Xu hướng phát triển kiểm toán và dịch vụ đảm bảo cho trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam

Sự gia tăng mức độ quan tâm về vấn đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong những năm gần đây (Maignan, 2002), cũng như việc mở rộng thêm các môi trường hoạt động cho dịch vụ đảm bảo về các trách nhiệm xã hội của công ty (Cohen, 2015) cho thấy một thị trường mở đối với lĩnh vực dịch vụ đảm bảo đối với CSR. Dựa trên các nghiên cứu đã có trước

đây, tác giả muốn nhấn mạnh đến cơ hội phát triển của lĩnh vực kiểm toán đối với CSR tại Việt Nam,

cũng như đưa ra một số kiến nghị cho việc mở rộng cơ hội phát triển dịch vụ này bên cạnh các hoạt động

kiểm toán báo cáo tài chính.

pdf 8 trang kimcuc 3380
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng phát triển kiểm toán và dịch vụ đảm bảo cho trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng phát triển kiểm toán và dịch vụ đảm bảo cho trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam

Xu hướng phát triển kiểm toán và dịch vụ đảm bảo cho trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN6 Số 112 - tháng 2/2017
XU HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KIEÅM TOAÙN
VAØ DÒCH VUÏ ÑAÛM BAÛO CHO TRAÙCH NHIEÄM
XAÕ HOÄI CUÛA DOANH NGHIEÄP TAÏI VIEÄT NAM
*Khoa Tài chính-Kế toán, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
ThS. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG*
ThS. TRầN THị THANH HUYềN*
Sự gia tăng mức độ quan tâm về vấn đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong những năm gần đây (Maignan, 2002), cũng như việc mở rộng thêm các môi trường hoạt động cho dịch vụ đảm bảo về các trách nhiệm xã hội của công ty (Cohen, 2015) cho thấy một thị trường mở đối với lĩnh vực dịch vụ đảm bảo đối với CSR. Dựa trên các nghiên cứu đã có trước 
đây, tác giả muốn nhấn mạnh đến cơ hội phát triển của lĩnh vực kiểm toán đối với CSR tại Việt Nam, 
cũng như đưa ra một số kiến nghị cho việc mở rộng cơ hội phát triển dịch vụ này bên cạnh các hoạt động 
kiểm toán báo cáo tài chính.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; dịch vụ đảm bảo
Development trend of auditing and social responsibility assurance services in Vietnam
The recent growing interest in the Coporate Social Responsibility (CSR) (Maignan, 2002), and the 
expansion of operating environment for the assurance services of CSR (Cohen, 2015) shows an open market 
for the assurance services of CSR. Based on prior studies, the author focuses on the development opportunity 
of auditing for CSR in Vietnam, and makes recommendations to the expansion of the opportunity of 
development of these services besides financical auditing.
Keywords: Coporate Social Responsibility; assurance services
1. Đặt vấn đề
Với sức ép và sự tuyên truyền của truyền thông 
mà vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp (DN) cũng như việc công bố báo cáo trách 
nhiệm xã hội đang ngày càng được sự quan tâm 
của các bên liên quan cũng như của xã hội. Việc gia 
tăng áp lực về trách nhiệm xã hội đã được xếp vào 
hàng thứ hai trong một cuộc khảo sát quan điểm 
của Financial Times / Price Waterhouse Coopers 
với 750 các nhà lãnh đạo, Giám đốc điều hành về 
những thách thức kinh doanh quan trọng nhất đối 
với các công ty (Hopkins, 2000). Còn theo tài liệu 
của KPMG (2013), tỷ lệ của các công ty hàng đầu 
tham gia vào báo cáo CSR tiếp tục phát triển, với 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 7Số 112 - tháng 2/2017
gần ba phần tư (71%) trong số 100 công ty hàng 
đầu từ 41 quốc gia (N100) được khảo sát vào năm 
2013 cung cấp các báo cáo như vậy. Con số này tăng 
từ 64% các công ty N100 trong năm 2011 (KPMG 
2013 11). Để cải thiện sự liên quan và độ tin cậy của 
thông tin CSR, đã có một sự phụ thuộc ngày càng 
tăng về bảo đảm độc lập (Simnett, Vanstraelen và 
Chua 2009b; KPMG 2013). Tuy nhiên, cho đến nay, 
chỉ có một số lượng ít ỏi tương đối của các nghiên 
cứu để công bố về dịch vụ bảo đảm liên quan đến 
báo cáo CSR. So với các kiểm toán báo cáo tài 
chính, dịch vụ bảo đảm thông tin CSR có những 
đặc điểm độc đáo và cụ thể (được thảo luận dưới 
đây), góp phần làm phong phú lĩnh vực nghiên 
cứu. Không giống như kiểm toán báo cáo tài chính, 
các nghiệp vụ kế toán không có độc quyền về dịch 
vụ bảo đảm liên quan đến CSR để các công ty kiểm 
toán phải cạnh tranh với các loại khác của các nhà 
cung cấp dịch vụ. Theo KPMG lưu ý, trong số 250 
công ty toàn cầu của thế giới (G250) thực hiện báo 
cáo CSR, 59% có đảm bảo thông tin này ra bên 
ngoài, và 2/3 trong số này tham gia vào một công 
ty kế toán lớn để thực hiện đảm bảo này (KPMG, 
2013). Tại Việt Nam, trong cuộc hội thảo về Tương 
lai ngành Kiểm toán được VACPA - ACCA đồng tổ 
chức ngày 26/9/2016, ông Trần Khánh Lâm – Tổng 
Thư ký VACPA - cũng nhấn mạnh xu hướng phát 
triển mới bên cạnh các hoạt động kiểm toán báo 
cáo tài chính thông thường là Dịch vụ đảm bảo cho 
CSR tại Việt Nam. Điều này cho thấy một cơ hội 
phát triển mới đối với Dịch vụ kiểm toán đảm bảo 
CSR cần được nhìn nhận và thực hiện.
2. khái niệm CSR và Dịch vụ đảm bảo cho CSR 
Khái niệm CSR 
Trong giai đoạn đầu những năm 1950, CSR đã 
được định nghĩa là “nghĩa vụ của doanh nghiệp để 
theo đuổi các chính sách đó, để thực hiện những 
quyết định, hoặc theo các đường lối hành động với 
mong muốn về các mục tiêu và các giá trị của xã 
hội chúng ta” (Bowen 1953, 6). Sau đó, vào năm 
1971, Johnson đã kiểm tra về đạo đức kinh doanh 
của CSR và đã đưa ra một quan niệm rằng việc cân 
bằng đa dạng về lợi ích trong CSR cũng đem lại 
hiệu quả như mong đợi cho cả cổ đông và xã hội. 
Do đó, CSR sẽ đem đến nhiều giá trị và lợi nhuận 
hơn cho công ty. Điều này mang lại lợi ích không 
chỉ cho các Doanh nghiệp đó mà còn cho cả xã hội. 
Các lĩnh vực CSR đã được khám phá, nghiên cứu 
và phát triển liên tục trong những năm qua. Cho 
đến năm 1975, Backman (1975) ghi nhận tác động 
của các vấn đề môi trường, vốn đã được tách ra từ 
các hoạt động CSR chính thức.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN8 Số 112 - tháng 2/2017
Hình 1. Kim tự tháp Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Carroll 1991, 42)
Nội dung báo cáo CSR
Theo các nghiên cứu trên thế giới về Báo cáo 
CSR cho tới nay, ví dụ, Cramer (2005) cung cấp 
thông tin về các tiêu chuẩn CSR và hướng dẫn. 
Salzmann, Ionescu-Somers, và Steger (2004) đánh 
giá nghiên cứu hiện có và các phương pháp trong 
báo cáo trách nhiệm. Adams (2004) đánh giá báo 
cáo trách nhiệm của công ty phản ánh hiệu quả 
công ty cũng như tiềm năng của các tiêu chuẩn và 
hướng dẫn gần đây về khoảng cách giữa báo cáo 
và thực hiện. Kuasirikun và Sherer (2004) kiểm tra 
báo cáo xã hội ít được biết đến ở Thái Lan. Jones 
(2003) xem xét khả năng áp dụng hạch toán môi 
trường, trường hợp nghiên cứu của một công ty 
Anh. O’Dwyer (2003) xem xét các khái niệm quản 
lý của CSR tại Ireland. Cambell et al. (2003) kiểm 
tra báo cáo về môi trường và xã hội trong năm công 
ty được lựa chọn. Igalens và Gond (2005) cố gắng 
để đo lường hiệu quả xã hội của công ty ở Pháp 
sử dụng dữ liệu cơ quan đánh giá xã hội Pháp. 
Waddock (2004) có ý định tạo ra trách nhiệm của 
công ty sử dụng chín nguyên tắc Compact của toàn 
cầu và công việc của minh bạch quốc tế. Miles và 
Munilla (2004) xem xét các tác động của SA8000 
vào các hoạt động tiếp thị của một công ty. Các 
quan điểm về CSR đã được thay đổi theo thời gian 
dưới sự ảnh hưởng của các Chính phủ và áp lực của 
công chúng, về một cái nhìn hiện đại đối với CSR 
mặc dù vẫn còn định hướng theo kinh tế, nhưng 
đã được củng cố bởi các yêu cầu đòi hỏi phải xem 
xét nguyên nhân xã hội và hậu quả xã hội của hoạt 
động kinh tế của một tổ chức. Nhận thức chính về 
CSR là nó có thể là một công cụ tuyệt vời để tăng 
cường tính hợp pháp của công ty giữa các bên liên 
quan bằng cách cải thiện thông tin dữ liệu đồng 
thời với tính minh bạch và sự phát triển tích cực đối 
với hình ảnh công ty. Doanh nghiệp và khách hàng 
có thể có được sản phẩm và dịch vụ tốt hơn, nhân 
viên có thể làm việc trong điều kiện làm việc tốt 
hơn dẫn đến khả năng cạnh tranh được cải thiện, 
các nhà cung cấp có thể được quản lý tốt hơn, các 
cổ đông có thể được truy cập nhiều hơn đến thông 
tin về xã hội và môi trường, người dân địa phương 
có thể sống trong môi trường tốt hơn.
Hiện nay, phần lớn các khuôn khổ báo cáo CSR 
đang sử dụng theo khuôn khổ do GRI ban hành, 
được phát triển chi tiết thành Hướng dẫn Báo cáo 
Phát triển Bền vững (CSR) và hình thành nền tảng 
của Khung Báo cáo phát triển bền vững. Những 
hướng dẫn này tiếp tục được cải tiến và lần gần đây 
Hiện nay, các nghiên cứu về CSR đang dựa 
trên quan điểm của Carroll (1979). Sau quá trình 
nghiên cứu và phát triển, Carroll (1991) cho thấy 
rằng những mong muốn xã hội nhất định đối với 
các tổ chức kinh doanh, bao gồm cả trách nhiệm 
kinh tế, pháp lý, đạo đức và các trách nhiệm khác, 
có thể được tích hợp và đạt được bằng cách thực 
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hoặc 
CSR. Và được thể hiện qua mô hình sau:
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 9Số 112 - tháng 2/2017
nhất, G4, đã được phát hành vào đầu năm 2013. 
Trong khi tuyên bố nhiệm vụ của GRI không giải 
quyết cụ thể một nhu cầu để xác minh hay đảm bảo 
độc lập của báo cáo CSR. GRI khuyến khích phát 
triển và áp dụng các nguyên tắc để xác minh, vì 
điều này có thể nâng cao chất lượng, tính hữu dụng 
và độ tin cậy của thông tin được sử dụng trong các 
tổ chức báo cáo, các hệ thống quản lý cơ bản và quy 
trình phát triển. GRI cũng công nhận rằng việc xác 
minh Báo cáo CSR là ở giai đoạn đầu trong quá 
trình phát triển (GRI 2013). Các Hướng dẫn của 
G4 GRI chuẩn hóa việc công bố thông tin thành ba 
loại - Kinh tế, môi trường và xã hội. Thể loại xã hội 
được chia thành bốn loại phụ: thực hành lao động 
và việc làm bền vững, nhân quyền, xã hội và trách 
nhiệm sản phẩm.
Dịch vụ đảm bảo cho CSR
 Theo khảo sát của KPMG (2013) “Tỷ lệ các Báo 
cáo trách nhiệm xã hội trong tất cả các khu vực đã 
cho thấy thực tế hiện nay đang là thực hiện kinh 
doanh theo tiêu chuẩn trên toàn thế giới”. Báo cáo 
cũng nêu rằng số lượng các công ty lớn tự nguyện 
tìm kiếm sự đảm bảo ngày càng tăng, với 59 phần 
trăm của G250 và 38 phần trăm của N100 hiện 
đang sử dụng dịch vụ đảm bảo các thuyết minh 
trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhìn chung, tất cả 
những yếu tố này và các vấn đề có thể tạo thành 
một bản báo cáo CSR toàn diện, hoặc thực hiện 
một báo cáo độc lập (chẳng hạn như một báo cáo 
phát thải khí nhà kính). Đối với báo cáo đầy đủ, 
một phần của các thách thức đối với các nhà cung 
cấp đảm bảo là đảm bảo rằng tất cả các vấn đề quan 
trọng phải được nhấn mạnh bên cạnh nhiều hoạt 
động được báo cáo một cách thích hợp và chúng 
phải được làm theo các tiêu chí báo cáo (O’Dwyer 
2011). Dịch vụ đảm bảo có thể cung cấp trên báo 
cáo toàn diện, hoặc một chủ đề cụ thể. Ví dụ như 
việc công bố công khai báo cáo của một tổ chức 
phát thải khí nhà kính của DN, với các tiêu chuẩn 
đảm bảo chính là ISAE 3410 (2012) “đảm bảo về 
Tuyên bố về khí thải nhà kính” của IAASB, hoặc 
các tiêu chuẩn mang tính quốc gia. 
3. Mục đích và các phương thức tiến hành 
cung cấp dịch vụ đảm bảo CSR
Mục đích cung cấp dịch vụ đảm bảo CSR
Mục đích chính của việc tiến hành cung cấp 
dịch vụ đảm bảo CSR là để khuyến khích các tổ 
chức nhằm cải thiện hiệu suất và hỗ trợ thiết lập 
hệ thống các quy định CSR trong văn hóa công ty. 
Bên cạnh đó, Dịch vụ đảm bảo CSR hướng tới 
đánh giá hệ thống quản lý của tổ chức và quan hệ 
của nó với tất cả các bên liên quan, được phân loại 
vào một tập hợp các nhóm. Ngoài ra, Dịch vụ đảm 
bảo CSR còn tiến hành thực hiện cho từng chỉ số 
được phân loại là cần thiết, bắt buộc, hoặc mong 
muốn. Cuối cùng, với bằng chứng, tài liệu đã đạt 
được trong các cuộc phỏng vấn, sẽ xác định một 
loạt các chỉ số đặc trưng cho hoạt động của tổ chức 
liên quan đến từng nhóm tham gia.
Phương pháp đo lường CSR
Theo Sethi (1975), khung cấu trúc để tạo điều 
kiện phân tích các hoạt động xã hội của doanh 
nghiệp nên có ít nhất 2 đặc tính. Đầu tiên, danh 
mục phân loại các hoạt động của công ty phải được 
ổn định theo thời gian, để có thể so sánh với lịch 
sử. Thứ hai, các định nghĩa của các loại khác nhau 
nên được áp dụng chung giữa các doanh nghiệp, 
các ngành công nghiệp, hoặc thậm chí các hệ thống 
xã hội, để có thể phân tích so sánh. Việc xem xét các 
lý thuyết chỉ ra rằng thủ tục kiểm toán hoạt động 
bằng cách đánh giá hiệu suất của một tổ chức ở các 
cấp độ tăng dần của năng lực quản lý không phải 
là hiếm. Kok và các cộng sự (2001) đã phát triển 
kiểm toán trách nhiệm xã hội doanh nghiệp theo 
phương pháp cơ bản của các mô hình giải thưởng 
chất lượng và xuất sắc. Các công cụ kiểm toán sử 
dụng một sự kết hợp của mười bốn khía cạnh của 
trách nhiệm xã hội, và bốn mức độ trách nhiệm 
chính sách xã hội đã được phát triển trong một tổ 
chức, phân tích những tình trạng CSR hiện tại và 
tương lai của nó. Khó khăn lớn nhất của việc phát 
triển một hệ thống kiểm tra mới chính là nguồn 
gốc của các chỉ số thích hợp. Hai trở ngại lớn từ các 
tài liệu trong lĩnh vực này: sự thiên vị trong việc lựa 
chọn loại chỉ số mà dựa vào đó hiệu suất của một tổ 
chức có thể được đo, và những khó khăn trong việc 
xác định các chỉ số áp dụng đối với tất cả các lĩnh 
vực. Việc kiểm tra các thủ tục hiện hành, và các 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN10 Số 112 - tháng 2/2017
Hình 2. Trình tự thực hiện Kiểm toán và Dịch vụ đảm bảo CSR
Bảng 1. CSR- ma trận các bên liên quan
Môi trường Vai trò Tiến trình Nhân tố thành công 
CSR
kết quả
Thị trường cạnh 
tranh
Khu vực 
tư Thực hiện CSR
- Quản lý tốt các bên 
liên quan
- Ưu tiên cao hơn CSR 
ở cấp hội đồng quản trị
- Tích hợp CSR vào 
chính sách của công ty
- Lãnh đạo DN tốt
- Kinh doanh hiệu 
quả hơn
- Giá cổ phiếu cao 
hơn
- Kinh doanh thành 
công trong dài hạn
CSR được nhận 
thức như là một 
đóng góp kinh 
doanh để phát 
triển bền vững
Các tổ 
chức phi 
chính phủ 
(NGOs)
Đặt CSR vào thực 
tế trong đối thoại 
và tham vấn của 
các bên liên quan 
Tham gia tích cực 
và phối hợp tốt giữa 
chính phủ, DN, các tổ 
chức NGOs và xã hội
Thay đổi có ý nghĩa 
trong hành vi công ty
Sáng kiến tự 
nguyện CSR
Chính phủ
Quy tắc tiếp xúc 
gợi mở
Giúp các tổ chức giải 
quyết vấn đề bền vững
Tác động trực tiếp 
đến cuộc sống 
hàng ngày của họ
Người 
dân địa 
phương
Mối quan hệ 
minh bạch của 
các bên liên quan 
được tạo bởi CSR
ít tác động tiêu cực 
đến người dân địa 
phương và sự tham 
gia tích cực hơn 
của cộng đồng
Trong đó các phương thức kiểm toán CSR được mô tả theo mô hình CSR - ma trận các bên liên quan 
như sau:
cuộc phỏng vấn với các nhân viên trong tổ chức đã 
tạo ra một số các hệ thống đã nói ở trên, là tiền chất 
cần thiết để phát triển các phương pháp đánh giá 
và chỉ số mà trên đó các hệ thống kiểm toán CSR 
được thành lập. 
Phương thức dịch vụ đảm bảo CSR
Risako Morimoto và các cộng sự ( 2005) đã đưa 
ra trình tự thực hiện kiểm toán và dịch vụ đảm bảo 
CSR như sau:
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 11Số 112 - tháng 2/2017
4. Xu hướng thế giới và cơ hội phát triển tại 
Việt Nam
Dựa trên các nghiên cứu của Risako Morimoto 
và các cộng sự (2005) và nghiên cứu của Cohen 
(2015) tác giả tổng hợp các vấn đề nghiên cứu và 
xu hướng phát triển của Dịch vụ đảm bảo và kiểm 
toán CSR qua bảng 2 như sau:
Bảng 2: Nghiên cứu các cách tiếp cận trong mối quan hệ đến Dịch vụ đảm bảo CSR
Mức độ phân tích Lý thuyết chính Câu hỏi nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu
Mức độ thị 
trường
- Lý thuyết nền
- Lý thuyết cổ đông
- Lý thuyết hợp pháp
Các đặc điểm thị trường tác động tới:
-Quyết định dùng dịch vụ đảm bảo
- Lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo
- Sự lựa chọn chất lượng
- Tác động của cơ chế quản trị DN
Lưu trữ
Cấp độ tổ chức 
của các phân tích
- Lý thuyết thể chế
- Lý thuyết phụ thuộc 
tài nguyên
- Lý thuyết liên quan
Đặc điểm và quy trình trong một tổ chức 
có liên quan đến quyết định sản xuất và 
đảm bảo thông tin CSR của DN
- Dân tộc học
- Khảo sát
- Nghiên cứu 
trường hợp
- Phỏng vấn
Mức độ ra quyết 
định của cá nhân 
hay nhóm 
-Lý thuyết quyết định 
hành vi
Cách các nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo 
và sử dụng bằng chứng đảm bảo.
Các nhà sử dụng dịch vụ đảm bảo diễn 
giải và phản ứng lại với nhà cung cấp 
dịch vụ đảm bảo như thế nào.
- Kiểm tra 
- Khảo sát
- Phỏng vấn
Xã hội mà CSR 
được hiểu tốt hơn 
so với quá khứ
Xã hội Tính minh bạch được tạo bởi CSR Xã hội tốt hơn
Giá trị danh tiếng 
không đáng kể, và 
không có chi phí & 
thời gian cho CSR
Nhà cung 
cấp
Thông qua chuỗi 
cung ứng: áp lực 
đối với tập đoàn 
lớn
Thúc đẩy sự tham 
gia của các DN vừa 
và nhỏ
Môi trường cạnh 
tranh
Nhân viên 
và nhân 
viên hợp 
đồng
Mối quan hệ 
minh bạch của 
các bên liên quan 
tạo bởi CSR
Sáng tạo, thúc đẩy, 
tham gia, đào tạo 
và cam kết lực 
lượng lao động
Các pháp nhân 
được minh bạch 
hơn, lựa chọn 
được người đại 
diện hơn
Các thân 
chủ và 
khách 
hàng
áp lực đối với tập 
đoàn lớn
Chất lượng hàng 
hóa và dịch vụ tốt 
hơn
Giá cổ phiếu phản 
ánh được nhiều 
yếu tố
Cổ đông
Thực hiện các 
hoạt động đầu tư 
trách nhiệm xã 
hội
Tạo thị trường cho 
CSR. 
Giá cổ phiếu lớn 
hơn
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN12 Số 112 - tháng 2/2017
Ở từng giai đoạn khác nhau có thể áp dụng các 
lý thuyết liên quan và phương pháp nghiên cứu 
khác nhau khi nghiên cứu dịch vụ đảm bảo CSR. 
Dựa trên ba cấp độ chính của phân tích:
- Mức độ thị trường : thị trường địa phương, thị 
trường quốc gia và thị trường quốc tế.
- Cấp độ tổ chức: bao gồm cả các tác động 
của các đơn vị khác như quản lý và các bên liên 
quan quan tâm đến việc bảo đảm thông tin CSR 
của tổ chức.
- Các cá nhân hoặc nhóm các nhà cung cấp dịch 
vụ đảm bảo, các phóng viên hoặc người ra quyết 
định liên kết với một cam kết đảm bảo CSR. 
Ở cấp độ thị trường, sử dụng kỹ thuật nghiên 
cứu chủ yếu là lưu trữ, các nghiên cứu thực hiện 
cho đến nay chủ yếu liên quan đến sự hiểu biết thị 
trường (ví dụ Simnett et al 2009b;. Cho, Guidry, 
Hageman và Patten 2012; Casey và Grenier 2015). 
Nghiên cứu hướng đến việc xem xét liệu các tổ 
chức có được một lợi ích từ việc báo cáo CSR của 
DN được đảm bảo (Dhaliwal et al. 2011). Ảnh 
hưởng của sự đảm bảo về Báo cáo trách nhiệm xã 
hội đối với những thay đổi trong giá cổ phiếu, các 
nhà đầu tư vào cổ phiếu, hoặc ảnh hưởng đến độ 
chính xác (phân tán) của các dự báo của giới phân 
tích ( Dhaliwal et al. 2012). 
Ở cấp độ tổ chức, cơ hội nghiên cứu các cơ hội 
tồn tại xung quanh việc kiểm tra cách thức các tổ 
chức thực hiện quyết định 
sản xuất và đảm bảo thông 
tin CSR của họ, trong đó 
các đặc điểm khác của tổ 
chức cũng góp phần vào 
những quyết định này. 
Hơn nữa, Ballou, Casey, 
Grenier, và Heitger (2012) 
nhận thấy rằng một số tổ 
chức có sự đảm bảo về 
các hoạt động CSR không 
công khai tiết lộ thông tin 
về quyết định sản xuất. 
Một nghiên cứu trong 
tương lai có thể nhìn vào lý do tại sao các công ty 
quyết định không công bố (hoặc công bố) sau khi 
họ đã nhận được sự đảm bảo.
Tại các cấp ra quyết định cá nhân hay theo 
nhóm, có rất nhiều cơ hội nghiên cứu chẳng hạn 
làm thế nào để thực hiện dịch vụ đảm bảo CSR, 
hay người sử dụng dịch vụ dự định phản ứng như 
thế nào với người thực hiện dịch vụ đảm bảo và 
cách mà dịch vụ đảm bảo CSR được báo cáo. Theo 
Cohen (2015) nghiên cứu các cấp ra quyết định sẽ 
đem lại cho nhóm những kỹ năng khác nhau, đối 
với các chủ đề dịch vụ khác nhau (môi trường, xã 
hội, thực hành lao động, quyền con người và một 
số vấn đề khác), so với các cuộc kiểm toán báo cáo 
tài chính thông thường và thực hiện các đo lường 
theo chuẩn mực kế toán được chấp nhận chung. 
Cũng có thể là nghiên cứu để các chuyên gia tham 
gia vào một cam kết đảm bảo CSR, hay kiểm tra 
việc thực hiện các cam kết.
Tại Việt Nam, với sự phát triển và hội nhập của 
các DN tham gia vào thị trường thế giới đã, đang 
và sẽ ngày càng bắt kịp với các xu hướng phát triển 
trong tất cả các ngành nghề. Ngày càng nhiều các 
DN thực hiện và công bố trách nhiệm xã hội đối 
với các bên liên quan. Chính vì vậy, đây cũng là cơ 
hội cho ngành kiểm toán phát triển và hướng tới 
cung cấp các dịch vụ như: Lập Báo cáo CSR, lựa 
chọn và xây dựng các quy tắc, quy trình, hệ thống 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 13Số 112 - tháng 2/2017
các nguyên tắc trách nhiệm xã hội phù hợp với 
đặc điểm kinh doanh, loại hình sản phẩm của DN, 
cung cấp các dịch vụ đảm bảo và kiểm toán CSR...
5. kết luận
Nghiên cứu này hướng đến sự phát triển cho 
loại hình dịch vụ đảm bảo mới trong kiểm toán 
tại Việt Nam. Bài viết đưa ra vấn đề kiểm toán và 
dịch vụ đảm bảo CSR và tiếp cận các lý thuyết nền 
tảng để định hướng cho loại hình dịch vụ đảm bảo 
mới trong tương lai. Tuy nhiên, thực tế đòi hỏi kỹ 
thuật để tiến hành một cuộc kiểm toán và dịch vụ 
đảm bảo CSR khá phức tạp vì chính sự phức tạp 
của đối tượng, và trong thực tế có thể yêu cầu đào 
tạo cụ thể cho các kiểm toán viên về CSR. Bên cạnh 
đó, việc đánh giá một số chỉ số sẽ phụ thuộc vào 
phán đoán và kinh nghiệm của kiểm toán viên, và 
các phương thức dự thảo kiểm toán cần phải được 
chọn lọc để kiểm tra và hoàn thiện. Tuy nhiên, đây 
cũng là một hướng đi mới cần phải được xem xét 
và phát triển để môi trường hoạt động của dịch vụ 
đảm bảo và kiểm toán tại Việt Nam bắt kịp và hội 
nhập với thị trường dịch vụ quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cohen, J. R., & Simnett, R. (2015). CSR 
and assurance services: A research agenda. 
Auditing: A Journal of Practice & Theory, 
34(1), 59-74.
2. Hopkins, M. (2005). Measurement of 
corporate social responsibility. International 
Journal of Management and Decision 
Making, 6(3-4), 213-231. 1.
3. Igalens, J., & Gond, J. P. (2005). Measuring 
corporate social performance in France: A 
critical and empirical analysis of ARESE 
data. Journal of business ethics, 56(2), 
131-148.
4. International Auditing and Assurance 
Standards Board. (2012). Assurance on a 
Greenhouse Gas Statement. ISAE 3410. 
New York, NY: IFAC.
5. International Auditing and Assurance 
Standards Board. (2013). Assurance 
Engagements Other than Audits or Reviews 
of Historical Financial Information. ISAE 
3000 Revised. New York, NY: IFAC.
6. International Federation of Accountants 
(IFAC). (2009). Using the Work of an Auditor’s 
Expert. International Standard on Auditing 
(ISA) 620. Available at: 
clarity- center/the-clarified-standards.
7. International Federation of Accountants (IFAC) 
(2013). Handbook of the Code of Ethics for 
Professional Accountants. Available at: http://
www.ifac.org/publications-resources/2013- 
handbook-code-ethics-professional-account-
ants (accessed June 2014).
8. International Integrated Reporting Committee 
(IIRC). (2013). IR Framework. Available 
at: 
framework/ (accessed June 2014).
9. International Standards Organization (ISO) 
2014. ISO 14000 Essentials. Available at: 
(accessed June 2014).
10. Morimoto, R., Ash, J., & Hope, C. (2005). 
Corporate social responsibility audit: From 
theory to practice. Journal of Business Ethics, 
62(4), 315-325.
11. Salzmann, O., Ionescu-Somers, A., & Steger, 
U. (2005). The business case for corporate 
sustainability:: literature review and research 
options. European Management Journal, 
23(1), 27-36.
12. Seale, C. (1999) , The Quality of Qualitative 
Research (Sage Publications, London).
13. Sethi, S. P. (1975). Dimensions of corporate 
social performance: An analytical 
framework. California management review, 
17(3), 58-64.
14. Valor, C. (2005). Corporate social 
responsibility and corporate citizenship: 
Towards corporate accountability. Business 
and society review, 110(2), 191-212.
15. Waddock, S. (2004). Creating corporate 
accountability: Foundational principles to 
make corporate citizenship real. Journal of 
Business Ethics, 50(4), 313-327.

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_phat_trien_kiem_toan_va_dich_vu_dam_bao_cho_trach_n.pdf