Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
Các câu chuyện vốn có một sức hấp dẫn kì lạ với trẻ em ở mọi nơi trên thế giới, không phân
biệt màu da, tôn giáo hay văn hoá. Kể chuyện cho trẻ là một hoạt động rất quen thuộc và xuất hiện
ở hầu khắp tất cả các quốc gia, các nền văn hoá. Để phát triển toàn diện các kĩ năng ngôn ngữ của
trẻ, các nhà giáo dục luôn tìm tòi và đổi mới phương pháp hướng dẫn. Xuất phát từ lí do đó, chúng
tôi xin giới thiệu về kĩ thuật kể chuyện tương tác (Interactive storytelling technique) - một kĩ thuật
kể chuyện hiện đại đang được sử dụng ở trong nhiều trường mầm non trên thế giới, nhưng ở Việt
Nam thì kĩ thuật này hầu như chưa được nhắc đến, nhằm góp thêm một cái nhìn mới về cách thức
cho trẻ mầm non làm quen với tác phẩm văn học.
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0020 Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 1, pp. 174-182 This paper is available online at ỨNG DỤNG KĨ THUẬT KỂ CHUYỆN TƯƠNG TÁC TRONG HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẦM NON Phạm Minh Hoa Khoa Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt. Kĩ thuật kể chuyện tương tác được sử dụng để giúp trẻ dự đoán và làm quen với câu chuyện trước khi câu chuyện diễn ra; được sắm vai vào một nhân vật trong truyện, cùng tương tác với giáo viên và các bạn để tạo ra một câu chuyện mới. Kĩ thuật này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khả năng tiền đọc viết cũng như năng lực tư duy, trí tưởng tượng và sự tương tác xã hội ở trẻ mầm non. Từ khóa: Kĩ thuật kể chuyện tương tác, phát triển ngôn ngữ, giáo dục mầm non. 1. Mở đầu Các câu chuyện vốn có một sức hấp dẫn kì lạ với trẻ em ở mọi nơi trên thế giới, không phân biệt màu da, tôn giáo hay văn hoá. Kể chuyện cho trẻ là một hoạt động rất quen thuộc và xuất hiện ở hầu khắp tất cả các quốc gia, các nền văn hoá. Để phát triển toàn diện các kĩ năng ngôn ngữ của trẻ, các nhà giáo dục luôn tìm tòi và đổi mới phương pháp hướng dẫn. Xuất phát từ lí do đó, chúng tôi xin giới thiệu về kĩ thuật kể chuyện tương tác (Interactive storytelling technique) - một kĩ thuật kể chuyện hiện đại đang được sử dụng ở trong nhiều trường mầm non trên thế giới, nhưng ở Việt Nam thì kĩ thuật này hầu như chưa được nhắc đến, nhằm góp thêm một cái nhìn mới về cách thức cho trẻ mầm non làm quen với tác phẩm văn học. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Định nghĩa kể chuyện tương tác Trước hết, chúng tôi xin được bàn về khái niệm kể chuyện (storytelling). Theo National Storytelling Network (Tổ chức hỗ trợ hoạt động kể chuyện của nước Mĩ), khái niệm kể chuyện thời hiện đại đã có nhiều đổi khác so với quá khứ. Thông thường, mọi người thường biết đến kể chuyện như “một hình thức nghệ thuật cổ xưa và một cách thức hữu hiệu để bộc lộ cảm xúc của con người” (dẫn theo National Storytelling Network). Trang web này đưa ra một định nghĩa mới về kể chuyện: “Kể chuyện bao gồm sự tương tác hai chiều giữa người kể và một hoặc nhiều người nghe. Sự hồi đáp của người nghe ảnh hưởng đến việc kể chuyện. Sự thật, kể chuyện là kết quả của sự tương tác và cộng tác, là sản phẩm tạo ra của cả người nói và người nghe” [11]. Đồng thời, trang này cũng nhấn mạnh: “Kể chuyện là nghệ thuật tương tác bằng cách sử dụng từ ngữ và hành động để thể hiện lại các yếu tố và hình ảnh của một câu chuyện, khuyến khích trí tưởng tượng của người nghe” [11]. Ngày nhận bài: 10/8/2015. Ngày nhận đăng: 20/2/2016. Liên hệ: Phạm Minh Hoa, e-mail: pmhoa@daihocthudo.edu.vn 174 Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ... Như vậy, sự tương tác được đặt ở trung tâm của khái niệm kể chuyện. Khái niệm “kể chuyện tương tác” xuất hiện là một cách cụ thể hoá và làm nổi bật chức năng tương tác của hoạt động kể chuyện. Khái niệm này ban đầu được sử dụng trong các ngành công nghệ giải trí và khoa học máy tính, đặc biệt trong việc viết các chương trình trò chơi trực tuyến. “Người sử dụng kĩ thuật đó có thể sáng tạo hoặc mô phỏng lại cốt truyện thông qua các hành động, họ sắm vai là một nhân vật trong truyện hoặc làm theo những hành động mà nhân vật chính trong truyện yêu cầu. Kể chuyện tương tác là nơi mà cốt truyện và sự phát triển cốt truyện được gắn với cuộc đời thật và được tạo ra bởi chính khán giả” (theo Wikipedia). Tuy nhiên chính ý tưởng cả không gian là một sân khấu lớn, mỗi khán giả cũng đều có thể sắm vai diễn viên, đạo diễn đã khiến kể chuyện tương tác trở thành một kĩ thuật kể chuyện xuất hiện ở trong nhiều nhà trường mầm non hiện đại trên thế giới. Như chúng ta đã biết, chơi chính là trung tâm của mọi hoạt động ở trẻ mầm non. Và với trẻ, các câu chuyện có sức hấp dẫn lạ kì. Cách tư duy về thế giới của trẻ ở độ tuổi mầm non khác với trẻ ở những độ tuổi lớn hơn và khác với người lớn chúng ta. Với lối tư duy trực quan hình tượng, và với quan niệm “vật ngã đồng nhất”, cả thế giới này giống như một sân khấu lớn với trẻ mầm non. Trẻ tin vào những câu chuyện mà trẻ được kể, và trẻ ao ước được là một nhân vật, một phần của câu chuyện ấy. Với học thuyết “Chơi là hoạt động trung tâm trong thế giới của trẻ mầm non”, nhà giáo dục học và tâm lí học Piaget (1969) đã khẳng định vai trò quan trọng của những câu chuyện với trẻ: “Những đứa trẻ cũng kể những câu chuyện. Qua những câu chuyện đó, trẻ có thể chia sẻ cách nhìn nhận không gian của riêng mình, và trẻ có thể sáng tạo những câu chuyện của cá nhân từ trí tưởng tượng. Quá trình kể chuyện này giúp trẻ trở thành một phần của xã hội rộng lớn hơn đồng thời xây dựng năng lực ngôn từ cho trẻ” [13;150]. Đến năm 1990, nhà giáo dục Vivian Paley người Mĩ, người sáng tạo ra kĩ thuật Helicopter - một kĩ thuật kể chuyện tương tác cho trẻ mầm non đã khẳng định: “Những câu chuyện chỉ trở nên hấp dẫn với trẻ khi chúng tìm thấy mình, và được là mình trong những câu chuyện ấy” [12;20]. Theo như tìm hiểu của chúng tôi, Vivian Paley cũng là người đầu tiên đề cập đến khái niệm kể chuyện tương tác trong giáo dục mầm non. Trong cuốn sách “Boy who would be a helicopter” (Chú bé muốn làm một máy bay lên thẳng) xuất bản năm 1990, tác giả đã viết: “Kể chuyện tương tác là sự kết nối giữa kể chuyện và các hoạt động đóng kịch về chính câu chuyện đang diễn ra ở trong lớp học” [12;20]. Và tác giả cũng khẳng định: “Trong kể chuyện tương tác, cũng như trong hoạt động chơi, sự tương tác xã hội mà chúng tôi gọi là sự ngắt quãng liên tục lại giúp phát triển cốt truyện” [12;23]. Sở dĩ có sự ngắt quãng liên tục này là khi một trẻ kể câu chuyện của mình, lập tức nhận được sự hưởng ứng của những trẻ khác, và các bạn nhỏ này đồng thời cũng muốn sáng tạo thêm những sự việc vào trong câu chuyện chung. Tác giả Tallant (1992) còn sử dụng thuật ngữ “participatory storytelling” (kể chuyện tập thể) để chỉ kĩ thuật kể chuyện tương tác. Trong bài báo này, tác giả đã viết: “ Kể chuyện tương tác là một phương thức hữu hiệu giúp trẻ em thể hiện sự sáng tạo của mình” [14;2]. Đồng thời, tác giả cũng nghiên cứu phương pháp kể chuyện tương tác và chỉ ra hiệu quả của nó trong việc giúp đỡ những trẻ em gặp khó khăn về mặt ngôn ngữ có thể cải thiện khả năng ngôn ngữ của mình. Khái niệm kể chuyện tương tác còn được thể hiện bằng thuật ngữ “Interactive storytelling” trong nghiên cứu của nhiều tác giả khác ví dụ Dyson (2001), Lesley Farmer (2004), Cooper (2005), Dorothy Faulkner (2015). . . Đồng thời, khái niệm này còn xuất hiện trên rất nhiều trang web về kĩ thuật kể chuyện dành cho trẻ mầm non trên thế giới, ví dụ: MakeBelieveArt, Stories and more, Kid Activities. . . Nghiên cứu này của chúng tôi là kế thừa những thành quả về lí thuyết mà các nhà khoa học giáo dục trên thế giới đã công bố về kĩ thuật kể chuyện tương tác, trong đó chủ yếu dựa trên lí thuyết về kể chuyện tương tác của Vivian Paley (1990), đồng thời là kết quả của những thử nghiệm 175 Phạm Minh Hoa và áp dụng bước đầu vào trong thực tế khi xây dựng các khóa học trải nghiệm cho trẻ mầm non của chúng tôi. Kể chuyện tương tác trong giáo dục mầm non là kĩ thuật kể chuyện mà trẻ và các bạn của mình cùng giáo viên tương tác với nhau, trẻ tham gia đóng vai nhân vật trong truyện mà giáo viên kể hoặc câu chuyện do chính trẻ tạo ra, câu chuyện cuối cùng được tạo ra là sản phẩm sáng tạo của tập thể. Chính trong quá trình này, trẻ được tiếp cận với câu chuyện ở mức gần nhất, câu chuyện trở thành một trò chơi, một phần trong trẻ. Câu chuyện phản ánh thế giới thật mà trẻ đang sống. Và như Cheryl Wright (2012) đã khẳng định về giá trị quan trọng của kĩ thuật này: “Hoạt động này phát triển khả năng ngôn ngữ, nghệ thuật, vận động thể chất và các kĩ năng tương tác xã hội ở trẻ” [2; 198]. 2.2. Giá trị của kĩ thuật kể chuyện tương tác so với những kĩ thuật kể chuyện truyền thống trong nhà trường mầm non Việt Nam hiện nay Vậy kể chuyện tương tác có gì khác với hoạt động giáo viên kể chuyện, dạy trẻ kể chuyện, trò chơi sắm vai, đóng kịch - những hoạt động thường thấy ở những buổi cho trẻ làm quen với tác phẩm truyện ở nhà trường mầm non Việt Nam hiện nay. Theo chúng tôi, điểm khác biệt cơ bản như sau: 2.2.1. Kể chuyện tương tác giúp trẻ được dự đoán về nội dung câu chuyện trước khi câu chuyện diễn ra Trong phương pháp kể chuyện truyền thống ở nhà trường mầm non Việt Nam hiện nay, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng: Trẻ chưa phải một bạn đọc thực sự, do chưa biết đọc và biết viết, nên việc tiếp cận tác phẩm phụ thuộc vào chỉ dẫn của giáo viên, giáo viên là người giới thiệu, kể chuyện, đặt câu hỏi, chuỗi câu hỏi chủ yếu xoay quanh vấn đề tính cách nhân vật, bài học rút ra. . . Và qua những lần dự giờ thực tế ở nhiều trường mầm non, chúng tôi nhận thấy, các câu hỏi thường đã được định sẵn câu trả lời, giáo viên chỉ khuyến khích việc trẻ nhớ câu chuyện một cách cứng nhắc , chứ chưa thực sự khuyến khích sự sáng tạo khi kể lại và kể một câu chuyện mới của trẻ. Tuy vậy, trong hoạt động kể chuyện tương tác, giáo viên sẽ phải phát huy tính sáng tạo hơn, đưa ra một số chi tiết, dữ liệu của truyện dưới dạng những hành động, các đồ dùng trực quan, để trẻ quan sát và dự đoán về nội dung câu chuyện. Trẻ sẽ được giáo viên giới thiệu về nhan đề truyện, về một số nhân vật sẽ có trong truyện, và trẻ sẽ dự đoán xem câu chuyện diễn ra thế nào. Đây là hoạt động vô cùng hứng thú với trẻ, kích thích trí tò mò và óc tưởng tượng của trẻ, hình thành kĩ năng tư duy logic, khả năng đối chiếu, so sánh và xử lí thông tin. Ví dụ: Khi chúng tôi thực hành hoạt động kể chuyện “Con sâu háu ăn” của Eric Carle cho nhóm trẻ 4-5 tuổi, chúng tôi nhận thấy, giáo viên có thể giới thiệu trước những hình vẽ về các món ăn mà đều bị khuyết một góc, và yêu cầu trẻ dự đoán xem tại sao lại có chuyện lạ kì như vậy xảy ra. Có trẻ sẽ trả lời là: Do con chuột ăn, có bạn sẽ nói: Do con chim ăn? Sau đó, cô có thể giới thiệu tên nhan đề truyện cùng hình vẽ ở phần bìa quyển sách và hỏi trẻ: Đây là nhân vật gì, liệu có liên hệ gì với nội dung câu chuyện của chúng ta? Và những câu trả lời nhận được chắc chắn sẽ vô cùng thú vị. 2.2.2. Kể chuyện tương tác giúp trẻ được sắm vai thành các nhân vật ngay trong chính những lời giáo viên kể Trong phương pháp làm quen với tác phẩm truyện ở nhà trường mầm non hiện nay, hoạt động đóng vai, diễn kịch thường diễn ra ở những buổi sau, khi trẻ đã thuộc tác phẩm. Và vì vậy, khi cô kể chuyện, một yêu cầu của trẻ là trẻ cần im lặng lắng nghe cô. Nhưng Vivian Paley (1990) 176 Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ... đã đưa ra một tiêu chuẩn quan trọng của kể chuyện tương tác: “Trong kể chuyện, cũng giống như trong một vở kịch, sự tương tác tập thể - cái mà chúng tôi gọi là sự ngắt quãng liên tục, giúp phát triển câu chuyện” [12;31]. Song song với những lời kể của cô là hoạt động diễn kịch của trẻ. Trẻ có thể đóng vai, bắt chước bất cứ nhân vật nào, mô phỏng bất cứ sự vật nào, hoạt động nào có trong tác phẩm. Theo Dorothy (2015), “Khái niệm lớp học bị xoá nhoà, chỉ còn lại một sân khấu lớn mà trong đó mỗi trẻ là một diễn viên, thậm chí là một đạo diễn” [7;20]. Một góc lớp có thể thành một cái hang nơi có con sói đang sống, gầm bàn chính là nơi cất giữ kho báu, một cánh cửa chính là đại diện cho toà lâu đài nơi công chúa đang bị giam giữ. . . Trẻ có thể sắm vai bất kì nhân vật nào, từ một cái cây, một bông hoa, một chú chim, một cô công chúa, một bạn nhỏ, một bà mẹ. . . Đồng thời giáo viên có thể xây dựng những trò chơi tập thể xoay quanh nội dung câu chuyện, ví dụ: Trò chơi Tam sao thất bản, trò chơi Ghế nóng. . . Trong trò Ghế nóng, trẻ sẽ sắm vai một nhân vật trong truyện, ngồi trên Ghế nóng và đón đợi những câu hỏi của tất cả các bạn và phải trả lời lại bằng lời nói suy nghĩ của chính nhân vật ấy. Hoặc trẻ được hướng dẫn kể lại chuyện bằng ngôn ngữ của một nhân vật khác trong truyện. . . Đồng thời, trẻ được hướng dẫn làm các đồ vật sáng tạo phục vụ cho việc kể chuyện: làm rối tay, vẽ tranh theo một sự việc trong truyện, tự tạo mô hình một nhân vật trong truyện. . . Câu hỏi đặt ra là: Liệu như vậy có vi phạm kỉ luật của lớp học, và như vậy có đúng quy chuẩn của một giờ học? Giáo viên có thể giải quyết câu hỏi ấy bằng cách phổ biến luật chơi ngay từ đầu: Hãy coi đóng kịch là một trò chơi, và các bạn nhỏ muốn chơi cần chấp hành kỉ luật tự giác, bạn nào vi phạm, sẽ bị tạm dừng cuộc chơi. Và trẻ rất hiểu điều đó, bởi theo Vivian Paley (1990), “trẻ phân biệt được đâu là đóng kịch, đâu là đời thực, và vì muốn chơi và khao khát được chơi, nên trẻ sẽ chấp nhận thể lệ cuộc chơi như một phần tất yếu” [12; 31]. Đến năm 2001, trong bài phỏng vấn với NAEYC, bà có nói: “Trung tâm hoạt động của trẻ ở thời ấu thơ chính là những trò chơi đóng vai (dramatic play). Chính trong hoạt động này, nơi những hoạt động sân khấu, kĩ năng xã hội, lời nói, khả năng tư duy cũng như đặc trưng văn hoá sẽ được bộc lộ, nơi bản thân mỗi từ ngữ trẻ nói ra sẽ được kiểm tra bởi rất nhiều trẻ khác ngay lập tức. Chúng ta có dịp để quan sát cách những vấn đề được giải quyết bởi những trẻ với những tính cách khác nhau, đến từ những nơi khác nhau, điều này là cần thiết đối với mỗi nhà giáo dục” [10]. Như vậy, kể chuyện tương tác chính là cơ hội để trẻ thể hiện cảm xúc của chính mình, và bộc lộ kĩ năng giải quyết vấn đề cũng như sự tương tác xã hội với bạn bè và giáo viên. 2.2.3. Kể chuyện tương tác giúp giáo viên lắng nghe những câu chuyện của chính trẻ và trẻ được diễn lại những câu chuyện ấy ngay trên sân khấu Đây là điều quan trọng nhất của kĩ thuật kể chuyện tương tác, nhưng là điều lại hay bị bỏ quên nhất trong hoạt động kể chuyện ở nhà trường mầm non Việt Nam hiện nay. Với kể chuyện tương tác, giáo viên sẽ đưa ra một câu chuyện, có thể là một gợi dẫn: “Ngày xửa ngày xưa, có một chú lợn hồng sống cùng với mẹ. Một hôm, chú đi vào rừng một mình, mà không có mẹ đi cùng. . . Và chuyện gì sẽ xảy ra?” Trẻ sẽ là người nghĩ và sáng tạo ra phần tiếp theo của câu chuyện, tự xâu chuỗi và diễn lại chính vở kịch đó trong không gian của sân khấu - lớp học. Hoặc, trẻ được nghĩ một kết thúc mới cho câu chuyện mình đã biết. Hoặc cao hơn, giáo viên sẽ chỉ đưa ra một chủ đề, và trẻ sẽ tự nghĩ ra câu chuyện của riêng mình. Nhiệm vụ của giáo viên là lắng nghe, ghi lại từng từ, từng câu của trẻ vào một tờ giấy, đọc to lại cho trẻ nghe để thử xem trẻ có đồng ý hay sửa chữa gì thêm, và đề nghị trẻ diễn lại câu chuyện ấy trên sân khấu - lớp học. Đó chính là nội dung chính của kĩ thuật Helicopter mà Vivan Paley (1990) đã khởi xướng. Tác giả đã đề cập đến kĩ thuật này sau thời gian dài ghi âm lại và phân tích những cuộc nói chuyện của trẻ với bạn bè và giáo viên, cũng như những câu chuyện trẻ kể. Những 177 Phạm Minh Hoa câu chuyện của từng trẻ có thể được xâu chuỗi một cách tự nhiên với nhau: “- Bạn Joseph rất thích làm một chiếc máy bay lên thẳng, và bạn ấy kể câu chuyện về máy bay lên thẳng. Bạn Anna rất thích làm gấu mẹ, và bạn ấy kể câu chuyện về một chú Gấu Mẹ. Anna, con có thích một chiếc máy bay lên thẳng xuất hiện trong câu chuyện của con không? - Con đồng ý, nhưng con muốn Joseph sẽ là một máy bay lên thẳng chở một con gấu con. - Joseph, con có đồng ý không? - Con đồng ý” [12; 35]. Đó là những câu hỏi mà chính Paley đã hỏi các bạn nhỏ trong lớp học của mình, là cách bà gợi dẫn cho trẻ về cách thức làm bạn cũng như những tương tác xã hội cần thiết. Những giờ kể chuyện (story time) thực sự được triển khai dưới dạng những đoạn hội thoại có kết thúc mở (open-ended dialogue) mà chỉ “tác giả và những diễn viên là biết câu trả lời” [12; 37]. Chính điều này sẽ thu hút sự chú ý, trí tưởng tượng và phát triển năng lực ngôn ngữ cũng như tư duy ở trẻ. Và đây là một câu chuyện được ghi lại trong lớp học do chúng tôi triển khai dành cho trẻ mầm non. Từ một câu chủ đề được đưa ra: Cô giáo nhìn thấy gì? (Đây là lời thoại trong truyện “Gấu Nâu ơi, Gấu Nâu ơi, bạn nhìn thấy gì?” (Brown Bear, Brown Bear, what do you see?) các bạn nhỏ đã triển khai thành rất nhiều ý tưởng: - Cô giáo thấy bạn Quốc Anh. - Bạn Quốc Anh nhìn thấy gì? - Bạn Quốc Anh nhìn thấy một cái quạt. - Cái quạt nhìn thấy gì? - Cái quạt nhìn thấy cơn gió. - Cơn gió nhìn thấy gì? - Cơn gió nhìn thấy con chim đang bay. . . Cô trợ giảng sẽ ghi lại những câu hỏi và câu trả lời ấy, và sau đó, các bạn nhỏ sẽ cùng được nghe lại câu chuyện của chính mình, và diễn lại những nhân vật trong câu chuyện ấy. Không còn những câu hỏi đánh giá một chiều như: Nhân vật này đúng hay sai, tốt hay xấu? Chúng ta nên học theo nhân vật nào, chúng ta phải làm gì? Trong những câu chuyện được sử dụng trong giờ kể chuyện tương tác, trẻ sẽ được đi sâu vào thế giới cảm xúc của riêng mình, và của bạn bè, những câu hỏi và đáp án liên quan đến một phần cuộc sống thật của trẻ. Những câu hỏi trẻ sẽ làm quen dần đó là: How (Như thế nào), và Why (Tại sao). Cô giáo không phải người phán xét theo dạng một quan toà mà giáo viên sẽ theo dõi cách trẻ phản ứng, giải quyết vấn đề, cô sẽ cho trẻ thấy những bạn khác sẽ giải quyết vấn đề thế nào, từ đó, cô có thể đưa ra những định hướng và gợi dẫn riêng cho từng trẻ. 2.3. Vai trò của giáo viên trong kĩ thuật kể chuyện tương tác Có thể thấy, đây là một kĩ thuật phát huy tối đa vai trò trung tâm của trẻ. Tất cả các hoạt động giáo dục đều xoay quanh đối tượng nhận thức là trẻ. Theo chúng tôi, để kĩ thuật này thực sự thành công, người giáo viên cần hiểu rõ những điều sau: - Hiểu rõ về tâm lí và tính cách của lứa tuổi mầm non cũng như của từng cá nhân trẻ. Để thấy mỗi độ tuổi sẽ là một đặc điểm riêng, và để hiểu mỗi cá thể là riêng biệt. Sự đánh giá mỗi trẻ phải dựa trên sự phát triển của cá nhân trẻ ấy trong cả một quá trình, chứ không phải sự xếp loại hơn kém hay cào bằng. Mỗi trẻ ngoài những chuẩn chung của lứa tuổi, lại là một thế giới riêng cần sự tôn trọng của người lớn. Tôn trọng và dạy trẻ bằng trải nghiệm của chính trẻ, theo chúng tôi chính là điều quan trọng nhất về triết lí giáo dục mà giáo viên cần thấu triệt. 178 Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ... - Chọn lựa tác phẩm một cách phù hợp: Những câu chuyện có thể kích thích phát triển được sự tương tác giữa giáo viên và trẻ thường phải có nội dung đa dạng, mang màu sắc tích hợp, thường là truyện tranh để trẻ có thể dễ dàng tiếp cận. Truyện “có tính linh động cao, cho phép sự sáng tạo của giáo viên và trẻ trong quá trình đọc kể” [7;33]. Nguồn truyện này khá phổ biến và phong phú ở nước ngoài, nhưng ở Việt Nam, về cơ bản, vẫn còn ít và chưa đa dạng. Thời gian gần đây, các nhà xuất bản lớn như NXB Trẻ, NXB Kim Đồng, Công ty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam đã giới thiệu rất nhiều các tác phẩm truyện tranh khoa giáo nổi tiếng dành cho trẻ mầm non của nước ngoài, ví dụ như “Chúc ngủ ngon, khỉ đột”, “Tôi sẽ đỡ nếu bạn rơi”, bộ truyện về “Chú chim Bồ Câu” của tác giả Mo Willems, “Nơi quỷ sứ giặc non” của Maurice Sendak. . . .Đây là những gợi dẫn rất tốt cho việc mở rộng hứng thú đọc sách, kể chuyện ở trẻ. - Xây dựng không gian lớp học thành một sân khấu, với một không gian mở, có sự kết nối giữa không gian ngoài trời và không gian trong lớp, không gian góc và các khoảng không gian khác trong lớp. - Lên ý tưởng bài dạy, lắng nghe sự phản hồi của trẻ, “đóng vai trò đạo diễn, thu hút sự chú ý của trẻ, kết nối trẻ lại với nhau” [12;40]. Đây là điều khó nhất, nhưng là điều cần thiết nhất mà giáo viên cần làm. Chính những hoạt động và sự đa dạng về hoạt động, tính tích hợp giữa các hoạt động sẽ giúp một giờ kể chuyện thực sự hào hứng, là sự tương tác giữa trẻ và cô. - Quan sát và đánh giá trẻ, từ đó có những điều chỉnh về kĩ thuật cho phù hợp, để giúp đỡ và định hướng cho trẻ phát triển. 2.4. Thử vận dụng lí thuyết “Kể chuyện tương tác” để thiết kế mô đun “Sáng tạo cùng kể chuyện” dành cho trẻ mẫu giáo từ 4-5 tuổi Những biện pháp này đã được chúng tôi nghiên cứu và ứng dụng vào trong khoá học dành cho trẻ mầm non 4-5 tuổi với tên gọi: “Sáng tạo cùng kể chuyện”. Mỗi buổi học, trẻ được các giáo viên hướng dẫn thực hành 3 kĩ năng quan trọng sau: kĩ năng làm việc tập thể, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình. Cụ thể, một buổi học sẽ diễn ra các hoạt động sau: 1. Khởi động: nhằm tạo hứng thú, kích thích tư duy. 2. Nghe kể chuyện: trẻ nghe và tương tác cùng cô trong hoạt động nghe kể chuyện. 3. Hoạt động sáng tạo và khám phá: trẻ sẽ cùng cô tiến hành các hoạt động sáng tạo xoay quanh chủ đề câu chuyện theo hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân. 4. Kể chuyện/Sáng tạo chuyện: Trẻ dùng các sản phẩm do mình tạo ra để kể lại chuyện, sáng tạo câu chuyện của chính mình. 5. Hoạt động vận động kết thúc. Bảng 1. Cấu trúc của chương trình Kế hoạch Thời gian Nội dung Mục tiêu Mình cùng cô kể Buổi 1 Làm quen Trẻ hứng thú với chương trình, hoà nhập cùng các bạn, có ý thức kỉ luật tự giác Buổi 2 Kể chuyện cùng số đếm Trẻ nghe cô kể chuyện và làm quen với thế giới diệu kì của toán học Buổi 3 Kể chuyện cùng playdough Trẻ nghe cô kể chuyện và tái hiện lại câu chuyện cùng với đất nặn playdough 179 Phạm Minh Hoa Buổi 4 Kể chuyện cùng Vangogh Trẻ nghe cô kể chuyện, được cô giới thiệu một bức tranh của hoạ sĩ Vangogh, và trẻ sẽ vẽ lại bức tranh ấy theo phong cách của chính mình. Buổi 5 Kể chuyện cùng đóng kịch Trẻ nghe kể chuyện và dựng kịch theo câu chuyện Buổi 6 Kể chuyện cùng storymap, story cubes Trẻ học cách mô hình hoá câu chuyện theo sơ đồ cốt truyện (story map) và các xúc xắc (story cubes). Buổi 7 Kể chuyện cùng story walk Trẻ học cách mô hình hoá câu chuyện và dựng lại câu chuyện theo con đường câu chuyện (story walk) Mình dựng truyện Buổi 8 Gia đình của tớ Trẻ dựng và kể lại câu chuyện của chính mình xoay quanh chủ đề đưa ra, kết hợp với các hoạt động và phương tiện phụ trợ đã được giới thiệu từ các buổi trước. Buổi 9 Thiên nhiên trong mắt tớ Buổi 10 Trường học của tớ Mình cùng lên sân khấu Buổi 11 Thuyết trình cùa trẻ Trẻ sẽ trình bày về các vấn đề mà trẻ thích thú và quan tâm. Phụ huynh sẽ được mời đến trong buổi thuyết trình này. Tổng kết Buổi 12 Dã ngoại, thực tế Tổ chức một buổi dã ngoại. Trẻ và phụ huynh sẽ được cùng tham gia các hoạt động kể chuyện và sáng tạo cùng câu chuyện. - Có phần biểu diễn tập thể (múa tập thể, đóng kịch tập thể) - Phần trình bày thuyết trình của từng bạn. Phụ huynh, giáo viên có thể là khán giả hoặc một nhân vật trong chính vấn đề mà các con muốn thể hiện. Một lưu ý quan trọng đó là thứ tự lựa chọn và sắp xếp các truyện. Phần lớn các câu chuyện được chúng tôi chọn lựa từ những tác phẩm truyện tranh kinh điển dành cho trẻ mẫu giáo của nước ngoài và mang tính tích hợp cao. - Buổi 1-2-3: Các truyện đơn giản về nội dung, đa dạng về nhân vật, chủ yếu dạy trẻ về màu sắc,số đếm, vốn từ, kiến thức về thế giới tự nhiên. - Buổi 4-5-6-7: Các truyện ít nhân vật đi, có tuyến nhân vật với tính cách rõ ràng, có cốt truyện rõ ràng với mở đầu - cao trào - kết thúc, có những bài học giáo dục đạo đức; dạy trẻ về kết cấu của một câu chuyện, tư duy logic, khám phá và bộc lộ thế giới cảm xúc của bản thân, phát huy trí tưởng tượng sáng tạo. - Buổi 8-9-10: Không còn câu chuyện của cô nữa, mà trẻ sẽ tự dựng và kể những câu chuyện của chính mình xoay quanh những chủ đề được đưa ra. - Trong buổi 10, trẻ sẽ chuẩn bị cho đề tài mà mình sẽ trình bày ở buổi 11. 180 Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ... + Cô hướng dẫn trẻ chọn lựa ý tưởng: xoay quanh một quyển sách/truyện trẻ được giới thiệu, được đọc, xoay quanh một vấn đề mà trẻ quan tâm: Vì sao tớ lại phải đi học, Vì sao cần vào lớp 1, Vì sao lại cần tiền?... + Chuẩn bị ý tưởng + Tập thuyết trình. Chương trình này của chúng tôi đã nhận được những phản hồi rất tích cực từ phía phụ huynh và các bé. Số trẻ đến với lớp của chúng tôi hiện tại là 12 bạn trong độ tuổi 4-5. Khi chúng tôi lấy thông tin đánh giá buổi học từ phía các phụ huynh cho con đến học buổi demo, thì 90% số phụ huynh được hỏi ý kiến cảm thấy hứng thú với chương trình khóa học, và mong muốn cho con theo học tại lớp của chúng tôi. 3. Kết luận Kể chuyện tương tác thật sự có ý nghĩa với trẻ mầm non, vì nó đưa trẻ trở về với cuộc sống thực của các em, giúp trẻ tập trung phát triển ý tưởng, câu chuyện, và trải nghiệm. Theo Cheryl Wright (2012): “Những trò chơi đóng kịch cùng câu chuyện này cũng mang đến cơ hội cho trẻ để trở thành người đứng đầu cũng như có thể chia sẻ cùng các bạn hứng thú kể chuyện, đóng vai và quan sát, đánh giá” [4;200]. Lấy câu chuyện là chủ đề triển khai các hoạt động sáng tạo và khám phá, dùng câu chuyện để tương tác với trẻ, chính là cách mà chúng tôi làm nhằm khơi gợi ở trẻ lòng yêu thích đọc sách, tìm kiếm và phát huy những khả năng sáng tạo tiềm tàng ở trẻ. Và điều quan trọng nhất, trẻ được lắng nghe và học cách bộc lộ bản thân qua những câu chuyện của chính mình. Dựa trên những thực nghiệm với mô đun “Sáng tạo cùng kể chuyện”, chúng tôi tin rằng kĩ thuật kể chuyện tương tác cũng như mô đun này hoàn toàn có thể ứng dụng và nhân rộng trong thực tế ở các nhà trường mầm non, có thể dưới hình thức các câu lạc bộ ngoại khóa hoặc được áp dụng ngay trong các hoạt động học hàng ngày của trẻ. Và đây cũng là cách để những nghiên cứu của chúng tôi không chỉ nằm trên trang giấy mà được ứng dụng vào cuộc sống và mang lại lợi ích cho cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bill Martin Jr, Eric Carle, 1996. Brown Bear, Brown Bear, what do you see?. Henry Holt and Company, New York. [2] Cheryl Wright, Marissa L. Diener, Jacqueline Lindsay Kemps, 2012. Storytelling Dramas as a Community Builiding Activity in an Early Childhood Classroom. Early Childhood Education Journal, Vol 29 August, pp. 2. [3] Cooper, P.M, 2005. Literacy learning and pedagogical purposes in Paley’s storytelling curriculum. The Journal of Early Childhood Literacy, 5(3), 229-251. [4] Dyson, A. H, 2001. Donkey Kong in Little Bear country: A first grader’s composing development in the media spotlight. The Elementary School Journal, 101(4), 417–433. [5] Dorothy Faulkner, 2015. Storytelling cultures in early years classroom. The Open University, USA. [6] Eric Carle, 1987. The very hungry caterpillar. Philomel Books, New York. [7] Phạm Minh Hoa, 2015. Về thể loại truyện tranh khoa giáo dành cho trẻ mầm non có xuất xứ từ phương Tây. Văn học thiếu nhi trong nhà trường, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [8] Lesley Farmer, 2004. Using technology for storytelling: Tools for children. New Review of Children’s Literature and Librarianship, USA. 181 Phạm Minh Hoa [9] Makebelivearts, 2012. The Helicopter Technique of Story Telling and Story Acting, UK. [10] NAEYC, 2001. A Conversation with Vivian Gussin Paley. Florida, USA. [11] National Storytelling Network, 2012. What is Storytelling. USA. [12] Paley, V.G, 1990. The boy who would be a helicopter: The use of storytelling in the classroom. The Havard University Press, USA. [13] Piaget, J. & Inhelder, B., 1969. The psychology of the child (H.Weaver, Trans). New York, NY: Best Books, Inc. (Original work published 1966). [14] Tallant, C., 1992. Telling with, not telling to: Interactive storytelling and at-risk children. ERIC Document Reproduction Service No.ED355574 Retrieved December 1, 2008, from ERIC database. [15] Đinh Hồng Thái, 2003. Giáo trình phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Nxb Giáo dục, Hà Nội. ABSTRACT Making use of interactive storytelling in literacy activities for preschool children Interactive storytelling is used by children as a way to predict what will happen in stories, and to act out and communicate with teachers and peers to create new stories. This plays an important role in developing early literacy, logical thought, imagination and cooperation in children. Keywords: Interactive storytelling, Early literacy development, Early childhood education 182
File đính kèm:
- ung_dung_ki_thuat_ke_chuyen_tuong_tac_trong_hoat_dong_phat_t.pdf