu ngôn 
ngữ và văn hóa tới các nước Đông Nam Á. 
Tính đến cuối năm 2009, tổng số lưu học 
sinh 10 nước ASEAN học tập tại Trung 
Quốc đã đạt 54.790 người, trong đó có 
4.118 người nhận được học bổng của Chính 
phủ Trung Quốc(3). Năm 2012, Trung Quốc 
tiếp tục tăng số học bổng chính phủ cho các 
nước Đông Nam Á, thúc đẩy thực hiện “Kế 
hoạch du học Trung Quốc”, thu hút nhiều 
(2) Tlđd. 
(3) Over 260,000 International Students Studying in 
China in 2010,  
business/htmlfiles/moe/moe_2809/201103/115886.html. 
Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc... 
 89 
hơn lưu học sinh các nước ASEAN đến 
Trung Quốc học tập(4). Vào ngày 3 tháng 10 
năm 2013, trong chuyến thăm Indonesia, 
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã kí 
kết thỏa thuận đẩy mạnh hợp tác trong các 
lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn 
hóa, quốc phòng, an ninh với nước này(5). 
Không khó nhận ra, việc tăng cường, tạo 
điều kiện thuận lợi cho học sinh Đông Nam 
Á sang Trung Quốc du học, với các chuyên 
ngành chính như tiếng Trung Quốc, văn hóa 
Trung Quốc, kiến trúc, hội họa... là một 
kênh hợp tác tích cực để những người trẻ 
tuổi tại nhiều quốc gia Đông Nam Á tận 
mắt chứng kiến, trải nghiệm, khám phá và 
lĩnh hội văn hóa Trung Hoa, từ đó tiếp nhận 
và thẩm thấu văn hóa Trung Hoa một cách 
tự nhiên. 
Tại Việt Nam, từ khi bình thường hóa 
quan hệ hai nước (1991) đến nay, Trung 
Quốc đã sử dụng các hoạt động hợp tác giao 
lưu văn hóa, giáo dục như một kênh thúc 
đẩy việc truyền bá văn hóa. Năm 1992, 
thông qua con đường chính thức, Trung 
Quốc đã ký với Việt Nam nhiều Hiệp định 
hợp tác văn hóa. Trên cơ sở đó, hai bên đã 
ký nhiều kế hoạch và chương trình hợp tác 
về văn hóa. Triển lãm và hội chợ cũng được 
coi là một kênh đưa sức hấp dẫn văn hóa 
Trung Quốc vào Việt Nam. Thông qua các 
triển lãm và hội chợ, Trung Quốc từng bước 
đưa bản sắc và sức hấp dẫn văn hóa truyền 
thống vào đời sống văn hóa Việt Nam. 
Trên lĩnh vực hợp tác văn hóa, giáo dục, 
Trung Quốc thể hiện hình ảnh “nước lớn 
văn hóa” thông qua các khoản tài trợ văn 
hóa. Trong những năm qua, Uỷ ban tiếng 
Hán đối ngoại Nhà nước Trung Quốc, Đại 
sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam đã liên 
tục tài trợ tổ chức cuộc thi “Nhịp cầu Hán 
ngữ” tại Việt Nam. Ngành giáo dục của cả 
hai bên cũng tiến hành những cuộc hội đàm 
và ký kết các văn bản thỏa thuận về giao 
lưu và hợp tác giáo dục. Theo đó, hàng năm 
130 lưu học sinh Việt Nam được hưởng học 
bổng của Chính phủ Trung Quốc. Ngoài ra, 
bằng nhiều con đường khác nhau, nhiều 
thanh niên Việt Nam đã sang Trung Quốc 
với phương thức du học tự túc và không ít 
trong số đó đã nhận được các học bổng của 
các trường đại học ở Trung Quốc do có 
thành tích học tập tốt. Năm 2011, lượng du 
học sinh Việt Nam theo học tại Trung Quốc 
đạt con số 12.500 người(6). Bên cạnh đó, 
Trung Quốc còn sử dụng các kênh hợp tác 
văn hóa với các địa phương, nhất là đối với 
các tỉnh biên giới, các trường Đại học, Viện 
Nghiên cứu,... để tăng cường khả năng chuyển 
tải các mục tiêu chiến lược của chính phủ 
nước này vào nhận thức của giới trí thức 
Việt Nam(7). 
Nhìn bề ngoài các kênh giao lưu, hợp tác 
văn hóa này hướng đến tăng cường hiểu 
biết văn hóa giữa nhân dân hai nước. Song, 
về thực chất, toàn bộ các thông điệp văn 
hóa đều cho thấy, Trung Quốc đang muốn 
dựng lại một vành đai văn hóa nước lớn 
mới tại Việt Nam, thông qua sức lôi cuốn 
của những giá trị văn hóa cổ xưa và sự xâm 
nhập để ràng buộc về ý thức hệ dưới hình 
thức tài trợ, hỗ trợ văn hóa, giáo dục. 
1.2. Tăng cường hoạt động truyền bá 
ngôn ngữ, văn hóa và hình ảnh Trung 
Quốc của các Học viện Khổng Tử 
Học viện Khổng Tử với nhiệm vụ “phổ 
(4) 2012中国-东盟合作,  
chn/dmgx/t991226.htm. 
(5) Chinese, Indonesian presidents chart course of 
future bilateral cooperation,  
english/cnleaders/xjp201310/Indonesia.htm. 
(6) 
du-hoc-sinh-qua-cac-nuoc. 
(7) Nguyễn Thu Phương (Chủ biên) (2013), Sự trỗi 
dậy về sức mạnh mềm của Trung Quốc và những 
vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, 
Hà Nội, tr.185 - 187. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 
 90 
biến tiếng Hán, giữ gìn và bảo vệ vị thế 
quốc tế của tiếng Hán, truyền bá văn hóa và 
xây dựng hình ảnh một nước Trung Quốc 
hài hòa, hòa bình, thân thiện”(8) được coi là 
kênh tác động chính trong hoạt động ngoại 
giao văn hóa nhằm đưa sức mạnh mềm văn 
hóa Trung Quốc “thâm nhập sâu” vào môi 
trường văn hóa, giáo dục của các quốc gia 
trên thế giới. Từ năm 2004 đến tháng 7 năm 
2014, tổng số các Học viện Khổng Tử trên 
thế giới trong đó bao gồm cả Lớp học 
Khổng Tử đã lên đến con số 1.083 cơ sở/ 
120 quốc gia. Cụ thể, Châu Mỹ có 531 Học 
viện; Châu Á có 143 Học viện(9). 
Về cơ bản, các Học viện Khổng Tử 
tương đồng với các tổ chức xúc tiến văn 
hóa và truyền bá ngôn ngữ của các nước 
Phương Tây. Tuy nhiên, Học viện Khổng 
Tử khác các tổ chức xúc tiến văn hóa và 
truyền bá ngôn ngữ Phương Tây ở ba điểm: 
một là, Học viện Khổng Tử là cơ quan trực 
thuộc Bộ Giáo dục Trung Quốc, còn các tổ 
chức của Phương Tây là các tổ chức phi 
chính phủ làm công tác xúc tiến, văn hóa, 
truyền bá ngôn ngữ cho chính phủ; hai là, 
Chính phủ Trung Quốc kiểm soát hoạt động 
của Học viện Khổng Tử thông qua cơ quan 
chủ quản là Ban Hán ngữ quốc gia trực 
thuộc Bộ Giáo dục, còn các tổ chức của 
Phương Tây hoạt động độc lập về chuyên 
môn, nhưng tuân theo sự chỉ đạo thống nhất 
của Bộ Ngoại giao; ba là, đứng đầu Học 
viện Khổng Tử là hai đồng giám đốc (một 
người của nước sở tại và một người được 
Ban Hán ngữ quốc gia bổ nhiệm), còn các 
học viện của Phương Tây chỉ có một giám 
đốc điều hành (không phải người nước sở 
tại). Chính điểm tương đồng và khác biệt 
của Học viện Khổng Tử so với các tổ chức 
xúc tiến văn hóa và truyền bá ngôn ngữ 
Phương Tây đã quy định nên các đặc điểm 
chung và riêng trong phương thức gia tăng 
sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc của cơ 
sở này. Chúng ta có thể thấy rất rõ điều này 
thông qua việc tìm hiểu quá trình sử dụng 
Học viện Khổng Tử như một kênh tác động 
trực tiếp sức mạnh mềm văn hóa Trung 
Quốc tại khu vực Đông Á. 
Tại Hàn Quốc, Học viện Khổng Tử được 
thành lập đầu tiên vào năm 2004. Tính đến 
tháng 10 năm 2014, tại Hàn Quốc đã có 23 
Học viện được thành lập(10). Học viện Khổng 
Tử ở Hàn Quốc chủ yếu được thành lập trên 
cơ sở hợp tác với các trường đại học của 
Hàn Quốc với các trường đối tác từ Trung 
Quốc và được hỗ trợ một phần kinh phí hoạt 
động từ phía Trung Quốc. Đây là một đặc 
điểm khác biệt, so với các tổ chức xúc tiến 
văn hóa, phổ biến giáo dục Phương Tây 
thường được thành lập bằng kinh phí của 
mình. Vì thế, Học viện Khổng Tử ở Hàn 
Quốc được đơn vị chủ quản vận hành một 
cách chủ động. Đây là một đặc thù tạo điều 
kiện cho sự phát triển của Học viện Khổng 
Tử tại Hàn Quốc. Cũng giống như tại Hàn 
Quốc, tốc độ phát triển của các Học viện 
Khổng Tử ở Nhật Bản là khá nhanh. Điều 
đáng nói là các Học viện Khổng Tử hiện 
nay chủ yếu được thành lập tại các trường 
tư lập của Nhật Bản. Các trường công, nhất 
là các trường quốc lập không mặn mà với 
việc thành lập loại trường này mặc sự thúc 
ép từ phía các đối tác Trung Quốc. 
Tại một số nước Đông Nam Á, tính đến 
năm 2015, có đến 42 Học viện Khổng Tử 
và Lớp học Khổng Tử được thành lập ở 
nhiều quốc gia. Trong đó, 23 Học viện 
Khổng Tử được xây dựng tại Thái Lan, số 
(8) Bành Tân Lương (2008), Ngoại giao văn hóa và 
sức mạnh mềm của Trung Quốc - Góc nhìn toàn cầu 
hóa, Nxb Bắc Kinh, tr.466 - 467. 
(9) Tổng hợp số liệu từ trang web của Học viện 
Khổng Tử www.chinese.cn truy cập ngày 12 tháng 3 
năm 2015. 
(10) Số liệu từ trang web Học viện Khổng Tử: 
Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc... 
 91 
còn lại rải rác tại các quốc gia còn lại: Lào 
 ...  
nổi trội hơn trong mối quan hệ với Nhật 
Bản, Hàn Quốc; mặt khác, Trung Quốc lại 
kì vọng sẽ lôi kéo, dẫn dắt các nước Đông 
Nam Á đang phát triển dưới hình thức hợp 
tác hòa bình. 
Thế nhưng, có một nghịch lí đang tồn 
tại là: một mặt, các kênh truyền thông 
Trung Quốc vẫn không ngừng lặp đi lặp lại 
thông điệp “để thế giới lí giải Trung Quốc, 
để Trung Quốc đi ra thế giới”, “Trung 
Quốc phát triển hòa bình” như một chiến 
pháp “mưa dầm thấm lâu” tác động vào 
nhận thức của dư luận; nhưng mặt khác, 
quốc gia này vẫn tiến hành các hoạt động 
làm gia tăng căng thẳng với Nhật Bản, 
Việt Nam, Philippine và theo ý kiến của 
nhiều người, Trung Quốc không tỏ ra là 
một “đối tác có trách nhiệm” trong các vấn 
đề toàn cầu. Đặc biệt, sau khi Trung Quốc 
đưa ra tuyên bố lợi ích cốt lõi tại Biển 
Đông cùng việc các hoạt động gây căng 
thẳng tại Biển Đông, quốc gia này đang 
khiến cho thuyết “Mối đe dọa Trung 
Quốc” hay “Chủ nghĩa bá quyền Trung 
Quốc” quay trở lại trên các diễn đàn quốc 
tế và thu hút mạnh hơn sự quan tâm của dư 
luận. Điều đó càng khiến cho truyền thông 
của họ trở nên khó khăn hơn trong việc 
xây dựng hình ảnh tốt đẹp và xoá bỏ mối 
nghi ngờ về thuyết “Mối đe dọa Trung 
Quốc” trong cộng đồng dư luận quốc tế. 
Trước nghịch lí đó, Trung Quốc dường 
như đang đẩy mạnh hơn “chiến pháp dư 
luận” bằng việc tận dụng các kênh truyền 
thông để quảng bá hình ảnh đất nước, con 
người, văn hóa Trung Hoa. Chính phủ 
Trung Quốc liên tục đề xuất các chương 
trình hợp tác thông tin với các nước 
ASEAN, nhằm đưa làn sóng truyền thông 
Trung Quốc tràn vào khu vực. 
Tại Đông Nam Á, trên cơ sở hợp tác 
truyền thông, Trung Quốc đã sử dụng các 
kênh truyền thông đại chúng để tăng cường 
quảng bá hình ảnh đất nước phát triển hòa 
bình, con người thân thiện, văn hóa đa dạng 
giàu bản sắc với công chúng trong khu vực. 
Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc đã xây 
trạm phát sóng ở các nước Lào, Campuchia, 
Indonesia... Kênh tin tức quốc tế bằng tiếng 
Trung và tiếng Anh của Đài truyền hình 
Trung ương Trung Quốc đã có mặt ở cả 10 
nước Đông Nam Á. Năm 2009, Đài phát 
thanh Quốc tế Trung Quốc và Đài phát 
thanh Đối ngoại Quảng Tây đã phối hợp 
thành lập đài “Tiếng nói Vịnh Bắc Bộ” 
(BBR). Chương trình phát thanh lấy trụ cột 
Quảng Tây, hướng ra Đông Nam Á, phát 
thanh bằng 5 thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng 
Thái Lan, tiếng Việt Nam, tiếng Quảng 
Đông và tiếng Phổ thông Trung Quốc với 
thời lượng 17 giờ, từ 7 giờ sáng đến 24 giờ 
hàng ngày. Các chương trình truyền hình 
Trung Quốc xuất khẩu tới 10 nước Đông 
Nam Á chiếm một nửa tổng sản phẩm 
truyền thông của Trung Quốc xuất khẩu ra 
nước ngoài(18). 
Ngoài việc sử dụng các kênh truyền 
thông truyền đi các thông điệp chính thức 
của Chính phủ Trung Quốc, phim điện ảnh 
và phim truyền hình cũng là một trong các 
(17) Hongying Wang, Chapter 3 (2011), China’s 
Image Projection and Its Impact trong Wang, Jian. 
Soft Power in China: Public Diplomacy through 
Communication. Basingstoke: Palgrave Macmillan. 
(18) 中国-东盟合作: 1991 - 2011(全文), 
20zn/t893348.htm. 
Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc... 
 93 
sản phẩm văn hóa được sử dụng nhằm đưa 
hình ảnh đất nước, con người và văn hóa 
Trung Hoa vào khu vực. 
Tại Nhật Bản, hàng năm, Trung Quốc tổ 
chức rầm rộ Tuần lễ phim Trung Quốc ở 
các thành phố lớn. Đây được coi như một 
trong 9 festival điện ảnh lớn nhất thế giới 
được tổ chức thường niên thu hút đông đảo 
những người hâm mộ điện ảnh Trung Quốc. 
Những tác phẩm điện ảnh phản ảnh về các 
đề tài tình yêu như “Cánh bướm trên vai”, 
“Dấu hiệu của tình yêu”, “Âm thanh của vì 
tinh tú”... đã được quảng bá rộng rãi đối với 
khán giả Nhật Bản. Các nhà quan sát cho 
rằng trong hai thập kỷ qua, đây là một kênh 
truyền thông được Trung Quốc sử dụng có 
hiệu quả tại Nhật Bản(19). Tuy nhiên, cũng 
cần lưu ý rằng, lĩnh vực phim ảnh Trung 
Quốc chiếm được cảm tình người Nhật chủ 
yếu là những đề tài có liên quan đến những 
câu chuyện lịch sử và võ thuật, hay chủ đề 
tình yêu đôi lứa... còn những bộ phim đề 
cập đến xã hội Trung Quốc hiện đại không 
tạo nên sự hấp dẫn như vậy. Tại các nước 
Đông Nam Á, trong các sản phẩm truyền 
thông được xuất khẩu, phim truyền hình, 
đặc biệt là phim cổ trang được coi là kênh 
có khả năng giới thiệu khá hiệu quả về lịch 
sử đất nước, con người và văn hóa Trung 
Hoa vào khu vực(20). 
Tại Việt Nam, từ khi bình thường hóa 
quan hệ (1991) đến nay, truyền thông, đặc 
biệt là phát thanh và truyền hình đã trở 
thành một kênh tác động được Trung Quốc 
sử dụng triệt để nhằm tiến hành các hoạt 
động truyền bá văn hóa mang màu sắc 
chính trị vào đời sống văn hóa nước ta. 
Thông qua các bản kí kết thoả thuận hợp 
tác với các Đài Phát thanh và Truyền hình 
Việt Nam, Bộ Phát thanh - Truyền hình và 
Điện ảnh Trung Quốc đã tạo điều kiện cho 
các phim truyền hình, điện ảnh xâm nhập 
vào thị trường văn hóa Việt Nam. Có hai 
con đường chủ yếu để phim truyền hình 
Trung Quốc vào thị trường Việt Nam là: 
tặng phim và nhập khẩu phim. “Tây Du 
Ký” (1986) của nữ đạo diễn Dương Khiết 
và “Khát vọng” của đạo diễn Lỗ Hiểu Oai 
là hai bộ phim truyền hình Trung Quốc đầu 
tiên du nhập theo con đường “tặng” vào 
Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng phim “tặng” 
như vậy không nhiều. Trên thực tế, phim 
truyền hình Trung Quốc xâm nhập vào Việt 
Nam chủ yếu thông qua con đường nhập 
khẩu. Số liệu thực tế cho thấy, số phim 
truyền hình Trung Quốc được chiếu ở các 
đài truyền hình ở Việt Nam đã tăng vọt 
trong những năm gần đây. Theo thống kê 
chưa đầy đủ, năm 2011, có 369 bộ phim 
Trung Quốc được phát sóng với thời gian 
phát sớm nhất là 1h15 và muộn nhất là 23h 
trên 15 kênh truyền hình địa phương. Trong 
6 tháng cuối năm 2012, có 41 bộ phim 
Trung Quốc được chiếu trên các kênh 
truyền hình VTV1, VTV2, VTV3, VTV4, 
VTV6 và VTV9 của Đài truyền hình Việt 
Nam(21). Mật độ xuất hiện phim Trung 
Quốc trên sóng truyền hình Việt Nam khá 
dày đặc. Chỉ tính riêng tháng 4 năm 2014 
(trước thời điểm Trung Quốc hạ đặt giàn 
khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế 
của Việt Nam), đã có tới tổng 182 bộ phim 
truyền hình Trung Quốc được phát trên 65 
đài truyền hình khắp từ trung ương đến địa 
phương của Việt Nam. Những bộ phim 
Trung Quốc ở tất cả các thể tài khác nhau 
(19) 東京の「中国映画週間」,【社会ニュース】 
2011/11/14 (月) 12:07. 
(20) Nguyễn Thị Thu Phương (2010), Trung Quốc gia 
tăng sức mạnh mềm ở Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên 
cứu Trung Quốc, số 2, tr.62. 
(21) Số liệu thống kê dựa trên chương trình phát sóng 
của Đài truyền hình Việt Nam đăng tải trên Tạp chí 
Truyền hình. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 
 94 
đã cho thấy, truyền hình Trung Quốc từng 
được xem là kênh tô đậm hình ảnh nước 
lớn Trung Hoa trong văn hóa nghe nhìn tại 
Việt Nam. 
Truyền thông của Trung Quốc tại Việt 
Nam không chỉ được biết đến bởi các bộ 
phim truyền hình hấp dẫn mà trong trường 
hợp đặc biệt, nó còn biến thành “chiến 
pháp” tạo dựng dư luận theo cách mà nhà 
cầm quyền Trung Quốc thực hiện để bảo vệ 
lợi ích cốt lõi của mình bất chấp những tiêu 
chí đặt ra đối với các phương tiện truyền 
thông khi nó đảm nhận vai trò là kênh 
truyền tải vẻ đẹp quốc gia và cách hành xử 
gây thiện cảm với dư luận quốc tế của sức 
mạnh mềm văn hóa. Chúng ta có thể thấy 
rõ hơn điều này thông qua các số liệu khảo 
sát hai trường hợp Nhân dân nhật báo và 
Hải Nam nhật báo với tiêu chí so sánh số 
lượng các bài báo có nội dung liên quan đến 
vấn đề xung đột Biển Đông từ năm 2011 
đến ngày 15 tháng 4 năm 2013 ở ba lĩnh 
vực: thông tin, phỏng vấn và bình luận; so 
sánh tần số các sự kiện chủ yếu(22). Việc so 
sánh đã cho thấy, Nhân dân nhật báo và 
Hải Nam nhật báo tuyên truyền phục vụ 
cho những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc 
tại Biển Đông. Việc khảo sát hai trường 
hợp báo mạng đã cho thấy rõ hơn một thực 
tế, quá trình sử dụng “chiến pháp dư luận” 
trong sức mạnh mềm văn hóa đã được 
Trung Quốc tiến hành theo hướng tạo ra các 
hoạt động truyền tin có ảnh hưởng đến tâm 
lý và hành vi của đối tượng. Bằng cách 
“sàng lọc” tin và phổ biến thông tin đã kiểm 
soát thông qua các kênh truyền thông khác 
nhau, Trung Quốc đã biến truyền thông 
thành một kênh tác động đến nhận thức dư 
luận trong và ngoài nước, đặc biệt là đối với 
các quốc gia láng giềng tại khu vực Đông 
Bắc Á, Đông Nam Á, để nhằm gây ảnh 
hưởng, lèo lái dư luận quốc tế theo hướng 
ủng hộ Trung Quốc, đồng thời phủ nhận 
những luồng tư tưởng của đối thủ gây bất 
lợi cho Trung Quốc(23). Với “chiến pháp dư 
luận”, Trung Quốc vừa muốn hiện thực hóa 
tham vọng “bá quyền” khu vực, lại vừa 
muốn “lay động” nhận thức dư luận bằng 
hình ảnh một quốc gia lớn “bị bá quyền” 
bởi các nước láng giềng nhỏ. Điều đó đang 
đẩy các phương tiện truyền thông Trung 
Quốc vào tình thế khó khăn trong cuộc 
chiến tạo dựng dư luận tại khu vực Đông Á. 
3. Kết luận 
Đối với nhiều quốc gia, việc sử dụng sức 
mạnh mềm văn hóa khôn khéo thường là sự 
lựa chọn kết hợp giữa ít nhất hai kênh tác 
động là ngoại giao văn hóa và truyền 
thông. Một trong những quốc gia thành 
công khi sử dụng hai kênh tác động này là 
Mỹ. Bởi, thông qua ngoại giao văn hóa và 
truyền thông, Mỹ đã “thôi thúc mơ ước và 
sở nguyện của người khác thông qua những 
hình ảnh mang tính toàn cầu”(24). Còn với 
Trung Quốc, hai kênh tác động này được kì 
vọng sẽ đảm nhận trách nhiệm giúp họ vượt 
lên Mỹ để gánh vác trách nhiệm lịch sử dẫn 
dắt thế giới bằng sức hấp dẫn văn hóa. 
Nhưng khi chưa đạt được mục tiêu dài hạn 
đó, hai kênh tác động được Trung Quốc sử 
dụng nhằm “thiết kế” hình ảnh thân thiện, 
có trách nhiệm trong quan hệ quốc tế, từ đó 
gây dựng thiện cảm và từng bước tham gia 
(22) Phạm Thị Hồng Nhung (2011), Truyền thông của 
báo mạng điện tử Trung Quốc với vấn đề xung đột 
Biển Đông từ năm 2011 đến nay, Khóa luận tốt 
nghiệp Khoa Đông Phương, Đại học Khoa học xã 
hội và nhân văn, tr.29 - 31. 
(23) Timothy A. Walton, Brief on China’s Three 
Warfares, Delex Special Report-3, 18 January 2012, 
pdf. 
(24) Joseph S. Nye Jr. (2008), “Public Diplomacy and 
Soft Power”, The ANNALS of the American 
Academy of Political and Social Science, p.616. 
Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc... 
 95 
tái thiết lại “vành đai văn hóa” mới tại khu 
vực Đông Á. Đối với hai quốc gia phát 
triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung 
Quốc tận dụng triệt để các hoạt động giao 
lưu văn hóa, giáo dục, các Học viện Khổng 
Tử và khả năng truyền bá của kênh truyền 
thông vào việc “thiết kế”, “tô đậm” hình 
ảnh một cường quốc mới nổi, chủ động 
tham gia vào quá trình hình thành sự thịnh 
vượng kinh tế chung và đa dạng về văn 
hóa trong khu vực. Đối với Việt Nam và 
các quốc gia đang phát triển tại Đông Nam 
Á, cách kết hợp triển khai các kênh tác 
động sức mạnh mềm văn hóa của Trung 
Quốc khá linh hoạt, uyển chuyển. Quy 
trình này được thực hiện lần lượt đối với 
từng quốc gia thông qua hỗ trợ, tài trợ, hợp 
tác văn hóa, giáo dục, các hoạt động tuyên 
truyền văn hóa và lịch sử Trung Quốc, 
giáo dục tư tưởng, đào tạo ngôn ngữ và 
nguồn nhân lực... Ngoài ra, việc Trung Quốc 
tích cực đào tạo lưu học sinh các nước 
Đông Nam Á cả về chuyên môn lẫn tư 
tưởng, học thuật còn hướng tới việc tạo ra 
các thế hệ người dân có sự gắn bó, thiện 
cảm với Trung Quốc, từ đó hình thành nên 
một kênh tác động có khả năng đẩy nhanh 
hơn tiến trình thẩm thấu sức mạnh mềm 
văn hóa Trung Quốc vào đời sống khu vực. 
Ở một khía cạnh khác, sức mạnh mềm văn 
hóa Trung Quốc còn được thể hiện qua 
việc các nhà hoạch định chính sách sử 
dụng truyền thông như một thứ “chiến 
pháp tâm lí”, “chiến pháp dư luận” nhằm 
bảo vệ lợi ích cốt lõi của họ khi xảy ra 
xung đột với các quốc gia trong khu vực. 
Như vậy, Trung Quốc đã sử dụng các 
ngoại giao văn hóa, truyền thông như một 
công cụ mang tính “hai mặt” nhằm thể hiện 
quyết đoán hơn tham vọng trở thành cường 
quốc văn hóa vốn là một phần không thể 
thiếu trên con đường hiện thực hóa “giấc 
mộng Trung Hoa”, đồng thời cũng “tô vẽ” 
đậm hơn hình tượng quốc gia “hòa bình”, 
“hữu nghị” nhằm “xóa nhòa đi những phản 
ứng gay gắt về mối đe dọa Trung Quốc” 
đang ngày càng gia tăng tại khu vực. Điều 
này cho thấy, sự lựa chọn nguồn lực và 
phương thức gia tăng sức mạnh mềm của 
Trung Quốc đang ở “tầm thấp” hơn nhưng 
mang tính “thực dụng” và tham vọng hơn 
so với học thuyết ban đầu của J.Nye. Tuy 
nhiên, với cách sử dụng các kênh tác động 
mang tính “hai mặt” như vậy, Trung Quốc 
sẽ có thể gặp nhiều áp lực trong việc hiện 
thực hóa tham vọng của sức mạnh mềm văn 
hóa, nhất là khi họ đang gia tăng các hành 
vi cứng rắn tại khu vực nhằm đẩy mạnh hơn 
chiến lược cường quốc biển của mình. 
Tài liệu tham khảo 
1. Hans J. Morgenthaw, Polities a mong Nations: 
The Struggle for and Peace (6 th edition), New 
York, Alfred. A.khopf.Inc, 1985, p.95. 
2. Kurlantzick, J (2006), “China’s Charm: 
Implications of Chinese Soft Power”, Carnegie 
Endowment for International Peace: Policy Brief 47, 
June. 
3. Yonhap New Agency, Chinese Students Rides 
Korean Waves to S.Korea,  
n_feature/2010/09/15/22/4901000000AEN2010091500940
0315F.htm. 
4. 新良,文化外交与中国的软实力:一种全球 
化的视角,外语教学与研究出版社,北京,2008年. 
5. 谭笑,刘炳香, 中美在东南亚地区的“软实力” 
比较, 东南亚纵横, 10 - 2010. 
6. Wu Huaitang and Zuo Junzhan (eds), The 
Practical Knowledge of PsychologicalWarfare 
(心理战实用知识) (Beijing: Junshi Kexue 2006). 
7. 東京の「中国映画週間」,【社会ニュース】 
2011/11/14(月) 12:07 . 
8. 2012中国-东盟合作,  
org.cn/chn/dmgx/t991226.htm. 
9.  
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 
 96 
du-hoc-sinh-qua-cac-nuoc. 

File đính kèm:

  • pdfcac_kenh_tac_dong_cua_suc_manh_mem_van_hoa_trung_quoc_o_mot.pdf