Ảnh hưởng của giá trị Công giáo đối với người Công giáo Việt Nam

Các tôn giáo ở Việt Nam dù là tôn giáo ngoại nhập hay tôn giáo nội sinh, trong quá trình

tồn tại và phát triển đều tạo ra các giá trị tôn giáo. Giá trị Công giáo có ảnh hưởng lớn đến người

Công giáo. Nhờ ảnh hưởng của giá trị Công giáo, nên người Công giáo Việt Nam coi trọng lao

động, coi trọng quan hệ hôn nhân và gia đình, đoàn kết và giúp đỡ nhau không chỉ đối với người

Công giáo mà còn đối với người không theo Công giáo.

pdf 14 trang kimcuc 9800
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của giá trị Công giáo đối với người Công giáo Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của giá trị Công giáo đối với người Công giáo Việt Nam

Ảnh hưởng của giá trị Công giáo đối với người Công giáo Việt Nam
 41
Ảnh hưởng của giá trị Công giáo 
đối với người Công giáo Việt Nam 
Nguyễn Hồng Dương1 
1 Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Email: duongvtg@gmail.com 
Nhận ngày 20 tháng 6 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 5 tháng 7 năm 2017. 
Tóm tắt: Các tôn giáo ở Việt Nam dù là tôn giáo ngoại nhập hay tôn giáo nội sinh, trong quá trình 
tồn tại và phát triển đều tạo ra các giá trị tôn giáo. Giá trị Công giáo có ảnh hưởng lớn đến người 
Công giáo. Nhờ ảnh hưởng của giá trị Công giáo, nên người Công giáo Việt Nam coi trọng lao 
động, coi trọng quan hệ hôn nhân và gia đình, đoàn kết và giúp đỡ nhau không chỉ đối với người 
Công giáo mà còn đối với người không theo Công giáo. 
Từ khóa: Công giáo, giá trị, Việt Nam. 
Phân loại ngành: Tôn giáo học 
Abstract: Religions in Vietnam, be they exogenous or endogenous, have all created religious values in their 
processes of existence and development. Catholic values have great influence on Catholic followers, which 
has resulted in their attachment of great importance to labour and the marriage and family relations, living 
in solidarity and mutual assistance not only among the followers themselves, but also between them and 
non-Catholic people in Vietnam. 
Keywords: Catholicism, values, Vietnam. 
Subject classification: Religious studies 
1. Mở đầu 
Giá trị Công giáo có ảnh hưởng lớn tới đời 
sống người Công giáo Việt Nam. Ảnh 
hưởng đó như thế nào? Đây là một vấn đề 
rộng lớn. Bài viết này góp phần phân tích 
những ảnh hưởng của giá trị Công giáo tới 
người Công giáo Việt Nam. 
2. Ảnh hưởng của giá trị Công giáo đối với 
quan niệm về lao động của người Công 
giáo Việt Nam 
Con người có quyền và phải lao động. Đó 
là một giá trị của Công giáo. Theo Tân 
Ước, Chúa Giêsu là con người lao động. 
Sau khi làm người và sống giữa chúng ta, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017 
 42
Chúa dành năm tháng sống trên đời để lao 
động. Lao động diễn tả một chiều hướng 
căn bản của cuộc sống con người, như một 
sự tham gia không những vào hành vi sáng 
tạo mà còn là hành vi cứu chuộc nữa. 
Người Công giáo Việt Nam từ rất lâu, lấy 
ngày mồng ba tết Nguyên đán làm ngày 
“Thánh hóa công ăn việc làm”. Điều này thể 
hiện sự trân trọng, đòi buộc các tín hữu coi lao 
động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ mang 
tính trần thế, nhưng đồng thời còn là tính 
thiêng liêng để cải hóa chính bản thân mình. 
Người Công giáo Việt Nam qua một số 
Thư chung nhận ra giá trị lao động. Một 
trong những Thư chung phải kể đến là Thư 
chung 19762. Trong Thư đó, nội dung thứ 8 
(Giá trị lao động) viết: “Chúng tôi xin anh 
chị em hãy nhận thức đặc biệt giá trị của lao 
động. Thật vậy, nhờ lao động con người 
theo lệ thường nuôi sống mình và gia đình, 
liên kết với anh em và phục vụ họ, có thể 
thực thi bác ái đích thực và góp công vào 
việc kiện toàn công cuộc sáng tạo của Thiên 
Chúa. Hơn nữa, chúng tôi cho rằng nhờ 
việc làm của mình, con người cộng tác vào 
chính công cuộc Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã 
nâng cao giá trị của lao động khi Người làm 
việc tại Nazareth. Trong hoàn cảnh hiện tại, 
lao động sản xuất còn là chính sách để xây 
dựng một nền kinh tế tự túc, đảm bảo nền 
độc lập, tự do của dân tộc” [4, tr.327]. 
Thấm nhuần Kinh Thánh và các văn bản 
của Giáo hội Rôma cũng như Giáo hội 
Công giáo Việt Nam (mà Thư chung 1976 
đề cập ở phần trên là một ví dụ), người 
Công giáo Việt Nam coi lao động là bổn 
phận trần thế của mình. Với họ (những 
người Kitô hữu), “xao lãng bổn phận trần 
thế tức là xao lãng bổn phận đối với tha 
nhân và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, 
khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa”. 
Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước 
thống nhất, di hại của cuộc chiến tranh để lại 
là hết sức nặng nề. Đó là những năm tháng 
người Việt Nam, trong đó có tín đồ Công 
giáo, sống ở thời kỳ “bao cấp” với biết bao 
khó khăn. Trong những ngày ấy, người ta 
thấy Tổng Giám mục Giáo tỉnh Thành phố 
Hồ Chí Minh Phaolô Nguyễn Văn Bình có 
mặt ở một số công trường, ở vùng quê tham 
gia sản xuất. Các dòng tu kể cả dòng tu Nam 
và dòng tu Nữ đều “xuất quân”, tham gia 
“mặt trận sản xuất” với các hình thức khác 
nhau (như cày cấy, làm nương rẫy, chăn nuôi, 
làm nghề thủ công) để tự nuôi sống mình. 
Tín đồ Công giáo cả nước đều hăng say 
lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao 
động. Ngoài làm tốt công việc của một xã 
viên hợp tác xã nơi đồng áng, họ còn làm 
thêm kinh tế phụ, tăng gia sản xuất, chăn 
nuôi, làm nghề phụ, làm kinh tế “vườn, ao, 
chuồng” để cải thiện đời sống cá nhân và gia 
đình, tạo thêm của cải vật chất cho xã hội. 
Trong công cuộc đổi mới và hội nhập 
với thế giới hiện nay, ngày càng xuất hiện 
nhiều tấm gương người Công giáo sản xuất 
giỏi với những trang trại thu hút hàng chục 
lao động. Trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh 
công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ ngày 
càng xuất hiện nhiều doanh nhân là người 
Công giáo. Bằng tài năng, trí tuệ, tinh thần 
dám nghĩ, dám làm, họ vươn lên trở thành 
giám đốc công ty, chủ tịch hội đồng quản 
trị. Công ty, doanh nghiệp của họ thu hút từ 
hàng chục đến hàng trăm lao động, giúp 
cho người lao động có công ăn việc làm, ổn 
định đời sống. Đó còn là sự vươn lên với 
tinh thần “xóa đói, giảm nghèo” của hàng 
vạn hộ nông dân ở khắp các vùng miền của 
Tổ quốc. 
Để thoát nghèo, để làm giàu, đặc biệt để 
trở thành những chủ công ty, doanh nghiệp, 
Nguyễn Hồng Dương 
 43
người Công giáo Việt Nam luôn nâng cao 
học vấn của mình. Nếu như trước Công 
đồng Vatican II, người Công giáo, nhất là 
người Công giáo ở vùng nông thôn, có tâm 
lý không muốn học lên cao vì sợ lỗi đạo, thì 
nay đã và đang xuất hiện một đội ngũ đông 
đảo những trí thức trẻ người Công giáo. 
Trong đó nhiều người là cử nhân, kỹ sư, 
bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ các chuyên ngành 
khác nhau. 
Như vậy, ảnh hưởng của giá trị Công 
giáo tới tín đồ là toàn diện. Đường hướng 
mà Hội đồng Giám mục Việt Nam đặt ra từ 
Thư chung 1980 là “Sống Phúc âm giữa 
lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của 
đồng bào”. Sống Phúc âm đòi buộc tín đồ 
phải làm tròn bổn phận của mình với Thiên 
Chúa, với các Thánh thông công. Công giáo 
cho rằng, con người là chi thể của Thiên 
Chúa, bị ràng buộc bởi Thiên Chúa, do 
Thiên Chúa tạo dựng, được Thiên Chúa yêu 
thương và cứu độ. Người Công giáo coi 
“Thiên Chúa là tình yêu”, yêu mến Thiên 
Chúa hết lòng. Sống Phúc âm không chỉ là 
chu toàn việc sống đạo với việc chăm lễ lạy 
đi hết nhà thờ nọ đến nhà thờ kia để được 
ơn ích, mà còn là chứng đạo giữa đời, đem 
những điều tốt lành - (Phúc âm) vào cuộc 
sống. Với cuộc sống trần thế, tín đồ phải 
như men trong bột. Tín đồ Công giáo Việt 
Nam phải là người yêu mến quê hương, đất 
nước, gắn bó với dân tộc. Thư chung 1980, 
Đoạn 10 viết: “Chúng tôi muốn khẳng định 
rằng, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, đối với 
người Công giáo không những là một tình 
cảm tự nhiên phải có, mà còn là một đòi hỏi 
của Phúc âm”, “Lòng yêu nước của chúng 
ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý 
thức những vấn đề hiện tại của quê hương, 
phải hiểu biết đường lối, chính sách và pháp 
luật của Nhà nước, và tích cực cùng đồng 
bào toàn quốc góp phần bảo vệ và xây dựng 
một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và 
hạnh phúc”, “Trong công cuộc phục vụ quê 
hương, Phúc âm cho chúng ta ánh sáng và 
sức mạnh để khắc phục các khó khăn và các 
xu hướng cá nhân ích kỷ, nêu cao tinh thần 
phục vụ của bác ái phổ quát, hướng tới cảnh 
“Trời Mới Đất Mới”, trong đó tất cả đều hòa 
hợp hạnh phúc. Và khi phải phấn đấu, xóa bỏ 
những điều tiêu cực, chúng ta có ơn của Chúa 
Kitô phục sinh để mặc lấy con người mới 
công chính và thánh thiện”. 
Sống “tốt đời, đẹp đạo” nghĩa là làm tốt 
nghĩa vụ của tín đồ, đồng thời còn làm tốt 
nghĩa vụ công dân. Về điểm này, Giáo 
hoàng Benedict XVI nói với đoàn giám mục 
Việt Nam đi Adlimina tháng 6/2009 như 
sau: “Điều rất đáng mong ước là khi dạy cho 
con cái biết sống theo lương tâm ngay thẳng, 
trong sự liêm chính và sự thật, thì mỗi gia 
đình Công giáo trở nên trung tâm các giá trị 
và đức tính nhân bản, một trường dạy đức 
tin và đức mến đối với Thiên Chúa. Về phần 
họ, bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự 
liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị 
em giáo dân phải chứng tỏ rằng là người 
Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”. 
Kể từ sau khi đón nhận Huấn từ nói trên 
của Giáo hoàng Benedict XVI, Giáo hội 
Công giáo Việt Nam dấy lên phong trào 
“Là người Công giáo tốt cũng là người 
công dân tốt”. Người Công giáo Việt Nam 
ngày càng nhận thức rõ hơn và hành động 
có hiệu quả hơn trách nhiệm tín đồ và trách 
nhiệm công dân. 
3. Ảnh hưởng của giá trị Công giáo đối 
với quan niệm về hôn nhân và gia đình 
của người Công giáo Việt Nam 
Thứ nhất, người Công giáo Việt Nam sống 
thủy chung một vợ một chồng. Hôn nhân 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017 
 44
được người Công giáo Việt Nam xem là 
việc hệ trọng của cuộc đời, liên quan đến 
chính cuộc đời của họ từ khi kết hôn cho 
đến khi qua đời. Ngay từ nhỏ, qua các lớp 
giáo lý, các em đã được linh mục, gia đình, 
hoặc các giáo lý viên cung cấp những hiểu 
biết về giới tính, về ý nghĩa của hôn nhân. 
Khi trưởng thành, người Công giáo đều 
phải học giáo lý hôn nhân, hiểu cặn kẽ tính 
thánh thiêng (bí tích) hôn nhân, vai trò trách 
nhiệm của người vợ và người chồng. Sau 
kỳ học họ phải thông qua sát hạch. Chỉ khi 
nào đủ tiêu chuẩn, được cấp giấy công nhận 
thì việc học mới được hoàn tất. Đây là một 
trong những điều kiện bắt buộc của bất kỳ 
đôi nam nữ nào muốn kết hôn. 
Thứ hai, người Công giáo Việt Nam 
luôn xem hôn nhân là một việc đúng đắn. 
Việc tìm hiểu người bạn đời với họ phải 
thật kỹ càng. Khi đã kết hôn rồi họ không 
có quyền ly dị (trừ một vài trường hợp đặc 
biệt). Người Công giáo chỉ được phép hôn 
nhân một vợ, một chồng theo quan niệm: 
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người 
không được phân ly”. Đó là nguyên tắc bất 
khả phân ly, hay còn gọi là tính đơn nhất 
(một vợ, một chồng). “Khi đã kết hôn, 
người nam không thể là chồng của người 
nữ nào khác ngoài vợ mình, và người nữ 
cũng không thể là vợ của người nam nào 
ngoài chồng của mình” [11, tr.20]. Với 
người Công giáo, không có gia đình đa thê. 
Sống thủy chung, gia đình một vợ, một 
chồng phù hợp với Luật Hôn nhân và gia 
đình (2001) của Việt Nam. Điều 4 của Luật 
này quy định: “Cấm người đang có vợ, có 
chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ 
chồng với những người đang có chồng, có 
vợ” [10]. 
Thứ ba, người Công giáo Việt Nam coi 
hôn nhân là tự do, tự nguyện và mang giá 
trị thiêng. Một đám cưới của người Công 
giáo được xem là thành sự khi người nam 
và người nữ tự do luyến ái, tự nguyện đến 
với nhau. Trong Thánh lễ hôn phối ở nhà 
thờ Công giáo, linh mục, vị chủ hôn phối 
cũng là chủ tế thánh lễ, bao giờ cũng hỏi 
người nam và người nữ xem họ có thật sự 
tự do luyến ái, có thật sự tự nguyện đi đến 
hôn nhân hay không. Chỉ khi nào họ trả lời 
rằng có, thì linh mục mới thực hiện các 
bước tiếp theo. 
Trước khi được thánh hiến với một bí 
tích riêng và chịu phép Thánh thể, người 
nam (chú rể) trao nhẫn cho người nữ (cô 
dâu) và nói lời giao ước với người nữ, sau 
đó người nữ cũng nói lời giao ước với 
người nam. Họ cùng nhau ký vào sổ hôn 
phối, chính thức là đôi vợ chồng. Thông 
qua nghi lễ hôn nhân tổ chức trong nhà thờ 
dưới sự chủ trì của vị linh mục, hôn nhân 
Công giáo trở nên thiêng liêng. Giá trị 
thiêng đó có nguồn ủy từ Kinh Thánh, bởi 
chính Thiên Chúa đã tác hợp cho người 
nam và người nữ để họ trở thành vợ chồng. 
Giá trị thiêng được chuẩn nhận qua Thánh 
lễ tổ chức long trọng ở nhà thờ Công giáo 
dưới sự chủ trì của chủ tế, sự chứng giám 
của Thiên Chúa. Và khi đã nên vợ, nên 
chồng, họ “thánh hóa” lẫn nhau và cùng 
nhau tôn vinh Thiên Chúa. 
Thứ tư, người Công giáo Việt Nam 
không chấp nhận hôn nhân đồng tính. Theo 
quan niệm của Công giáo, hôn nhân là sự 
kết hợp giữa một người nam và một người 
nữ, là sự truyền sinh. Công giáo không chấp 
nhận hôn nhân đồng tính; coi đó là suy đồi, 
bệnh hoạn tâm lý, đặc biệt là chống lại sự 
trật tự của Thiên Chúa. Sách Lê Vi (Cựu 
Ước), phần nói về Tội liên quan đến gia 
đình, đã lên án gay gắt hôn nhân đồng tính: 
“Khi người đàn ông nào nằm với một người 
Nguyễn Hồng Dương 
 45
đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã 
làm điều ghê tởm”. 
Mặc dù phản ứng rất gay gắt và lên án 
mạnh mẽ hôn nhân đồng tính, nhưng Giáo 
hội Công giáo vẫn “tôn trọng những người 
đồng tính luyến ái một cách đầy đủ trong 
chính nhân phẩm của họ”. Vấn đề hôn nhân 
đồng tính đang là vấn đề “nóng” trên thế 
giới cũng như ở Việt Nam. Song hiện nay 
chưa có một tài liệu nào cho thấy có hôn 
nhân đồng tính trong cộng đồng người 
Công giáo. Chính vì vậy, cho đến nay gia 
đình của người Công giáo vẫn giữ được nếp 
của gia đình truyền thống. 
Thứ năm, người Công giáo Việt Nam 
vùng Đồng bằng Bắc Bộ cụ thể hóa giá trị 
hôn nhân trong hương ước làng. Công 
cuộc truyền giáo, phát triển Công giáo ở 
Việt Nam tạo ra làng Công giáo. Vùng 
đồng bằng Bắc Bộ là nơi làng Công giáo 
biểu hiện rõ nhất. Làng Công giáo mang 
những đặc trưng tiêu biểu của làng Việt, 
song ở đó chứa đựng những nét đặc thù 
của Công giáo. Khi đã ổn định vào cuối 
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều làng 
Công giáo ban hành hương ước (cũng có 
khi là khoán ước) để duy trì những phép 
tắc của làng về chính trị, kinh tế, xã hội, 
tôn giáo. Phần lớn các hương ước của làng 
Công giáo đều dành một số điều quy định 
về việc hôn nhân. Những quy định này đều 
dựa trên quy định của Kinh Thánh và một 
số văn bản của Giáo hội, rồi Việt hóa để 
tín đồ thực hiện, và từ đó trở thành một 
trong những nội dung nếp sống của người 
Công giáo Việt Nam. 
Nguyên tắc kết hôn một vợ một chồng 
mà các hương ước gọi là “phép nhất phu, 
nhất phụ” đưa đến cho người Công giáo 
Việt Nam một lối sống thủy chung vợ 
chồng, gìn giữ và vun đắp gia đạo. Những 
việc làm đi ngược với lối sống thủy chung, 
chà đạp nhân luân đều phải chịu những hình 
phạt nặng nề. Đến hiện tại từ truyền thống, 
ngày nay người Công giáo Việt Nam vẫn 
đang cố gắng duy trì lối sống thủy chung vợ 
chồng trong điều kiện xã hội có nhiều biến 
đổi. Những ghi nhận từ các cơ quan chức 
năng cho thấy về cơ bản người Công giáo 
Việt Nam vẫn duy trì hôn nhân bền vững, tỷ 
lệ ly dị ít hơn nhiều so với người ngoài 
Công giáo. 
Thủy chung vợ chồng tạo nền tảng vững 
chắc cho gia đình. Con cái không chịu cảnh 
phân ly; nhận được cả tình thương và trách 
nhiệm của bố, mẹ; có điều kiện học hành 
vươn tới. Đó là một trong những nhân tố 
quan trọng để xã hội phát triển. 
Thứ sáu, người Công giáo Việt Nam luôn 
sống theo mẫu gương gia đình Chúa Giêsu 
Kitô (được gọi là Thánh gia), đề cao giá trị 
hiếu, đễ. Trong gia đình, cá vị mỗi người 
được tôn trọng. Ở đó, con cái được nuôi 
nấng dạy dỗ nên người. Bố, mẹ là những 
tấm gương tiêu biểu, hy sinh hết mình vì 
con cái. Người Công giáo quan niệm sinh 
con trai, con gái không thật nặng nề. Họ 
luôn quan tâm đến việc dạy con cái biết chu 
toàn luật Thiên Chúa, biết giữ gìn và tránh 
xa tội lỗi, sa đọa. 
Con cái biết tôn kính cha mẹ (lòng hiếu 
thảo). Đó là việc thực hiện Điều răn  ...  
sĩ. Đây cũng là biểu hiện sự trân trọng của 
giáo dân đối với cha sở và tu sĩ. 
Công giáo ở Việt Nam dưới thời Lê, đặc 
biệt là thời Nguyễn với các vua Minh 
Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, phải chịu chính 
sách cấm đạo, đôi khi có những biện pháp 
hết sức gắt gao. Trong tình thế như vậy, 
nhiều người Công giáo kiên quyết kháng cự 
để bảo vệ đạo Chúa. Họ có thể là giám 
mục, linh mục, phó tế, giáo hữu; có thể là 
người Việt hay người nước ngoài. Trong số 
những người đó, Giáo hội dựa trên công 
trạng cũng như “phép lạ” của họ mà phong 
thánh tử đạo. Những vị thánh tử đạo đều 
được cộng đồng Công giáo tôn kính. Họ 
được đắp tượng hay vẽ tranh và đặt ở nơi 
trang trọng trong nhà thờ. Cũng có khi cộng 
đồng xứ đạo xây “đền” riêng để tôn kính. 
Xương thánh tử đạo được bảo quản trong 
một hòm riêng và được cất giữ cẩn trọng. 
Vào ngày tưởng niệm thánh tử đạo, một 
thánh lễ trang trọng được diễn ra nơi thánh 
đường. Xương thánh tử đạo được đưa ra đặt 
trên bàn thờ Chúa. Linh mục, người chủ tế 
buổi lễ hôn xương thánh, cộng đồng giáo 
dân cùng ngắm nguyện. Ngày lễ thánh tử 
đạo tuy không được ghi trong lịch lễ nhưng 
với giáo xứ đó là một ngày lễ trọng. Tín đồ 
còn đặt lời vãn kể về hạnh tích thánh một số 
thánh tử đạo, chẳng hạn như vãn “Thánh 
Nguyễn Hồng Dương 
 51
Phêrô Tùy tử đạo”. Tín đồ vừa hành tiến 
vừa ngân nga lời vãn. Do là ngày lễ trọng 
của giáo xứ, nên cuối thánh lễ, ở nhiều giáo 
xứ các gia đình tổ chức bữa ăn thịnh soạn. 
Ngày này con cháu của họ đi làm ăn, đi lấy 
chồng xa thường đổ về tham dự. Giáo dân 
của một số xứ đạo lân cận đến tham dự (gọi 
là thông công). Ngày này, linh mục ở một 
số xứ đạo được mời đến tham dự thánh lễ 
(được gọi là “các cha về đồng tế”). Trước 
thời điểm của công cuộc Đổi mới, tuy đời 
sống kinh tế còn khó khăn, nhưng gia đình 
nào cũng đều tổ chức bữa ăn thật thịnh 
soạn. Ngày này, nhà có nhiều khách được 
xem là nhà gặp may mắn và hãnh diện với 
hàng xóm. Vào dịp này, những thành viên 
trong gia đình hàn huyên, cởi mở đón 
khách, chan hòa với những người đồng đạo. 
Trong gia đình Chúa - xứ đạo, Thánh 
đường giáo xứ được giáo dân gọi là ngôi 
nhà chung. Mọi người chăm chút cho thánh 
đường của họ. Nhưng quan trọng hơn, ngôi 
nhà chung này là nơi người giáo dân gắn bó 
cả cuộc đời. Ở nơi đây, lúc sống họ được 
rửa tội, được xưng tội, rước lễ lần đầu, 
tham dự thánh lễ. Khi qua đời họ được đưa 
đến nhà thờ trước khi an táng. Thánh đường 
không chỉ là nơi họ cùng hiệp nguyện, tôn 
thờ Thiên Chúa, tôn kính các thánh thông 
công, mà còn là nơi họ gặp gỡ, chia sẻ 
những nỗi vui buồn việc đời. Ở một số giáo 
xứ, giáo dân đem gạo hoặc thóc đến nhà 
thờ, để cứu giúp những người có hoàn cảnh 
khó khăn. Đó là thể hiện tâm nguyện cứu 
giúp người khó khăn với tinh thần “lá lành 
đùm lá rách” hoặc hoặc “lá rách ít đùm lá 
rách nhiều”. Một số xứ đạo có cơ sở dùng 
để nuôi dạy trẻ mồ côi, trẻ tàn tật, thiểu 
năng trí tuệ, làm mái ấm cho người già 
không nơi nương tựa, đơn côi. Người giáo 
dân coi họ như những người thân yêu ruột 
thịt với quan niệm họ là những người đồng 
đạo, cùng là người con của Chúa. 
Một thánh lễ được xem là thánh lễ trọng 
chỉ có ở giáo xứ, đó là lễ Thánh quan thày 
xứ đạo. Với người Công giáo, thánh quan 
thày là vị thánh bảo trợ cho cộng đồng của 
giáo xứ. Thánh quan thày có thể là Chúa 
Giêsu hoặc Thánh nữ Maria, cũng có khi là 
một vị thánh Tông đồ, vị thánh tử đạo. 
Ngày kỷ niệm thánh quan thày không chỉ 
đơn thuần là một thánh lễ trong nhà thờ, mà 
còn là ngày hội của xứ đạo. Theo tài liệu 
điền dã mà chúng tôi thu thập được ở vùng 
Đồng bằng Bắc bộ, thánh quan thày của xứ 
đạo được giáo dân gọi là Thành hoàng làng. 
Người giáo dân cố tìm, cố mô phỏng và 
chịu ảnh hưởng giá trị truyền thống tâm 
linh của người Việt để rồi “Việt hóa” tôn 
giáo của mình trên nền tảng cơ tầng văn 
hóa Việt. Ngày này là ngày vui của cộng 
đồng. Người ta ăn mặc đẹp, dọn dẹp xóm 
ngõ, trang trí nhà thờ, tổ chức đi kiệu. Làng 
đạo tổ chức “ăn tươi”, buổi tối nhiều nơi có 
tổ chức văn nghệ, diễn tuồng thương khó, 
hay hoạt cảnh lấy tích về thánh quan thày 
của giáo xứ. Ngày nay, còn có những bài 
hát ca ngợi quê hương, xứ đạo, ca ngợi tình 
yêu đôi lứa. Đó có thể là các làn điệu dân ca 
hoặc có khi là những bài “ca mới”. 
Làng Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ 
trước năm 1945 có hương ước hay khoán 
ước với nội dung về quy tắc ứng xử việc 
đạo, việc đời trong xứ đạo. Hương ước làng 
Công giáo đều có những nội dung về tế tự, 
về lối sống cá nhân, gia đình, cộng đồng. 
Những nội dung này trước hết dựa trên giáo 
lý, giáo luật Công giáo (như quy định hôn 
nhân một vợ một chồng, quy định về phép 
tắc khi đến nhà thờ tham dự thánh lễ). 
Song cũng có nội dung dựa trên những giá 
trị văn hóa Việt truyền thống về tang lễ, về 
trách nhiệm con cái đối với bố mẹ, anh chị 
em đối với nhau. Những người vi phạm 
hương ước đều phải chịu các hình phạt về 
vật chất (phạt tiền hoặc đồ vật-trầu cau, gà, 
xôi, rượu), về tinh thần (truất ngôi thứ, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017 
 52
thậm chí là bị khai trừ ra khỏi cộng đồng). 
Hương ước một số làng còn quy định ngoài 
hình phạt vật chất, tinh thần, người vi phạm 
còn bị đánh đòn. 
Hiện tại nhiều làng Công giáo trong Nam 
ngoài Bắc, giáo xứ của người Kinh cũng như 
giáo xứ của người dân tộc thiểu số có bản 
quy ước với những nội dung xoay quanh về 
lối sống cá nhân, gia đình, cộng đồng, về vai 
trò trách nhiệm của người giáo dân đối với 
đạo và đời, hướng tới một cuộc sống “tốt 
đời, đẹp đạo”, làm tròn bổn phận của một tín 
đồ, đồng thời cũng làm tròn bổn phận của 
một công dân. 
Không chỉ sống với cộng đồng giáo xứ, 
người Công giáo Việt Nam còn sống với 
các cộng đồng nhỏ hơn. Đó là giáo họ (họ 
đạo), dưới họ đạo là cộng đồng với tên gọi 
khác nhau như dâu, giáp, tích, khu vực 
đạo. Cộng đồng cuối cùng là liên gia (gồm 
một số gia đình ở gần nhau). Với những 
cộng đồng chia nhỏ, người Công giáo càng 
có điều kiện gần gũi nhau hơn để chia sẻ 
và trong một chừng mực giúp đỡ nhau về 
mặt vật chất. 
Người Công giáo Việt Nam quan niệm 
“bán anh em xa, mua láng giềng gần”. 
Cộng đồng cư dân trong họ đạo nương tựa 
vào nhau, không chỉ để sống đạo, giữ đạo 
mà còn để sống đời. Họ giúp đỡ nhau khi 
xây dựng nhà cửa, khi ốm đau, khi có việc 
hiếu hỉ. Cộng đồng cũng thường trợ giúp 
nhau về vật chất cũng như tinh thần. Mỗi 
đứa trẻ ở họ giáo sinh ra, ngoài cha mẹ đẻ, 
còn có cha mẹ đỡ đầu. Khi một người nào 
đó qua đời, giáo dân trong họ giáo thường 
là những người có mặt đầu tiên để cầu 
nguyện cho họ được “về Nhà Cha” thanh 
thản. Khi xứ đạo có người qua đời, nghe 
tiếng chuông sầu (chuông tử) của nhà thờ, 
giáo dân dù đang làm gì cũng dừng lại đọc 
kinh, tỏ lòng thương tiếc một Chiên Chúa 
qua đời. 
Dịp giỗ chạp, tưởng niệm người qua đời 
của mỗi gia đình đều có những gia đình 
sống xung quanh đến hiệp nguyện. Thánh 
lễ dành cho người qua đời được tổ chức 
trang trọng có thể ở nhà tang chủ, có thể 
được tổ chức ở nhà thờ giáo xứ hay giáo 
họ (nếu đó là họ đạo lẻ, ở xa nhà thờ giáo 
xứ) với sự hiện diện của hầu hết tín đồ xứ, 
họ đạo. 
Ngoài việc sống cộng đồng với giáo họ 
(họ đạo), tín đồ còn sống với cộng đồng dâu 
đạo, hoặc giáp đạo, tích đạo, lân đạo, khu 
vực đạo. Các cộng đồng này có thánh quan 
thày với một cộng đồng gồm khoảng hơn 
chục gia đình sống gần nhau. Cuối cùng là 
cộng đồng liên gia với từ 3-5 gia đình ở gần 
nhau. Với liên gia, họ có thể tụ tập đọc kinh 
theo hình thức luân chuyển từ gia đình này 
sang gia đình khác. Liên gia có trách nhiệm 
trông nom nhà cửa hộ nhau, cùng mời gọi 
nhau đi tham dự thánh lễ. 
Do tính cộng đồng bền chặt được chia 
nhỏ tới cộng đồng vài ba gia đình, được gắn 
kết bởi niềm tin tôn giáo, được thờ kính 
một “tộc sư” hay cùng chung một “Thành 
hoàng”, nên người Công giáo sống trong 
các cộng đồng thường ít xảy ra va chạm, 
mâu thuẫn. Khi vụ việc xảy ra thường thì 
được giải quyết ổn thỏa qua hòa giải. 
Trong mỗi xứ, họ đạo, người Công giáo 
còn được sống với các cộng đồng hội đoàn. 
Bình quân mỗi xứ, họ đạo có từ 10 đến 20 
hội đoàn. Ở đó giáo dân được tập hợp theo 
lứa tuổi, theo giới, theo nghề nghiệp để một 
mặt phục vụ nghi lễ, lo giữ đạo, sống đạo, 
củng cố đức tin, mặt khác còn để hòa giải, 
giúp đỡ nhau việc đời. 
Nhà nguyện giáo họ hay nhà thờ giáo xứ 
không chỉ là nơi để giáo dân thực hành 
Thánh lễ, còn là nơi gặp gỡ, giao lưu của 
những người đồng đạo. Nhiều người Công 
giáo có thói quen tụ tập đọc kinh sớm, tối ở 
nhà thờ giáo xứ hay nhà nguyện họ đạo. 
Ngày chủ nhật, giáo dân “nghỉ phần xác” 
Nguyễn Hồng Dương 
 53
đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Sinh hoạt tôn 
giáo gắn kết họ với nhau trong ngày lễ 
(thánh lễ chủ nhật, lễ kỷ niệm Thánh quan 
thày xứ, họ đạo, trong dịp chầu lượt). 
Đây là dịp họ chia sẻ, trợ giúp nhau trong 
tinh thần đồng đạo. 
Trong quan hệ cộng đồng, người Công 
giáo Việt Nam được Mười điều răn định 
hướng. Mười điều răn quy lại thành hai 
điểm, đó là Kính Chúa, Yêu người. Yêu 
người gồm cả yêu đồng đạo và yêu người 
khác đạo. Với người Công giáo, ngoài việc 
thuộc và thực hành Kinh cải bảy mối (có 
bảy đức để tu thân), còn thuộc và thực hành 
kinh Mười bốn mối. 
Vậy là trong quan hệ với tha nhân, với 
cộng đồng người đồng đạo hay người khác 
đạo, người Công giáo không chỉ mở lòng 
giúp họ về phần xác, mà còn giúp họ về phần 
linh hồn. Bởi với người Công giáo, con người 
có cả phần xác lẫn phần hồn. Nếu chỉ giúp 
một trong hai phần là không thật đầy đủ. 
Người Công giáo có quan hệ với cộng 
đồng những người khác đạo về sản xuất, giao 
thương về tinh thần cũng như vật chất. Ở 
những làng mà người Công giáo chỉ là một 
bộ phận dân cư, họ phải cùng cộng đồng bảo 
vệ xóm làng, đắp đê, làm thủy lợi, làm đổi 
công cho nhau khi nông tang thời vụ. 
Ở không ít làng quê, ngay từ trước Công 
đồng Vatican II (1962-1965), người Công 
giáo chung tay góp sức cùng với người 
ngoài Công giáo xây dựng cơ sở thờ tự. 
Ngược lại, người không Công giáo cũng 
góp sức người, sức của cùng người Công 
giáo xây dựng thánh đường. Sau Công đồng 
Vatican II, đặc biệt từ khi có công cuộc Đổi 
mới, quan hệ lương - giáo trở nên gắn bó 
thân thiết hơn bao giờ hết. Người Công giáo 
làm từ thiện không chỉ cho cộng đồng tôn 
giáo mà còn cho cả những người nghèo khó 
ngoài cộng đồng. 
Có thể sống biệt lập trong một làng đạo 
hoặc sống đan xen nhưng người Công giáo 
luôn giữ mối giao hảo với người khác tôn 
giáo. Ngoài việc lao động, sản xuất, giao 
thương, họ còn chia ngọt, sẻ bùi với nhau. 
Người Công giáo ở nhiều làng quê thấm 
nhuần đạo lý uống nước nhớ nguồn, tỏ lòng 
biết ơn những người có công với cộng đồng 
cho dù họ không thuộc về tôn giáo của mình. 
Ví dụ, giáo dân phường Giang Hến, thành 
phố Huế, vào ngày tưởng niệm tổ nghề, 
cùng đến tham dự. Người Công giáo sinh 
sống ở vùng ven biển miền Trung tham dự lễ 
cầu ngư, cúng Cá Ông trước ngày ra biển 
của một vụ mùa đánh cá mới. Ở vùng đất 
mới của huyện Kim Sơn, Ninh Bình, các vị 
nguyên mộ, chiêu mộ, thứ mộ (những người 
mộ dân và cùng họ khai khẩn miền đất mới) 
có công lao khai khẩn vào thế kỷ XIX được 
dân làng lập miếu hoặc đền thờ cúng. Hằng 
năm vào dịp tưởng niệm họ, có sự hiện diện 
của người Công giáo (chẳng hạn ở xã Lưu 
Phương là một ví dụ). 
Hương ước ở nhiều làng Công giáo vùng 
đồng bằng Bắc Bộ có mục ghi, hàng năm 
theo ngày giỗ, cư dân của làng tham dự lễ 
“Truy tư tiền nhân” tưởng nhớ tiền nhân 
những người có công mở đất, lập làng, dù 
tiền nhân trước đó không phải là tín đồ 
Công giáo. 
Trên tinh thần canh tân, nhập thế của 
Công đồng Vatican II và định hướng của 
Giáo hội Công giáo thể hiện từ Thư chung 
1980 và một số Thư chung, Thư Mục vụ 
khác của Hội đồng Giám mục Việt Nam, 
người Công giáo ngày càng tích cực tham 
gia vào những nghi lễ, những hình thức 
tưởng niệm những người có công với cộng 
đồng khác đạo. Ở các làng quê - xứ đạo ở 
huyện Kim Sơn (Ninh Bình), người Công 
giáo tham dự nghi lễ tưởng niệm Doanh 
điền Nguyễn Công Trứ, người có công mở 
đất Kim Sơn. Người Công giáo ngày nay 
tham dự hội làng, tham dự lễ tổ nghề, tưởng 
nhớ những anh hùng tiên liệt có công với 
làng nước. Ngày giỗ Hùng Vương, trong 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017 
 54
dòng người trảy về Đất Tổ chiêm bái các 
Vua Hùng có người Công giáo, bởi họ đều 
là con em đất Việt, đều là đồng bào. 
5. Kết luận 
Giá trị Công giáo có ảnh hưởng quan trọng 
tới cá nhân, gia đình, cộng đồng người 
Công giáo Việt Nam. Cũng như các tôn 
giáo khác, Công giáo trước hết quan tâm 
đến con người, tín đồ, đưa ra những chuẩn 
mực phải có đối với tín đồ. Trong đó có 
những chuẩn mực “cứng” (đòi buộc tín đồ 
phải thực hiện, nếu không thực hiện là lỗi 
đạo, là ngăn trở cho cuộc sống đời sau) và 
những chuẩn mực “mềm”, (khuyên răn tín 
đồ nên thực hiện). Giá trị Công giáo khuyên 
tín đồ sống thánh thiện, sống có trách 
nhiệm với bản thân, biết làm điều lành, 
tránh điều ác, biết sống tiết chế, dục vọng, 
sống khiêm nhường, phẩm hạnh. Đó cũng 
là những giá trị thường hằng mà xã hội nào, 
thời đại nào cũng đòi hỏi ở mỗi con người. 
Người Công giáo Việt Nam gắn bó với 
nhau không chỉ trong đời sống đạo mà còn 
trong đời sống đời, giúp nhau khi khó khăn 
hoạn nạn, hàng xóm tối lửa, tắt đèn có nhau, 
khi vụ việc xích mích xảy ra thường giải 
quyết bằng hòa giải. Họ sống có trách nhiệm 
với cộng đồng khác tôn giáo, cùng cộng 
đồng khác tôn giáo lao động sản xuất xây 
dựng quê hương sống hòa hợp, đoàn kết. 
Lối sống đó của người Công giáo Việt Nam 
có được một phần hết sức quan trọng nhờ 
ảnh hưởng của giá trị Công giáo, ngoài ra 
còn là nhờ ảnh hưởng của các giá trị đạo 
đức truyền thống được tạo lập bởi hàng 
ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam. 
Chú thích 
2 Thư chung được Hội nghị Giám mục Giáo tỉnh 
Huế và Giáo tỉnh Sài Gòn ban hành ngày 16 tháng 7 
năm 1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh. 
3 Loại hình giáo xứ này gọi là giáo xứ tòng thổ, 
ngoài ra còn loại hình giáo xứ tòng nhân. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Báo Người Công giáo Việt Nam (1994), số 7. 
[2] Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên) (2010), Nếp 
sống đạo của người Công giáo Việt Nam, Nxb 
Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
[3] Nguyễn Hồng Dương (2014), Báo cáo đề tài 
khoa học cấp Bộ: Công giáo Việt Nam đối với 
phát triển bền vững đất nước, Hà Nội. 
[4] Nguyễn Hồng Giáo, OFM (2008), Một chặng 
đường Giáo hội Việt Nam, Học viện Phanxicô. 
[5] Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Giáo 
lý Đức tin (2010), Sách Giáo lý Hội thánh 
Công giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
[6] Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Bác ái 
xã hội (2007), Tóm lược học thuyết xã hội của 
Giáo hội Công giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
[7] Hội đồng Giám mục Việt Nam (2012), Công 
đồng Vatican II, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
[8] Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Văn 
hóa (2003), Hướng dẫn về lòng đạo đức bình 
dân và phụng vụ - Nguyên tắc và định hướng. 
[9] Kinh Thánh, Hà Nội, 2011. 
[10 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam (2013), Luật Bình đẳng giới, hôn 
nhân và gia đình, phòng chống bạo lực gia 
đình, Nxb Lao động, Hà Nội. 
[11] Tòa Giám mục Xuân Lộc (2010), Hôn nhân 
Công giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_gia_tri_cong_giao_doi_voi_nguoi_cong_giao_viet.pdf