Ảnh hưởng của Nho giáo trong Nho giáo trong lịch sủ tư tưởng Việt Nam

Trước khi Nho giáo du nhập vào

Việt Nam, nền văn hóa bản địa đã phát

triển ở trình độ cao so với lúc bấy giờ, có

bản sắc riêng và đã thể hiện được tính

độc đáo của một lối tư duy và những tư

tưởng về con người và thế giới. Trong

suốt chiều dài thời gian đô hộ Việt Nam,

việc “Hán hóa” cộng đồng người Việt là

quá trình thường xuyên, liên tục. Nếu

không có kho tàng tư tưởng bản địa với

thế giới quan, nhân sinh quan, với nền

văn hóa Việt phát triển rực rỡ trước đó

thì văn hóa Hán hẳn đã “làm cỏ” văn

hóa Việt ngay trong vài thập kỷ đô hộ

đầu tiên chứ nói gì đến cả hơn ngàn

năm đô hộ như vậy.

Văn hóa và tư tưởng bản địa mạnh

mẽ đến mức không một thế lực nào kể cả

quân sự lẫn kinh tế, văn hóa, tư tưởng có

thể khuất phục được. Điều này hoàn toàn

bác bỏ một số quan niệm cho rằng Nho

giáo có vai trò tích cực trong việc hình

thành ý thức dân tộc Việt. Nếu đi sâu vào

cơ sở xã hội, bên trong các đơn vị làng xã,

thì cho đến cả thế kỷ XI - XII Nho giáo

cũng không có cơ sở xã hội sâu rộng dù

hơn ngàn năm Bắc thuộc đã đi qua.

Chính các tư tưởng bản địa nảy sinh từ

thời kỳ văn hóa Đông Sơn, của Văn Lang,

Âu Lạc mới là nền tảng cơ bản, chính yếu

cho sự hình thành ý thức dân tộc, chủ

quyền quốc gia.

 

pdf 10 trang kimcuc 7300
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của Nho giáo trong Nho giáo trong lịch sủ tư tưởng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của Nho giáo trong Nho giáo trong lịch sủ tư tưởng Việt Nam

Ảnh hưởng của Nho giáo trong Nho giáo trong lịch sủ tư tưởng Việt Nam
 ảNH HƯởNG CủA NHO GIáO 
TRONG LịCH Sử TƯ TƯởNG VIệT NAM 
L−ơng Đình HảI (*) 
1. Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam 
Tr−ớc khi Nho giáo du nhập vào 
Việt Nam, nền văn hóa bản địa đã phát 
triển ở trình độ cao so với lúc bấy giờ, có 
bản sắc riêng và đã thể hiện đ−ợc tính 
độc đáo của một lối t− duy và những t− 
t−ởng về con ng−ời và thế giới. Trong 
suốt chiều dài thời gian đô hộ Việt Nam, 
việc “Hán hóa” cộng đồng ng−ời Việt là 
quá trình th−ờng xuyên, liên tục. Nếu 
không có kho tàng t− t−ởng bản địa với 
thế giới quan, nhân sinh quan, với nền 
văn hóa Việt phát triển rực rỡ tr−ớc đó 
thì văn hóa Hán hẳn đã “làm cỏ” văn 
hóa Việt ngay trong vài thập kỷ đô hộ 
đầu tiên chứ nói gì đến cả hơn ngàn 
năm đô hộ nh− vậy. 
Văn hóa và t− t−ởng bản địa mạnh 
mẽ đến mức không một thế lực nào kể cả 
quân sự lẫn kinh tế, văn hóa, t− t−ởng có 
thể khuất phục đ−ợc. Điều này hoàn toàn 
bác bỏ một số quan niệm cho rằng Nho 
giáo có vai trò tích cực trong việc hình 
thành ý thức dân tộc Việt. Nếu đi sâu vào 
cơ sở xã hội, bên trong các đơn vị làng xã, 
thì cho đến cả thế kỷ XI - XII Nho giáo 
cũng không có cơ sở xã hội sâu rộng dù 
hơn ngàn năm Bắc thuộc đã đi qua. 
Chính các t− t−ởng bản địa nảy sinh từ 
thời kỳ văn hóa Đông Sơn, của Văn Lang, 
Âu Lạc mới là nền tảng cơ bản, chính yếu 
cho sự hình thành ý thức dân tộc, chủ 
quyền quốc gia. 
Nho giáo vào Việt Nam ít nhất từ 
thế kỷ thứ I tr−ớc C.N., theo chân quân 
xâm l−ợc ph−ơng Bắc, và đã tạo nên cơ 
sở t− t−ởng cho việc Hán hóa trên các 
lĩnh vực khác nhau, từ các công cụ và 
cách thức sản xuất, thời vụ đến việc 
nhìn nhận xã hội theo thứ bậc sĩ, nông, 
công, th−ơng; chế độ cai trị và thứ bậc 
quan lại theo kiểu nhà Hán thay thế 
chế độ khanh hầu, lạc t−ớng; ∗cơ cấu xã 
hội với quan lại phong kiến, địa chủ và 
nông dân thay thế thủ lĩnh bộ lạc, tộc 
tr−ởng; những nét tập tục, một số yếu tố 
trong trang phục, lễ nghi,... của ng−ời 
Hán đ−ợc du nhập và đi dần vào cuộc 
sống của c− dân bản địa; chữ Hán trở 
thành ngôn ngữ chính thức trong các 
văn bản của nhà n−ớc cai trị(∗∗). Văn hóa 
Hán đ−ợc tạo thế, lực và điều kiện phát 
(∗)
 PGS., TSKH., Phó Viện tr−ởng Viện Nghiên 
cứu Con ng−ời. 
(∗∗) Việc nghiên cứu xem tr−ớc khi bị đô hộ c− dân 
Văn Lang, Âu Lạc đã có chữ viết hay ch−a vẫn 
đang là một nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu 
Việt Nam. Những t− liệu hiện có ch−a đủ để 
khẳng định hoặc phủ nhận sự tồn tại của chữ 
viết (dù d−ới dạng sơ khai) d−ới thời Văn Lang, 
Âu Lạc. 
4 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2011 
triển trong suốt hơn ngàn năm Bắc 
thuộc. Hán hóa diễn ra trên nhiều 
ph−ơng diện, tr−ớc tiên là trên lĩnh vực 
chính trị - xã hội, sau đó và đồng thời là 
trên lĩnh vực ý thức, t− t−ởng xã hội. 
Trong một chừng mực nhất định việc 
Hán hóa đã thành công, nh−ng việc 
đồng hóa ng−ời Việt để biến họ thành 
ng−ời Hán, biến xã hội Việt Nam thành 
xã hội Hán lại không thể. Chính tinh 
thần yêu n−ớc và ý chí quyết tâm chống 
ngoại xâm của ng−ời Việt trên mọi 
ph−ơng diện, trong đó có ph−ơng diện t− 
t−ởng mà tập trung là Nho giáo đã làm 
thất bại âm m−u đồng hóa. 
Ng−ời Việt chống đồng hóa, nh−ng 
lại không hoàn toàn chống Hán hóa và 
chống sự du nhập Nho giáo. Do vậy sau 
khi giành đ−ợc độc lập (năm 938), Nho 
giáo tiếp tục từng b−ớc đi dần vào đời 
sống xã hội và do ng−ời Việt chủ động 
tiếp nhận, cải biến, Việt Nam hóa để 
sau đó dần dần thay thế Phật giáo, trở 
thành hệ t− t−ởng chính thống của chế 
độ phong kiến Việt Nam. Nh−ng dù trở 
thành hệ t− t−ởng thống trị của chế độ 
phong kiến Việt Nam thì Nho giáo vẫn 
không thể độc tôn trên mọi ngóc ngách 
của đời sống tinh thần của dân tộc Việt 
Nam. Trong khoảng năm thế kỷ rực rỡ 
nhất của mình thì Nho giáo cũng không 
thể thay thế Phật giáo và Đạo giáo 
trong lĩnh vực đời sống tâm linh. Việc 
xử lý các công việc triều chính, đối nhân 
xử thế hàng ngày không phải nhất nhất 
các quan lại đều tuân thủ tuyệt đối các 
nguyên tắc của Nho giáo. Trong xã hội, 
bên ngoài triều đình, trong các làng xã 
và gia đình, ng−ời dân lại càng ít tuân 
thủ hơn những nguyên tắc đó. Đ−ơng 
nhiên, do quá trình Hán hóa hàng ngàn 
năm nh− vậy Nho giáo không thể không 
có vai trò to lớn đối với xã hội Việt Nam 
(ở các thời kỳ khác nhau vai trò ấy cũng 
khác nhau, nh−ng đó không phải là ảnh 
h−ởng hoặc vai trò độc tôn, duy nhất). 
Ngay cả trong giai đoạn hiện nay ảnh 
h−ởng của Nho giáo không phải là nhỏ 
so với các dòng phái t− t−ởng khác đang 
tồn tại trong xã hội Việt Nam. 
Tiến trình ảnh h−ởng của Nho giáo 
vào Việt Nam, nh− đã nói, bắt đầu từ 
thế kỷ thứ nhất tr−ớc CN, khi Nho giáo 
đã trở thành hệ t− t−ởng chính thống, 
thống trị ở Trung Hoa, bắt đầu phát 
triển từ thời Nhâm Diên, Tích Quang 
rồi Sĩ Nhiếp, nh−ng thực sự mạnh mẽ 
từ thời nhà Lý và đạt đến đỉnh cao ở 
thời Lê Thánh Tông (thế kỷ XV). Sau đó 
vai trò và ảnh h−ởng của Nho giáo bắt 
đầu giảm sút dần và càng ngày càng đi 
vào khủng hoảng. Trong suốt thời gian 
khoảng 3 thế kỷ, từ thế kỷ XVI đến thế 
kỷ XIX nhiều nhà t− t−ởng Việt Nam đã 
cố tìm mọi cách khai thác và sử dụng 
Nho giáo cho sự phát triển đất n−ớc, 
nh−ng càng đi sâu kiếm tìm trong Nho 
giáo, họ càng trở nên bất lực. Khủng 
hoảng hệ t− t−ởng từ cuối thế kỷ XIX và 
sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 
1945 đã đặt dấu chấm hết cho vai trò và 
ảnh h−ởng của Nho giáo tại Việt Nam 
với tính cách là một hệ t− t−ởng chính 
thống và thống trị, có ảnh h−ởng to lớn, 
sâu rộng vào loại bậc nhất trong lịch sử 
n−ớc nhà. Đ−ơng nhiên, ngày nay, dù 
không phải là hệ t− t−ởng chính thống 
và thống trị trên lĩnh vực tinh thần, t− 
t−ởng, nh−ng Nho giáo vẫn còn có 
những ảnh h−ởng lớn cả về chiều tích 
cực lẫn tiêu cực. 
2. Hai mặt khác nhau trong vai trò của Nho giáo 
Nhìn tổng thể thì trong đời sống 
chính trị - xã hội, Nho giáo đóng vai trò 
to lớn, nh−ng dù vậy, nó cũng không thể 
xóa mờ các t− t−ởng dân tộc, các triết lý 
“dân gian”, càng không thể thay thế văn 
hóa Việt Nam. Cho đến nay, đã có nhiều 
ảnh h−ởng của Nho giáo 5 
công trình nghiên cứu về Nho giáo Việt 
Nam và ảnh h−ởng của nó trong lịch sử 
Việt Nam, nh−ng vẫn còn thiếu những 
công trình phân tích rõ ràng tác động 
qua lại giữa các t− t−ởng bản địa của 
dân tộc với Nho giáo. Thậm chí trong 
một số công trình vẫn còn có sự nhầm 
lẫn giữa t− t−ởng Nho giáo và t− t−ởng 
bản địa Việt Nam truyền thống. Theo 
tôi, sự tác động này đã tạo nên cái mà 
mọi ng−ời th−ờng nói là Nho giáo Việt 
Nam, thậm chí là Việt Nho, khác với 
Nho giáo ở Trung Quốc, ở Hàn Quốc. 
Gần đây, nhiều học giả đã đánh giá 
cao vai trò của Nho giáo trong xã hội 
hiện đại, một số học giả châu Âu thất 
vọng với những hiện t−ợng “xuống cấp”, 
“phản văn hóa” của xã hội mà họ đang 
sống cũng h−ớng đến văn hóa Đông á 
nói chung, văn hóa Nho giáo nói riêng, 
hy vọng tìm kiếm đ−ợc một “cứu cánh” 
cho xã hội hiện đại. Tuy nhiên, cho đến 
nay, những luận giải của họ về Nho giáo 
và vai trò của nó trong xã hội hiện đại 
vẫn ch−a đủ sức thuyết phục các học 
giả, giới chính khách và xã hội nói 
chung. Bản thân Nho giáo là một lý 
luận “tập thể”. Mặc dầu Khổng Tử đ−ợc 
xem là tổ s− của Nho giáo, nh−ng 
nguyên tác của ông không còn. Ngũ 
Kinh, Tứ Th− đã là những tập hợp t− 
t−ởng của những ng−ời khác nhau, dù 
cứ cho rằng t− t−ởng của Chu Công và 
Khổng Tử là chính. Việc giải thích Ngũ 
Kinh, Tứ Th− càng là công trình tập thể 
và trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác 
nhau. Bởi thế, trong nó chứa đựng 
nhiều ý kiến trái ng−ợc nhau, thậm chí 
mâu thuẫn nhau. Đ−ơng nhiên, nhìn 
nhận vai trò, ảnh h−ởng Nho giáo, nhất 
là vai trò của Nho giáo hiện nay, không 
thể chỉ căn cứ vào các nguyên lý lý luận 
của nó mà phải xem xét toàn bộ những 
“di sản” mà nó đã để lại cho con ng−ời 
và xã hội. Dĩ nhiên cùng một nền tảng 
lý luận giống nhau, nh−ng trong thực 
tế, các “di sản” lại khác nhau. Điều đó 
do nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa, xã hội 
và cả điều kiện tự nhiên khác nhau. 
Khảo sát ảnh h−ởng của Nho giáo ở Việt 
Nam cần phải xuất phát từ góc nhìn đó 
và nội hàm khái niệm Nho giáo cần 
đ−ợc hiểu theo nghĩa ấy chứ không thể 
chỉ theo nghĩa nội dung các nguyên lý 
của Nho học. 
ở Việt Nam, di sản của Nho giáo 
hiện còn rất đồ sộ. Có lẽ không cần 
“quay trở lại”, hoặc “h−ớng về” nó, “phát 
huy” nó nh− một số học giả đã nhận 
định khi đánh giá vai trò Nho giáo ở các 
n−ớc “rồng”, “hổ” ở Đông á. Nếu quả 
thực nó có vai trò thúc đẩy xã hội hiện 
đại để tạo ra những “con rồng”, “con hổ” 
thì chắc chắn Việt Nam đã thành “hổ” 
từ lâu lắm rồi. Cải cách Minh Trị Thiên 
Hoàng của Nhật Bản ở thế kỷ XIX là 
một sự đoạn tuyệt với Nho giáo mạnh 
mẽ nhất. Những cải cách và hiện đại 
hóa xã hội ở Nhật Bản từ những năm 60 
của thế kỷ qua cũng là tiếp tục sự đoạn 
tuyệt ấy. ở Hàn Quốc, Singapore, Đài 
Loan cũng có tình hình t−ơng tự. Các 
n−ớc ấy khi tiến hành cải cách và phát 
triển xã hội không thấy ai tuyên bố 
“quay về” Nho giáo cả. Với những cải 
cách thành công ở đó Nho giáo cũng 
không phục h−ng trở lại. Trái lại, trên 
thực tế, xã hội càng rời xa với Nho giáo 
và những “di sản” của nó. 
Kể từ khi “Đổi mới” đến nay, kinh tế 
thị tr−ờng ngày càng phát triển, đời 
sống xã hội Việt Nam biến đổi đa dạng, 
sự biến động của các giá trị trong đời 
sống, sự hình thành các giá trị mới, đào 
thải các giá trị cũ, sự xuống cấp của đạo 
đức, v.v... mang tính đa h−ớng cả “xấu” 
lẫn “tốt” cũng đều ngày càng rời xa Nho 
giáo. Trên một số ph−ơng diện nh− t− 
6 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2011 
duy, lối sống, tập quán, hình nh− xã hội 
càng thoát xa ra khỏi Nho giáo thì càng 
vận động với tốc độ nhanh hơn. Đó là 
một thực tế ngày một hiện rõ theo tiến 
trình Đổi mới. Đồng ý với nhiều học giả, 
chúng tôi cho rằng Nho giáo ở Việt Nam 
đã và đang tạo nên nhiều hệ lụy cho sự 
vận động của xã hội. Dù với mục đích 
vạch ra những giá trị, những yếu tố, 
những khía cạnh tích cực của Nho giáo 
đối với sự phát triển của xã hội hiện đại 
thì cũng đồng thời phải chỉ ra đ−ợc 
những hạn chế, những yếu tố, khía cạnh 
tiêu cực, đang cản trở xã hội phát triển 
thì mới có thể có đ−ợc cái nhìn đúng 
đắn, đầy đủ về vai trò của Nho giáo 
trong xã hội hiện đại. D−ới đây xin 
trình bày khái l−ợc một số khía cạnh 
tích cực và hạn chế nh− vậy. 
a. Về vai trò tích cực 
1. Trong lịch sử, Nho giáo đã đóng 
vai trò rất quan trọng trong t− t−ởng và 
xã hội Việt Nam. Những thành tựu về 
nhiều mặt của Việt Nam trong khoảng 
hai ngàn năm, ít hoặc nhiều, đều gắn 
liền với Nho giáo. Các t− t−ởng Nho giáo 
trở thành một trong những chất liệu 
quan trọng của t− t−ởng Việt Nam 
trong lịch sử. Những nhân vật lịch sử ít 
nhiều đều chịu ảnh h−ởng hoặc xuất 
thân từ Nho giáo nh−ng lại là những 
ng−ời lãnh đạo cả về chính trị lẫn tinh 
thần của ng−ời Việt chống lại ng−ời 
Hán đô hộ Việt Nam. Các triều đại 
phong kiến Việt Nam kể từ khi giành 
đ−ợc độc lập dân tộc (từ năm 938) dù ở 
các mức độ khác nhau, nh−ng đều nhận 
thức đ−ợc rằng những t− t−ởng Nho 
giáo có thể củng cố và phát triển triều 
đại mình nên đã tìm cách lựa chọn, khai 
thác, kế thừa, cải biến, sử dụng và Việt 
hóa nó theo h−ớng có lợi cho triều đại và 
đất n−ớc. Những t− t−ởng căn bản của 
Nho giáo nh− “mệnh trời”, “chính danh”, 
“quân tử, tiểu nhân”, “tam c−ơng, ngũ 
th−ờng”, “trung, hiếu, lễ, nghĩa” là 
những vật liệu quan trọng để tạo dựng 
mới các thể chế chính trị, kinh tế, văn 
hóa, xã hội, t− t−ởng,... cho các triều đại 
phong kiến Việt Nam ngay sau khi giành 
đ−ợc quyền độc lập, tự chủ. Về sau trên 
nền tảng đó các triều đại mới có thể tạo 
dựng một xã hội phong kiến độc lập, phát 
huy “chất Việt Nam”, cải biến các thể chế 
cũ, tạo thành một xã hội phong kiến Việt 
Nam độc lập, tự chủ, ngang bằng với các 
quốc gia khác. 
 2. Nho giáo vào Việt Nam, cùng với 
Phật giáo đã tạo nên một đội ngũ trí 
thức dân tộc đông đảo, đóng vai trò rất 
quan trọng trong đời sống chính trị, xã 
hội và tinh thần của dân tộc. Đ−ơng 
nhiên, không thể chỉ có Nho giáo là 
nguồn gốc, tiền đề duy nhất cho sự hình 
thành và hoạt động của đội ngũ trí thức 
ấy. Lịch sử dựng n−ớc và giữ n−ớc của 
dân tộc không thể thiếu vắng vai trò to 
lớn và sự đóng góp khổng lồ của đội ngũ 
trí thức Nho học. Nho giáo không chỉ 
đóng vai trò to lớn trong việc tạo dựng 
đội ngũ trí thức phong kiến mà kể cả đội 
ngũ các vua chúa, quan lại, các “thủ 
lĩnh” ở các địa ph−ơng, vùng, miền trên 
khắp cả n−ớc trong chế độ phong kiến. ở 
thời kỳ thịnh trị, Nho giáo cung cấp cho 
bộ máy chính quyền một tầng lớp quan 
lại thông qua giáo dục và thi cử để tuyển 
chọn. Cùng với tầng lớp trí thức Nho học, 
đội ngũ quan lại này, một mặt, hoạt động 
trong bộ máy quản lý, cai trị của nhà 
n−ớc phong kiến, mặt khác, tham gia các 
hoạt động văn hóa, t− t−ởng, học thuật 
của đất n−ớc: biên soạn quốc sử; sáng 
tác văn học, nghệ thuật; thảo luận 
những vấn đề chính trị-xã hội, học 
thuật, đào tạo đội ngũ quan lại,... 
3. Nho giáo cùng với chữ Hán góp 
phần mang đến Việt Nam một kho tàng 
ảnh h−ởng của Nho giáo 7 
kiến thức về tự nhiên, xã hội mới lạ của 
ng−ời Trung Hoa nói chung và ng−ời 
Hán nói riêng, và về sau của nhiều dân 
tộc khác trong khu vực. Triết học, thiên 
văn học, y học, sử học, văn học, hội họa, 
lối sống... của Trung Quốc nhờ thế mà 
có ảnh h−ởng lớn trong xã hội Việt 
Nam. Nhờ chữ Hán và Nho giáo một 
chân trời mới về tri thức, văn hóa đ−ợc 
mở rộng tr−ớc con ng−ời và xã hội Việt 
Nam. Đ−ơng nhiên khi vào Việt Nam 
chúng đều đ−ợc Việt hóa cho thích hợp 
với c− dân bản địa. D−ới tác động của 
Nho giáo những kiến thức mọi mặt đ−ợc 
tích lũy tr−ớc đó của ng−ời Việt Nam 
cũng đ−ợc tinh chỉnh, nâng cấp, hệ 
thống hóa lại theo tinh thần Nho giáo. 
Đó chính là một trong những yếu tố nền 
tảng cấu thành kho tàng kiến thức của 
ng−ời Việt trong lịch sử. 
4. Nho giáo có vai trò hết sức to lớn 
trong việc xây dựng và tổ chức bộ máy 
nhà n−ớc phong kiến tập quyền lớn 
mạnh. Trong vai trò này Nho giáo thực 
sự bắt đầu có ảnh h−ởng lớn ngay từ 
thời Bắc thuộc. Khi giành lại đ−ợc độc 
lập xã hội Việt Nam đòi hỏi sự ổn định, 
thống nhất và phát triển, củng cố và giữ 
vững độc lập, tự chủ nên cần có một nhà 
n−ớc tập quyền mạnh để có thể tổ chức 
chống ngoại xâm, xây dựng các công 
trình thủy lợi. Nho giáo có khả năng 
đáp ứng đ−ợc nhu cầu đó nên ngay từ 
thời Lý, Trần, Nho giáo đã bắt đầu là cơ 
sở t− t−ởng cho việc xây dựng nhà n−ớc 
phong kiến tập quyền. Những luận 
thuyết của Nho giáo nh− vua tôi, mệnh 
trời, đạo làm vua,... đã xác lập sức mạnh 
t− t−ởng cho chế độ phong kiến tập 
quyền, do đó các triều đại đều cố khai 
thác các luận thuyết của Nho giáo phục 
vụ cho việc xây dựng nhà n−ớc, củng cố 
triều đại. Nho giáo đã góp phần tích cực 
trong việc tập trung quyền lực và tạo 
dựng nhà n−ớc tập quyền mạnh, ổn 
định và phát triển xã hội phong kiến, 
bảo vệ độc lập chủ quyền của các triều 
đại và quốc gia. 
5. Nho giáo cũng có vai trò to lớn 
trong việc phát triển nền kinh tế tiểu 
nông gia tr−ởng ở Việt Nam. Quá trình 
hình thành và phát triển của xã hội 
phong kiến Việt Nam gắn liền với sự du 
nhập và thâm nhập, Việt Nam hóa Nho 
giáo bởi nó đáp ứng đ−ợc những đòi hỏi 
của nền nông nghiệp tiểu nông đang 
 ... ã hội là hết sức lớn, 
bén rễ rất sâu, bám rất chặt trong đời 
sống xã hội, mà cho đến nay, ở Việt 
Nam, nhiều nơi, nhiều vùng, nhiều dòng 
họ, gia đình vẫn ch−a thoát khỏi những 
khuôn mẫu ấy. Dĩ nhiên, những ảnh 
h−ởng của Nho giáo đến các quan hệ xã 
hội, gia đình, dòng họ thấm vào đời sống 
của c− dân Việt Nam chậm hơn vào 
cung điện, công đ−ờng, nh−ng khi đã 
ngấm sâu nó lại có sức bền chặt hơn rất 
nhiều. Đạo đức Nho giáo trong các quan 
hệ xã hội theo khuôn mẫu của nó có sức 
sống và ảnh h−ởng lớn, lâu dài đến 
ng−ời Việt và đã trở thành một yếu tố 
cấu thành của đạo đức phẩm hạnh 
ng−ời Việt. 
Ngoài những điểm nói trên, Nho 
giáo cũng có vai trò tích cực trong một 
số khía cạnh khác. Nh−ng vai trò tích 
cực của Nho giáo cũng có giới hạn ngay 
cả khi nó đ−ợc nâng lên vị trí độc tôn 
trong xã hội. 
b. Hạn chế của Nho giáo 
Hạn chế của Nho giáo cũng là vấn 
đề rất lớn, rất phức tạp và rất đa dạng. 
Các nhà nghiên cứu đã có thể thống 
nhất với nhau trong nhiều nhận định, 
đánh giá, nh−ng cũng còn nhiều ý kiến 
khác nhau, thậm chí trái ng−ợc nhau. 
D−ới đây xin trình bày d−ới dạng khái 
l−ợc một số khía cạnh hạn chế, tiêu cực 
mà di sản Nho giáo đang gây hệ lụy cho 
xã hội hiện đại theo cách nhìn của 
chúng tôi. 
Thứ nhất, Nho giáo, cả về ph−ơng 
diện lý luận lẫn hiện thực, gắn liền với 
tính bảo thủ, tr−ớc hết trong các vấn đề 
về kinh tế. Nho giáo sinh ra trên nền 
móng của một xã hội nông nghiệp đang 
bắt đầu chuyển sang chế độ phong kiến. 
Bởi thế, nó đề cao nông nghiệp, coi 
th−ờng th−ơng nghiệp, kỹ thuật, thủ 
công nghiệp và về sau cả công nghiệp. 
ảnh h−ởng của Nho giáo 9 
T− t−ởng ấy ở thời kỳ cổ đại có ý nghĩa 
tích cực, nh−ng khi xã hội b−ớc vào thời 
cận đại lại trở thành một rào cản cho sự 
phát triển của th−ơng nghiệp, công 
nghiệp. Xã hội nông nghiệp đ−ợc Nho 
giáo củng cố thêm về ph−ơng diện t− 
t−ởng và thiết chế tạo nên một thành trì 
vững chãi ngăn cản mọi sự thay đổi của 
thủ công nghiệp và th−ơng nghiệp khiến 
chúng không thể phát triển dù những 
mầm mống của chúng đã nảy sinh từ 
tr−ớc đó và do vậy, cản trở sự phát triển 
của xã hội. ở Việt Nam, trong lịch sử, 
Nho giáo th−ờng là căn cứ lý luận của 
những ng−ời bảo thủ và những chính 
sách bảo thủ về kinh tế. 
Ngay cả ở giai đoạn hiện nay dấu ấn 
của Nho giáo trong các quan điểm bảo 
thủ đối với sự phát triển kinh tế, văn 
hóa, xã hội không phải đã hết. Thực tế 
lịch sử của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung 
Quốc, Việt Nam đều chứng tỏ điều đó. ở 
Việt Nam và Trung Quốc hiện nay, 
nhiều nơi, nhiều lĩnh vực, khu vực kinh 
tế tiểu nông đã bị xóa bỏ, tầng lớp nho sĩ 
không còn, nh−ng ở chính những nơi đó 
t− t−ởng Nho giáo về kinh tế và những 
biến thái của nó vẫn tiếp tục gây cản trở 
không ít cho đời sống kinh tế. Lối làm 
ăn không tính đến hiệu quả kinh tế, 
không dựa trên nhu cầu và thị hiếu thị 
tr−ờng, làm vì “danh” chứ không vì “lợi”, 
bệnh “sĩ” nặng nề trong cuộc sống vẫn 
còn tồn tại và có lúc, có nơi vẫn giữ vị 
thế chủ đạo. 
Thứ hai, Nho giáo góp phần đắc lực 
tạo ra và duy trì một lối t− duy và hành 
động - thể hiện lối t− duy đó, có thể tạm 
gọi là t− duy Nho giáo, khá đặc thù, 
khác biệt với các loại hình t− duy khác, 
hiện nay đang có ảnh h−ởng không nhỏ 
đến t− duy ng−ời Việt. Lối t− duy của 
ng−ời sản xuất nhỏ hay tiểu nông đã 
đ−ợc nhiều ng−ời nói đến. Nh−ng nếu 
nói t− duy Nho giáo thì hầu nh− ch−a ai 
nói(∗). Tuy nhiên, nhiều ng−ời đã thừa 
nhận một thực tế là sự “thâm nho” vốn 
xuất phát từ Nho giáo, đã tồn tại cả 
ngàn năm và vẫn còn tồn tại cho đến 
tận hôm nay. “Thâm nho” là một đặc 
tr−ng rất đặc thù do Nho giáo tạo ra mà 
ở các lý luận khác th−ờng không thấy 
tạo ra sản phẩm kiểu nh− vậy. 
Lối suy nghĩ lấy thời đại Nghiêu, 
Thuấn, bê nguyên xi cách hành xử của 
cha ông, của quá khứ làm mẫu mực, để 
xử lý những vấn đề đ−ơng đại, tức là lối 
t− duy quay về quá khứ, chứ ít chú ý 
đến hiện tại và càng không h−ớng đến 
t−ơng lai là một đặc tr−ng nổi trội khác. 
Từ vua đến các nho sĩ làm quan lớn, làm 
quân s− m−u l−ợc trong triều đình khi 
đ−ợc hỏi ý kiến về một vấn đề nào đó 
th−ờng lấy quá khứ làm “khuôn vàng 
th−ớc ngọc” cho hiện tại. Thậm chí 
những mơ −ớc, dự tính cho t−ơng lai, 
định h−ớng phấn đấu của họ cũng luôn 
h−ớng về quá khứ nh− một yếu tố căn 
bản, chủ yếu và then chốt. Có lẽ vì vậy, 
trong xử lý các vấn đề t− duy nho giáo 
th−ờng hạn hẹp, tầm nhìn ngắn, hạn 
chế về nhiều ph−ơng diện. Trong đào 
tạo và giáo dục, “bác cổ” đ−ợc xem là 
một tiêu chí bậc nhất chứ không phải là 
sáng tạo. 
Đặc điểm quay lại với quá khứ gắn 
liền với một đặc điểm khác cũng khá 
điển hình là đóng cửa và khép kín. Có 
thể là xuất phát từ chỗ Nho giáo ra đời, 
tồn tại và phát triển ở Trung Quốc, nơi 
(∗)GS. Nguyễn Tài Th− trong phát biểu tại Hội 
thảo Nho giáo Việt Nam và văn hóa Đông á tại 
Viện Triết học (6/2009) cũng đã có những nhận 
xét rất xác đáng về phong cách t− duy của Nho 
giáo Việt Nam: h−ớng đến cái thực tế, công lợi, 
xa lánh cái siêu hình cao xa; Thích đơn giản và 
ngắn gọn; Lối suy nghĩ chiết trung và dung hợp; 
Sùng bái thánh hiền, giáo điều máy móc. 
10 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2011 
mà cộng đồng ng−ời Hán luôn tự cho 
mình là trung tâm, là đỉnh cao của 
thiên hạ, các cộng đồng khác đều là man 
di, mọi rợ, nên Nho giáo cũng đã tiếp 
thu t− t−ởng ấy, dần dần t− t−ởng ấy 
trở thành nguyên tắc chỉ đạo t− duy và 
hành động của các nho sĩ và xã hội. Đến 
cuối thế kỷ XIX, các n−ớc ph−ơng Tây 
đã phát triển cao hơn hẳn, nh−ng nhiều 
nho sĩ vẫn không chịu thừa nhận thực 
tế đau buồn là cả dân tộc đang tụt hậu 
ấy để học hỏi và phát triển, mà vẫn xem 
các n−ớc châu Âu thuộc loại man di (Tây 
di). “Nhất sĩ” (nhì nông) với Nho giáo, 
chính là các nhà Nho đã tự cho mình là 
nhất thiên hạ, không cần giao l−u, học 
hỏi, quốc gia không cần mở cửa để phát 
triển, mà phải đóng cửa để các t− t−ởng, 
t− duy, lối sống bên ngoài không thể 
thâm nhập vào vì tất cả đều thấp kém 
và thua những cái mà họ đã có. Lối t− 
duy và thái độ hành xử ấy dẫn đến hình 
thành nên trong suy nghĩ, trong tâm lý 
và hành động của con ng−ời khi tiếp xúc 
với cái mới là thu mình lại, tự cô lập và 
tách biệt, ngại hòa nhập và hòa hợp. 
Đặc tính tự đóng cửa và khép kín 
của xã hội phong kiến Việt Nam trong 
nhiều thế kỷ có “sự đóng góp tích cực và 
hiệu quả” của Nho giáo cả về ph−ơng 
diện lý luận lẫn thực tiễn. Các nho sĩ 
mang t− t−ởng đóng cửa, khép kín đã 
tích cực tạo dựng nên các thiết chế, cơ 
chế xã hội lẫn văn hóa, t− t−ởng vững 
chãi để loại trừ, ngăn cản và tiêu diệt 
những cái mới nếu chúng thâm nhập 
đ−ợc vào xã hội đó. Củng cố, tăng c−ờng 
cái cũ, không chấp nhận cái mới, tự 
đóng khung mình trong những khuôn 
khổ có sẵn do các thế hệ tr−ớc tạo dựng 
nên là một trong những nét đặc tr−ng 
của t− duy Nho giáo. Sự “thâm nho” có 
vô vàn biểu hiện khác nhau trong cách 
nghĩ lẫn lối sống và hành động. 
Thứ ba, một số học giả đã đánh giá 
cao vai trò của Nho giáo trong việc củng 
cố và phát triển gia đình. Nho giáo đ−ợc 
cho là tạo ra khuôn khổ quan hệ gia 
đình và từ đó giữ vững sự ổn định của 
gia đình và xã hội. Tuy nhiên, đấy mới 
chỉ là mặt nổi của Nho giáo đối với gia 
đình. Còn mặt chìm khác, tr−ớc đây có 
lúc đ−ợc chú ý, nh−ng gần đây đã không 
đ−ợc chú ý nhiều, đó là mặt di hại của 
Nho giáo với gia đình. Một số học giả 
nhận định rằng những lề thói sinh hoạt 
trong gia đình mà thời gian gần đây 
đang sống lại nh− thờ cúng tổ tiên, 
chăm lo mồ mả, xây nhà thờ tổ tiên, 
biên dịch và ghi chép gia phả, v.v... là 
những nếp sinh hoạt gia đình có cội 
nguồn từ Nho giáo có tác dụng củng cố 
các quan hệ gia đình, dòng họ, từ đó có 
thể thúc đẩy các cá nhân và tập thể tích 
cực hơn trong hoạt động và giúp đỡ lẫn 
nhau. Theo chúng tôi, có lẽ ở đây có sự 
nhầm lẫn trong cách nhìn nhận nguồn 
gốc các lề thói nói trên. Không hẳn Nho 
giáo là lý luận đã tạo ra các lề thói nói 
trên. Việc thờ cúng tổ tiên từ xa x−a, 
tr−ớc khi có Nho giáo, vốn đã là một tập 
tục của các c− dân nông nghiệp. Không 
loại bỏ đ−ợc cái đó, Nho giáo chỉ củng cố 
thêm nó trên ph−ơng diện hiện thực 
cuộc sống, trong quan hệ với ông bà, cha 
mẹ, những ng−ời có công sinh thành và 
giáo d−ỡng mà thôi. Việc khôi phục lại 
những lề thói ấy, do vậy, không phải là 
trở lại với Nho giáo. 
Trong nhiều giai đoạn tr−ớc đây, 
chúng ta đã bỏ nhiều công sức để phá bỏ 
những xiềng xích Nho giáo trói buộc gia 
đình. Nh−ng cho đến nay, ch−a ai có thể 
khẳng định những di hại của Nho giáo 
không còn ảnh h−ởng trong đời sống gia 
đình đ−ơng đại. Ng−ời phụ nữ ở các 
vùng nông thôn, ven biển và vùng núi 
vẫn phải chịu “xiềng tứ đức, tam tòng” ở 
ảnh h−ởng của Nho giáo 11 
những mức độ nhiều ít khác nhau. 
Nhiều tập tục về gia đình, dòng họ lạc 
hậu đang tồn tại và có nguy cơ phát 
triển mạnh,... Điều đáng nói hơn là 
những di hại trong quan hệ gia đình, 
dòng họ lại đ−ợc mang ra xã hội, sử 
dụng trong cơ quan, hành xử trong công 
sở. “Một ng−ời làm quan cả họ cậy nhờ”, 
chủ nghĩa dòng tộc, họ hàng làng xóm 
trong phạm vi xã ph−ờng, quận huyện, 
các cấp chính quyền khác vẫn còn là 
một sức mạnh tạo ra nhiều hệ quả 
không mong muốn đối với sự phát triển 
kinh tế, văn hóa và xã hội nói chung. 
Những lý giải về nguyên nhân thần 
kỳ của kinh tế Nhật Bản trong những 
thập kỷ cuối của thế kỷ XX nằm trong 
việc sử dụng các giá trị Nho giáo về gia 
đình, theo chúng tôi, có lẽ chỉ đúng ở 
một mức độ hạn hẹp, sau đó đ−ợc thổi 
phồng lên vì những động cơ khác mà 
thôi. Nếu các giá trị Nho giáo trong gia 
đình có vai trò to lớn thì tại sao những 
thời kỳ tr−ớc đó và ở những nơi Nho 
giáo có ảnh h−ởng lớn nh− Trung Quốc, 
Việt Nam, Hàn Quốc,... lại không thấy 
hiệu quả nh− vậy. Và cũng t−ơng tự 
nh− đã nói ở trên nếu đúng nh− những 
luận giải về sự phát triển của Nhật Bản 
thì tại sao tại chính nơi Nho giáo đã nảy 
sinh và tồn tại hơn hai ngàn năm thì 
những giá trị ấy lại không phát huy tác 
dụng đ−ợc nh− ở Nhật Bản? Có lẽ có 
những nguyên nhân khác căn bản hơn 
quyết định sự phát triển thần kỳ của 
Nhật Bản chứ không phải các giá trị 
Nho giáo trong gia đình. Nếu Việt Nam 
đ−a vận dụng những cái đó chắc chắn 
cũng không thể có đ−ợc thành công nh− 
mong đợi. 
Thứ t−, trong quản lý xã hội, Nho 
giáo vẫn để lại những di hại nặng nề và 
có quy mô rộng lớn. Nho giáo nhấn 
mạnh đức trị (nhân nghĩa), lễ trị (lễ 
giáo) trong quản lý xã hội. Nh−ng trong 
thực tế, Nho giáo đã biến những cái 
đ−ợc gọi là đức, là lễ thành những 
nguyên tắc cai trị có tính đẳng cấp và 
tùy tiện. Đã là quan thì trở thành “phụ 
mẫu”, có quyền hành cực lớn. Đã là vua 
thì trở thành con trời với quyền hành 
tuyệt đối. Trong xã hội có tầng lớp thứ 
dân thấp kém, có bậc đại tr−ợng phu và 
kẻ sĩ, có “quân tử” và “tiểu nhân”. Bề 
ngoài thì vua quan coi dân nh− con, 
nh−ng trong thực tế thì trái ng−ợc hoàn 
toàn. Nhìn lại toàn bộ lịch sử có thể 
thấy, Nho giáo khuyến khích việc “hành 
xử” trong quản lý xã hội theo lợi ích của 
tập đoàn cai trị hơn là theo đức trị và 
càng không theo pháp trị. Việc cai trị và 
quản lý xã hội của Nho giáo gắn liền với 
tam c−ơng, ngũ th−ờng, tam tòng, tứ 
đức, chính danh, v.v... đã nhiều trăm 
năm thấm vào hệ thống giáo dục, hệ 
thống quyền lực xã hội, ngày nay vẫn 
còn những tàn d− tiếp tục thể hiện 
trong đời sống xã hội, tạo nên những 
v−ớng mắc, cản trở sự phát triển xã hội. 
Hệ thống chính quyền dựa trên t− t−ởng 
Nho giáo trong thực tế hết sức dị ứng 
với những biến đổi nội tại và với những 
ảnh h−ởng ngoại lai, cản trở việc tiếp 
thu cái mới và thúc đẩy sự phát triển 
của chính hệ thống, v.v... Những biến 
thái của lối cai trị, quản lý xã hội một 
cách tùy tiện, chuyên quyền, chủ quan, 
không dân chủ, thiếu tính nhân nghĩa 
trong thực tế là rất đa dạng, nhiều khi 
khó nhìn rõ. 
Thứ năm, trong việc giáo dục và đào 
tạo con ng−ời Nho giáo coi trọng kinh 
sử. Nh−ng kinh sử đ−ợc tuân thủ một 
cách máy móc, siêu hình, trọng văn 
ch−ơng, khinh rẻ kỹ thuật. Nho giáo hạn 
chế sức sáng tạo cái mới. Tu thân của 
Nho giáo nặng về tu đạo đức, nhẹ về học 
thuật kỹ nghệ, thiên về học để làm quan 
12 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2011 
chứ không để lao động sáng tạo, học để 
làm thầy hơn là để làm thợ. Chế độ khoa 
cử của Nho giáo nặng về thi cử, thuộc 
lòng điển tích hơn là tri thức khoa học về 
tự nhiên, xã hội, v.v... Những di hại của 
Nho giáo trong giáo dục và đào tạo đang 
gây ảnh h−ởng lớn đến việc giáo dục và 
đào tạo hiện nay của Việt Nam. 
Nho giáo vẫn còn nhiều ảnh h−ởng 
trong xã hội Việt Nam đ−ơng đại. Nhiều 
ng−ời đang muốn khôi phục những t− 
t−ởng Nho giáo. Nh−ng nếu trong 
nghiên cứu Nho giáo không đặt vấn đề 
nghiêm túc, rõ ràng cả về ph−ơng diện 
tích cực lẫn tiêu cực thì dễ xảy ra xu 
h−ớng phục hồi những yếu tố tiêu cực 
cho sự phát triển xã hội hiện đại. Điều 
quan trọng là khi xã hội Việt Nam đang 
cần có những t− t−ởng cải cách, cần tiếp 
tục đổi mới t− duy để đẩy nhanh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì Nho giáo 
không thể có khả năng đáp ứng đ−ợc 
những đòi hỏi mới ấy trên hầu hết các 
ph−ơng diện. Xã hội Việt Nam trong các 
thế kỷ tr−ớc đây, đặc biệt là thế kỷ XX, 
khi tiếp nhận các luồng t− t−ởng mới, 
phong cách t− duy mới, thông th−ờng 
đều phải trải qua một giai đoạn “chiến 
đấu” với Nho giáo và thậm chí những t− 
t−ởng ấy, t− duy mới ấy có lúc, có nơi 
buộc phải Nho giáo hóa mới đi sâu đ−ợc 
vào đời sống xã hội và phát huy tác 
dụng của chúng. D−ờng nh− giai đoạn 
hiện nay tình cảnh t−ơng tự cũng đang 
diễn ra, mặc dù những t− t−ởng mới, 
phong cách (t− duy, sống, hành động) 
mới không chỉ buộc phải “chiến đấu” với 
mỗi mình Nho giáo là duy nhất. 
Những nét tóm l−ợc trên đây về cả 
vai trò tích cực lẫn hạn chế của Nho 
giáo ch−a phải là tất cả những gì mà 
Nho giáo trong lịch sử và di sản Nho 
giáo hiện nay in dấu ấn của mình vào 
con ng−ời và xã hội Việt Nam. Số phận 
của Nho giáo trong xã hội đ−ơng đại 
không chỉ do vai trò tích cực hay hạn 
chế của nó quyết định, mà còn do đời 
sống xã hội hiện đại quy định. Việc sử 
dụng, kế thừa, phát huy vai trò của Nho 
giáo cũng nh− hạn chế những tác hại của 
nó, do vậy, cũng phải căn cứ trên nhu cầu 
và xu h−ớng phát triển của xã hội hiện 
đại chứ không thể chỉ nhìn vào Nho giáo 
hay dựa trên mong muốn của một số 
“Nho sĩ hiện đại” đang mong muốn làm 
sống lại “tinh thần” Nho giáo trong các 
thời kỳ lịch sử tr−ớc đây của nó. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử t− 
t−ởng Việt Nam. H.: Từ điển Bách 
khoa, 2006. 
2. Trần Văn Giầu. Lịch sử t− t−ởng 
Việt Nam. H.: Chính trị Quốc gia, 
t.1,1996, t.2, 1997. 
3. Trần Trọng Kim. Nho giáo. Tp. Hồ 
Chí Minh: Tp. Hồ Chí Minh, 1992. 
4. Nguyễn Tài Th− (chủ biên). Lịch sử 
t− t−ởng Việt Nam. H.: Khoa học xã 
hội, tập I, 1993. 
5. Lê Sỹ Thắng (chủ biên). Lịch sử t− 
t−ởng Việt Nam. H.: Khoa học xã 
hội, tập II, 1997. 
6. Nhiều tác giả. Lịch sử văn học Việt 
Nam. H.: Khoa học xã hội, 1980. 
7. Nguyễn Hiến Lê. Khổng tử. H.: Văn 
hoá thông tin, 1996. 
8. Nguyễn Hùng Hậu. Đại c−ơng Triết 
học Việt Nam. Huế: Thuận Hóa, 
2005. 
9. Quỳnh C−, Đỗ Đức Hùng. Các triều 
đại Việt Nam (In lần thứ VI). H.: 
Thanh niên, 2001. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_nho_giao_trong_nho_giao_trong_lich_su_tu_tuong.pdf