Tú Tượng Đệ Bát Tài Tử Tiên Chú và truyện thơ Nôm Hoa Tiên Ký trong cái nhìn so sánh về mặt cốt truyện, bố cục, số câu, tên hồi
Với sự đồng điệu về cảm xúc, Nguyễn Huy Tự đã phóng tác Ca bản Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú
thành truyện thơ Nôm Hoa tiên ký. Nhưng với lý tưởng thẩm mỹ, truyền thống văn học riêng, tác
giả truyện Hoa tiên ký đã để lại dấu ấn của sự sáng tạo trên nhiều phương diện từ thể loại đến xây
dựng nhân vật, phương thức tự sự Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu những thay đổi nhỏ về
mặt cốt tuyện, tình tiết, bố cục, số câu, tên hồi của Hoa Tiên ký so với Ca bản. Ở phương diện này
dù không thật sự thể hiện được hết tài năng của Nguyễn Huy Tự như ở các phương diện khác,
nhưng nó cũng góp phần khá quan trọng trong việc thể hiện ý tưởng nghệ thuật của tác giả cũng
như truyền thống văn học của dân tộc.
Bạn đang xem tài liệu "Tú Tượng Đệ Bát Tài Tử Tiên Chú và truyện thơ Nôm Hoa Tiên Ký trong cái nhìn so sánh về mặt cốt truyện, bố cục, số câu, tên hồi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tú Tượng Đệ Bát Tài Tử Tiên Chú và truyện thơ Nôm Hoa Tiên Ký trong cái nhìn so sánh về mặt cốt truyện, bố cục, số câu, tên hồi
Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 35 TÚ TƯỢNG ĐỆ BÁT TÀI TỬ TIÊN CHÚ VÀ TRUYỆN THƠ NÔM HOA TIÊN KÝ TRONG CÁI NHÌN SO SÁNH VỀ MẶT CỐT TRUYỆN, BỐ CỤC, SỐ CÂU, TÊN HỒI Ngô Thị Thanh Nga* Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Với sự đồng điệu về cảm xúc, Nguyễn Huy Tự đã phóng tác Ca bản Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú thành truyện thơ Nôm Hoa tiên ký. Nhưng với lý tưởng thẩm mỹ, truyền thống văn học riêng, tác giả truyện Hoa tiên ký đã để lại dấu ấn của sự sáng tạo trên nhiều phương diện từ thể loại đến xây dựng nhân vật, phương thức tự sựTrong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu những thay đổi nhỏ về mặt cốt tuyện, tình tiết, bố cục, số câu, tên hồi của Hoa Tiên ký so với Ca bản. Ở phương diện này dù không thật sự thể hiện được hết tài năng của Nguyễn Huy Tự như ở các phương diện khác, nhưng nó cũng góp phần khá quan trọng trong việc thể hiện ý tưởng nghệ thuật của tác giả cũng như truyền thống văn học của dân tộc. Từ khóa: Hoa tiên ký - Nguyễn Huy Tự - Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú - truyện Nôm - So sánh Trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái nguyên số tháng 3/2010, chúng tôi đã có bài viết so sánh truyện thơ Nôm Hoa tiên ký (HTK) và Ca bản Đệ bát tài tử tiên chú (CB) về phương diện thể loại. Qua đó chỉ ra sự sáng tạo cũng như bản lĩnh tiếp nhận văn học nước ngoài của Nguyễn Huy Tự trong phương diện “hoán cốt đột thai” đầu tiên này. Ở bài viết này, chúng tôi tiếp tục đề cập đến một biểu hiện nữa của sức sáng tạo ấy của tác giả Trường Lưu trên mặt cốt truyện, bố cục, số câu, tên hồi. Có thể nói khi đối chiếu giữa CB và truyện thơ HTK rất nhiều nhà nghiên cứu đã dễ dàng nhận ra sự thêm bớt và thay đổi của Nguyễn Huy Tự khi diễn Nôm CB, nhất là trong việc giản lược số câu. Vì dụng ý của mình (và cũng chính là xuất phát từ truyền thống chuộng thơ ca của dân tộc) là giữ vững chất thơ của câu chuyện phong tình, nên có những hồi tác giả đã gạt đi khá nhiều câu trong CB (mang đậm tính chất kể) để ý thơ nhẹ nhàng súc tích mà vẫn gợi hình gợi cảm. Nếu như CB gồm có 60 hồi với 3422 câu thơ, thì sang truyện Nôm HTK, mặc dù tác giả vẫn giữ nguyên số hồi, nhưng dung lượng của nó chỉ còn khoảng 1532 câu. Theo nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng thì: “Nhìn một cách tổng quát ta thấy ngoài một số thay đổi về bố cục ở các Tel:0280.3.822.065 hồi 4, 15, 25, 39, 46, 51, 55, 60, còn lại nói chung về cốt truyện thì đúng như Lại Ngọc Cang nói, Hoa tiên không thay đổi gì nhiều so với CB. Những thay đổi khác của Hoa tiên về tên hồi, về một chữ trong bài thơ họa (chu môn ở Hoa tiên, chu gian ở CB) cũng chỉ là những thay đổi nhỏ. Điều đáng chú ý nhất ở đây là sự giảm thiểu số câu của Hoa tiên. Trừ hồi cuối không chắc Hoa tiên còn bao nhiêu câu và trừ hai hồi tăng so với CB, còn lại 57 hồi Hoa tiên giảm so với CB rất nhiềutỷ lệ giảm chung gần 55%, quá một nửa số câu” [1-164,165]. Ở phương diện này, trong Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng đã có một bản phụ lục trình bày khái lược. Chúng tôi xin thống kê lại và diễn đạt cụ thể hơn về vấn đề này (nhất là ở những hồi chúng tôi đã cùng nhà nghiên cứu dịch lại), đồng thời có sửa chữa một số chi tiết nhỏ nhầm lẫn trong bản phụ lục (ví dụ: thống kê sai số câu dẫn đến chia tỷ lệ sai). Hồi thứ nhất (Hoa tiên đại ý), số câu của CB là 32, ở truyện HTK là 24 (giảm 25%). Ở hồi này, trong truyện HTK không có những câu nói về chuyện khoái lạc trăng gió ở CB, mà Nguyễn Huy Tự thêm một số câu tả về Ấn Ba, đồng thời nói thêm về tính hiếu đễ của Lương Sinh. Hồi thứ 2 (Bái mẫu đăng trình), số câu của CB là 46, truyện HTK là 20 (giảm 57%). Tác Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 36 giả truyện HTK đã “giảm nhẹ mục đích tìm bạn tình để nói việc Lương Sinh tìm thầy, tìm bạn và mừng sinh nhật mợ” [1-315]. Hồi thứ 3 (Diêu phủ chúc thọ), số câu của CB là 54, của truyện HTK là 14 (giảm 74%). Nguyễn Huy Tự đã chuyển cuộc gặp gỡ giữa hai chàng Lương - Dương xuống hồi 4. Hồi thứ tư (Huynh đệ đàm tình), số câu của CB là 24, của truyện HTK là 4 (giảm 83%). Ở hồi này, Nguyễn Huy Tự không khai thác cuộc nói chuyện của Lương - Dương ở nhiều khía cạnh như CB mà chỉ để hai chàng nói về chuyện phong nguyệt. Hồi thứ 5 (Kỳ biên tương hội), số câu của CB là 82, của truyện HTK là 48 (giảm 41%). Hồi này, sự thay đổi chủ yếu của Nguyễn Huy Tự là về số câu, còn về tình tiết không có gì thay đổi nhiều so với CB. Tác giả chỉ gia tăng thêm một chút trong việc miêu tả sắc đẹp của Dao Tiên. Hồi thứ 6 (Bích Nguyệt thu kỳ), số câu của CB là 74, của truyện HTK là 44 (giảm 39%). Cũng giống như hồi 5, ở hồi 6, Nguyễn Huy Tự vẫn giữ nguyên tình tiết của CB, tác giả truyện HTK chỉ sửa lại lời nói của nhân vật Lương Sinh và Bích Nguyệt sao cho nhã hơn. Hồi thứ 7 (Lương Sinh si tưởng), số câu của CB là 28, của truyện HTK là 14 (giảm 50%). Ở hồi này, Nguyễn Huy Tự giảm tình tiết và thay đổi phần nào tính tư tưởng của nhân vật Lương Sinh. Nếu như CB nhân vật Lương Sinh sau khi nhìn thấy một nàng Dao Tiên “dung trang tuyệt chừng” đã si mê và tưởng nhớ đến mức muốn nghĩ ngay ra thủ đoạn để mà “thâu hương”, thì ở truyện HTK, Lương Sinh chỉ si mê ngây dại mà không nghĩ đến thủ đoạn trộm hương như CB. Hồi thứ 8 (Lương Sinh vấn cấm), số câu của CB là 58, của truyện HTK là 38 (giảm 35%). Ở hồi này, Nguyễn Huy Tự giữ nguyên tình tiết như CB. Hồi thứ 9 (Bộ nguyệt tương tư), số câu của CB là 44, của truyện HTK là 20 (Giảm 55%). Ở hồi 9, tác giả truyện HTK giữ tình tiết như CB, nhưng cũng giống như hồi 7, ở hồi này, Nguyễn Huy Tự chỉ uốn nắn thêm một chút về tư tưởng của nhân vật Lương Sinh. Ông bỏ khá nhiều câu nói đến những thủ đoạn để đến được với người đẹp trong CB. Hồi thứ 10 (Hồi phủ tố tình), số câu ở CB là 58, của truyện HTK là 30 (giảm 48%). Hồi 10, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết như CB, nhưng ông tạo cho nhân vật Dao Tiên một phong thái khuê các, dịu dàng hơn, chứ không có phần chua ngoa như CB. Hồi thứ 11 (Phỏng mại thư phòng), số câu của CB là 59 (kể cả hai câu chuyển ý ở đầu hồi), của truyện HTK là 30 (giảm 49%). Trong hồi này, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết như CB, nhưng ông giảm khá nhiều số câu tả về cảnh vật nơi ở mới của Lương Sinh trong CB. Hồi thứ 12 (Bái phỏng họa thi), số câu của CB là 87, của truyện thơ HTK là 52 (giảm 40%). Ở hồi thứ 12, tác giả truyện HTK giữ tình tiết tiết như CB, nhưng tác giả truyện đã đặc biệt chuyển ngôn ngữ từ kể lể quá chi tiết trong CB sang “tả và gợi” trong HTK. Ngoài ra ở câu thứ ba trong bài thơ họa của Lương Sinh, ở truyện HTK có khác một chữ so với CB, đó là chữ “chu môn” (HTK) và “chu gian” (CB). Hồi thứ 13 (Quy quán tương tư), số câu của CB là 25, của truyện HTK là 20 (giảm 20%). Hồi này, Nguyễn Huy Tự vẫn giữ nguyên tình tiết như CB, và số câu cũng lược ít. Hồi thứ 14 (Chủ tỳ khán thí), số câu của CB là 42, của truyện HTK là 24 (giảm 40%). Vẫn giống các hồi trước, ở hồi 14, Nguyễn Huy Tự giữ nguyên tình tiết của CB. Ông chỉ chuyển ý sao cho thanh thoát và gọn nhẹ hơn. Hồi thứ 15 (Dương gia hồi bái), số câu của CB là 32, của truyện HTK là 28 (giảm 13%). Hồi 15, nhìn chung Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết như CB, số câu cũng giảm ít. Tác giả chỉ có một thay đổi nhỏ về mặt bố cục, đó là đưa việc Dương công ra về xuống đầu hồi 16. Hồi thứ 16 (Phu thê tham tế), số câu của CB là 16, của truyện HTK là 5 (giảm 63%). Hồi này về cơ bản, tác giả truyện HTK vẫn giữ những tình tiết quan trọng của CB như cuộc nói chuyện của Dương ông với Dương bà về Lương Sinh, và việc bàn bạc của họ làm sao Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 37 kén được chàng rể tốt và đăng đối như Lương Sinh. Hồi này Nguyễn Huy Tự chỉ bớt một tình tiết nhỏ, đó là bỏ tình tiết Dương ông nói với vợ về việc mình cho phép Lương Sinh mở cửa sau để thông vườn giữa hai nhà. Hồi thứ 17 (Ngộ tỳ trần tình), số câu của CB là 117, của truyện HTK là 60 (giảm 49%). Ở hồi này vẫn là những tình tiết giống như trong CB, nhưng Nguyễn Huy Tự đã biến phần lớn văn kể của CB thành văn đối thoại trong truyện HTK. Hồi thứ 18 (Khuê môn đạt tình), số câu của CB là 62, của truyện HTK là 32 (giảm 49%). Cũng giống như hồi trước, ở hồi 18, tình tiết trong truyện HTK vẫn là của CB, nhưng tác giả Nguyễn Huy Tự đã chuyển văn kể trong CB thành văn đối thoại. Hồi 19 (Phục ngộ Vân Hương), số câu của CB là 78, của truyện HTK là 28 (giảm 64%). Ở hồi này, chúng tôi thấy tình tiết giữa CB và truyện HTK vẫn không có gì thay đổi, nhưng văn của truyện HTK giống như hồi trước đã phần lớn trở thành văn đối thoại thay vì văn kể trong CB. Cụ thể nếu như trong CB, số câu thuộc văn kể là 47, văn đối thoại là 31 (chiếm tỷ lệ 34% số câu trong hồi), thì ở truyện HTK, số câu thuộc văn kể là 14, văn đối thoại là 14 (chiếm tỷ lệ 50%). Hồi thứ 20 (Chủ tỳ khán nguyệt), số câu của CB là 86, của truyện HTK là 58 (giảm 33%). Trong hồi này mặc dù tình tiết vẫn như trong CB, nhưng tâm trạng nhân vật đã được Nguyễn Huy Tự thay đổi chút ít. Nếu như ở CB, Dao Tiên đã có phần chắc chắn về tình yêu, thì ở truyện HTK nàng vẫn còn nhiều nghi ngại: “Giá nào, nào dễ mấy đâu/ Duyên nào, nào biết về sau nhường nào?”. Hồi thứ 21 (Hoa viên phục ngộ), số câu của CB là 91, của truyện HTK là 50 (giảm 45%). Ở hồi này, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết như CB, song ông lược đi nhiều những câu tả quá chi tiết về cảnh vườn. Hồi thứ 22 (Đối hoa tự thán), số câu của CB là 44, của truyện HTK là 4 (giảm 91%). Đây là hồi mà Nguyễn Huy Tự lược nhiều nhất, rất “tiêu biểu cho việc chỉ chuyển ý” của tác giả. Hồi thứ 23 (Chủ tỳ tư đàm), số câu của CB là 94, của truyện HTK là 58 (giảm 39%). Hồi này, tác giả truyện HTK không thay đổi gì nhiều so với CB ngoài việc rút gọn số câu. Hồi thứ 24 (Thệ biểu chân tình), số câu của CB là 225, của truyện HTK là 94 (giảm 59%). Hồi 24, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết của CB, nhưng tư tưởng tình cảm của các nhân vật được ông diễn tả “tế nhị” và nền nã hơn. Hồi thứ 25 (Chu trung hứa thân), số câu của CB là 22 (không kể hai câu chuyển ý ở đầu hồi), của truyện HTK là 32 (tăng 40%). Hồi này đặc biệt ở chỗ, nó là một trong những trường hợp hiếm hoi mà Nguyễn Huy Tự đã tăng số câu so với CB (10 câu), mặc dù ông vẫn không thay đổi gì về tình tiết so với CB. Hồi thứ 26 (Sai bộc tiếp chủ), số câu của CB là 34, của truyện HTK là 16 (giảm 53%). Hồi này, Nguyễn Huy Tự chỉ thay đổi về số câu, còn tình tiết giống như CB. Hồi thứ 27 (Liễu âm khốc biệt), số câu của CB là 78, số câu của truyện HTK là 26 (giảm 70%). Nguyễn Huy Tự ở hồi 27 chỉ giản lược số câu, còn những tình tiết cơ bản của CB như: Lương Sinh gặp Bích Nguyệt, chàng nhờ thị tì này chuyển lời hẹn gặp Dao Tiên giúp, sau đó Dao Tiên và Lương Sinh gặp nhau dặn dò, hẹn ước, chia tay vẫn được ông giữ nguyên. Hồi thứ 28 (Hồi gia kiến phụ), số câu của CB là 18, của truyện HTK là 20 (tăng 11%). Cũng giống như hồi 25, hồi này số câu của truyện HTK tăng so với CB (2 câu), còn tình tiết vẫn giữ nguyên như CB. Hồi thứ 29 (Đối nguyệt tự thán), số câu của CB là 97, của truyện HTK là 14 (giảm 85%). Hồi này Nguyễn Huy Tự giữ ý chính của CB, còn số câu ông lược đi rất nhiều (83 câu). Hồi thứ 30 (Văn hôn mạ tỳ), số câu của CB là 76, của truyện HTK là 28 (giảm 73%). Cũng giống như đa số hồi trước, trong hồi 30, Nguyễn Huy Tự cũng lược nhiều và chỉ giữ lại tình tiết chính của CB. Hồi thứ 31 (Phòng trung hóa vật), số câu của CB là 52, của Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 38 truyện HTK là 18 (giảm 71%). Mặc dù ở hồi này, Nguyễn Huy Tự vẫn giữ tình tiết của CB, nhưng những biểu hiện của nhân vật Dao Tiên trong truyện khác một chút so với CB. Nếu như Dao Tiên của CB đau khổ tột độ đến mức muốn đốt hết kỷ vật hòng chôn vùi mối tình tưởng như không thể chia lìa của nàng với Lương Sinh, thì Dao Tiên trong truyện của Nguyễn Huy Tự cũng có tâm lý như vậy. Nhưng sự khác biệt ở đây chính là hành động và ngôn từ của Dao Tiên ở hai tác phẩm không hoàn toàn tương đồng. Trong CB, ngôn ngữ và hành động của Dao Tiên không quyết liệt và mạnh mẽ như Dao Tiên trong truyện HTK, nó chỉ gợi cho người đọc cảm nhận sự thống thiết đau đớn của Dao Tiên khi nàng nghĩ rằng mình bị tình phụ, còn ở truyện HTK, chúng ta còn cảm nhận được sự giận dỗi, hờn oán của nàng với chàng Lương với số lượng lớn những câu hỏi tu từ như: “Cầm nào kẻ biện thiêng tai/ Dù say, ai với ai nài điều say?/ Cờ nào kẻ đấu ngang tay/ Dù mê, ai với ai vầy cuộc mê?/ Thơ nào kẻ họa vần quê/ Giấy kia dù xướng nên đề ai liên?/ Vẽ nào kẻ nhận nét truyền/ Bút kia dù trạng nên phiền ai xem?.../ Sạch sanh phó trận lửa hồng”. Hồi thứ 32 (Văn gia thăng nhậm), số câu của CB là 20, của truyện HTK là 12 (giảm 40%). Tương tự như các hồi trên, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết chính và giảm số câu. Hồi thứ 33 (Thác quyến Tiền nha), số câu của CB là 34, của truyện HTK là 18 (giảm 47%). Trong hồi này, Nguyễn Huy Tự cũng giữ tình tiết chính của CB và giảm số câu. Hồi thứ 34 (Phục vãng Tràng Châu), số câu của CB là 92, của truyện HTK là 38 (giảm 59%). Số câu của truyện HTK trong hồi này vẫn trong xu thế giảm khá nhiều so với CB, còn tình tiết tác giả Nguyễn Huy Tự vẫn giữ nguyên. Hồi 35 (Văn gia tao khốn), số câu của CB là 36 (không kể hai câu ở đầu hồi dùng để chuyển ý), của truyện HTK là 18 (giảm 50%). Tình tiết của truyện HTK trong hồi này không có gì thay đổi nhiều so với CB. Tác giả Nguyễn Huy Tự chỉ lược giản số câu và bỏ một tình tiết, đó là việc Dao Tiên than thở về kiếp hồng nhan của mình (“Trộm nghĩ mệnh ta đã bạc như tờ giấy/Hồng nhan bạc mệnh người xưa đã nói như thế”), đồng thời thêm một câu mang tư tưởng nhà Phật (“Kiếp trước chưa tu kiếp này khốn khổ”). Hồi thứ 36 (Diêu Sinh khuyến thí), số câu của CB là 38, của truyện HTK là 20 (giảm 47%). Trong hồi 36 này, Nguyễn Huy Tự chỉ giản lược câu còn giữ tình tiết chính của CB. Hồi thứ 37 (Đồng phó thu vi), số câu của CB là 20, của truyện HTK là 18 (giảm 10%). Hồi này số câu của truyện HTK giảm ít so với CB (2 câu). Về cơ bản, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết chính của CB, tác giả chỉ bỏ một chi tiết nhỏ, đó là chi tiết Diêu Sinh từ biệt cha mẹ cùng Lương Sinh lên đường đi thi. Hồi thứ 38 (Thiên khai văn vận), số câu của CB là 46, số câu của truyện HTK là 38 (giảm 17%). Giống hồi 37, ở hồi này số câu của truyện HTK cũng giảm không nhiều so với CB, tình tiết vẫn được giữ nguyên, chỉ khác một chi tiết nhỏ, đó là Diêu Sinh trong CB đỗ kỳ thi Hương ở vị trí thứ 30, còn Diêu Sinh trong truyện HTK cũng ở kỳ thi này, chàng thi và đỗ ở vị trí thứ 5. Hồi thứ 39 (Hàn uyển trùng phùng), số câu của CB là 230, của truyện HTK là 92 (giảm 60%). Tác giả Nguyễn Huy Tự giữ nguyên tình tiết của CB, nhưng ông giản lược nhiều câu hai nhân vật Lương Sinh và Dao Tiên kể về những việc đã xảy ra, đồng thời chuyển một số câu đầu của hồi 40 trong CB lên thành những câu cuối của hồi này. Hồi thứ 40 (Tấu chỉ chinh Phiên), số câu của CB là 22, của truyện HTK là 8 (giảm 63%). Hồi này, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết chính của CB, giản lược về cơ bản những câu kể về tình cảnh của Lương Sinh ở chiến trường, còn tên hồi thì thay đổi một chữ (“Tấu” ở CB sang “Phụng” ở truyện HTK). Hồi thứ 41 (Lương Sinh bị khốn), số câu của CB là 36, của HTK là 8 (giảm 78%). Tình tiết trong CB ở hồi này vẫn được tác giả truyện HTK giữ nguyên. Tuy nhiên Nguyễn Huy Tự đã giản Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 39 lược khá nhiều số câu của CB, đặc biệt là những câu tả về cảnh giao chiến ở nơi sa trường. Hồi thứ 42 (Biệt sầm giải lương), số câu của CB là 22, của truyện HTK là 4 (giảm 82%). Đây là một trong những hồi mà Nguyễn Huy Tự lược nhiều nhất. Tác giả chỉ giữ tình tiết chính còn giảm 38 câu so với CB, đặc biệt là nhân vật Diêu Sinh cũng tỏ ra cứng cỏi hơn nhân vật Diêu Sinh ở CB. Chàng có kể lại tình cảnh của chàng Lương nhưng không khóc lóc đau đớn như Diêu Sinh trong CB. Hồi thứ 43 (Vân Hương báo chủ), số câu của CB là 92, của HTK là 22 (giảm 76%). Ở hồi này, Nguyễn Huy Tự chỉ giản lược cơ bản về số câu, còn tình tiết trong CB được ông giữ nguyên. Hồi thứ 44 (Văn nhi thân táng), số câu của CB là 24, của truyện HTK là 8 (giảm 65%). Hồi 44, Nguyễn Huy Tự vẫn giữ tình tiết chủ yếu của CB và giản lược về số câu so với CB, song thay đổi một chữ ở tên hồi (CB là “Văn nhi”, truyện HTK là “Văn Lương”). Hồi thứ 45 (Ngọc Khanh tư tiết), số câu của CB là 79, của HTK là 18 (giảm 76%). Hồi này, Nguyễn Huy Tự cũng giữ ý chính của CB nhưng tác giả giản lược số câu nói về lời khuyên của a hoàn với Ngọc Khanh, và những câu nói về “lẽ thường khi người phụ nữ chết chồng”. Hồi thứ 46 (Lương Sinh nghị kế), số câu của CB 34, của truyện HTK là 8 (giảm 77%). Trong hồi 46, ngoài việc chuyển ý và giản lược số câu so với CB, Nguyễn Huy Tự còn chuyển hai câu đầu ở hồi 47 lên thành hai câu cuối của hồi này. Hồi thứ 47 (Lưu phủ bức hôn), số câu của CB là 110 (không kể hai câu chuyển ý ở đầu hồi), số câu của truyện HTK là 32 (giảm 70%). Nguyễn Huy Tự trong hồi này vẫn giữ những tình tiết chính của CB, nhưng tác giả lược đi rất nhiều những câu kể quá chi tiết về Lam công tử. Hồi thứ 48 (Ngọc Khanh đầu giang), số câu của CB là 74, của truyện HTK là 18 (giảm 75%). Ở hồi 48, Nguyễn Huy Tự “giữ ý chính như CB, lược nhiều chi tiết phụ”. Hồi thứ 49 (Đề học cứu vấn), số câu của CB là 80, của truyện HTK là 20 (giảm 75%). Hồi này, tình tiết của CB vẫn được Nguyễn Huy Tự giữ đầy đủ, nhưng những câu mà nhân vật Ngọc Khanh kể về hoàn cảnh của mình đã được tác giả truyện HTK lược về cơ bản. Hồi thứ 50 (Văn báo tầm thi), số câu của CB là 26, của HTK là 8 (giảm 69%). Hồi thứ 50 của CB kể một cách chi tiết, tường tận sự việc xảy ra, còn ở truyện HTK, Nguyễn Huy Tự lược đi rất nhiều câu kể sự việc của CB, tác giả chỉ giữ nội dung chính. Hồi thứ 51 (Tiễn truyền cơ mật), số câu của CB là 46 (không kể hai câu chuyển ý ở đầu hồi), của HTK là 24 (giảm 48%). Hồi này, tác giả Nguyễn Huy Tự đã lược đi rất nhiều câu kể về việc Diêu Sinh trình báo quan Tổng trấn, xin binh, rồi thám thính tình hình quân rợ Hồ, hay làm lễ tế trời đất. Ông chỉ giữ lại những ý chính cần thiết của hồi. Ngoài ra tác giả truyện HTK còn đưa việc Lương Sinh nhận được tên thư của người em họ Diêu lên phần cuối của hồi này. Hồi thứ 52 (Tấu khải hồi triều), số câu của CB là 54, của truyện HTK là 6 (giảm 89%). Trong hồi thứ 52, Nguyễn Huy Tự đã giảm khá nhiều số câu so với CB. Ông chỉ giữ những tình tiết chính (như: Diêu, Dương, Lương cùng hợp lực tấn công quân Hồ; quân Hồ thất bại thảm hại; ba người lập biểu thắng trận rồi "chân nưng khải hoàn"), và giản lược đến tối đa những câu miêu tả trận chiến ở CB. Hồi thứ 53 (Dao Tiên văn hỉ), số câu của CB là 40 (không kể hai câu chuyển ý ở đầu hồi), số câu của truyện HTK là 6 (giảm 86%). Hồi này ở nguyên bản chữ Nôm, Nguyễn Huy Tự không đề tên hồi, ở bản phiên âm ra chữ quốc ngữ thì tên hồi giống CB. Về nội dung chính của hồi, tác giả truyện HTK cơ bản vẫn giữ nguyên như CB (đó là Dao Tiên nhận được tin mừng cha mình cũng như chàng Lương vẫn còn sống, đã chiến thắng giặc Hồ và đang trở về trong vinh quang). Tuy nhiên, tác giả đã lược đi rất nhiều những câu tả tâm trạng đau khổ của Dao Tiên trước khi nhận được tin báo của Vân Hương. Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 40 Hồi thứ 54 (Thánh chỉ giai phong), số câu của CB là 28, của truyện HTK là 10 (giảm 63%). Hồi 54, Nguyễn Huy Tự lược bỏ tình tiết so với CB. Nếu như CB ngoài việc nói về chuyện ba người Dương, Lương, Diêu được vua phong thưởng, còn thuật lại việc họ trên đường đi từ chiến trường trở về kinh đô đã bàn luận một số chuyện, trong đó có chuyện Diêu Sinh đã kể mình tình nguyện xin vua đi cứu Dương, Lương như thế nào, đồng thời tác giả CB cũng chỉ rõ thành đô mà họ trở về là Yên Kinh; thì trong truyện HTK, Nguyễn Huy Tự chỉ giữ tình tiết vua được tin và đã ban thưởng hậu hĩnh cho Lương, Dương, Diêu (họ đều được phong liệt hầu và con cháu đời sau được tập ấm). Hồi thứ 55 (Lưu cữu tố tình), số câu của CB là 24, số câu của truyện HTK là 22 (giảm 8%). Đây là hồi mà số câu của hai tác phẩm gần như tương đương nhau. Nguyễn Huy Tự chỉ thay đổi một chút về bố cục, đó là tác giả đưa việc Dương công đến khuyên Lương Sinh làm biểu tâu xin vua ban biển trinh tiết cho Ngọc Khanh từ đầu thứ 26 lên cuối hồi này. Hồi thứ 56 (Thánh chỉ vi môi), số câu của CB là 46, số câu của truyện HTK là 16 (giảm 65%). Vì Nguyễn Huy Tự đã đưa tình tiết Dương công khuyên Lương Sinh xin vua phong biển trinh tiết cho Ngọc Khanh lên hồi 55, nên hồi này ở truyện HTK chỉ còn sự kiện Dương công tâu với vua về gia cảnh của mình, và nhà vua đã đứng ra làm mối cho Lương Sinh và Dao Tiên. Hồi thứ 57 (Phụng chỉ nghinh thân), số câu của CB là 19, của truyện HTK là 14 (giảm 27%). Hồi này, Nguyễn Huy Tự lược không nhiều (chỉ 5 câu). Tuy nhiên tác giả không nói cụ thể Lương Sinh đón người thân như ở CB, chỉ chú trọng nói về hôn lễ của Lương Sinh và Dao Tiên. Tên hồi, vì thế, đã được tác giả sửa một chữ so với CB (từ "nghinh thân" ở CB sang "nghinh hôn" ở truyện HTK). Hồi thứ 58 (Long gia tấu hôn), số câu của CB là 34, của truyện HTK là 30 (giảm 12%). Trong hồi này, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết như CB và lược ít. Hồi 59 (Dao Tiên khuyến thú), số câu của CB là 18, của truyện HTK là 10 (44%). Ở hồi này, Nguyễn Huy Tự giữ tình tiết chính của CB, nhưng tác giả lược bớt những câu Lương Sinh kể với Dao Tiên về tấm lòng chung thuỷ của Ngọc Khanh đối với mình. Hồi thứ 60 (Song phụng đoàn viên), số câu của CB là 56, của truyện HTK là khoảng trên 30 (giảm khoảng 54%). Ở hồi cuối cùng này, Nguyễn Huy Tự giữ không khí đoàn viên đầy viên mãn của câu chuyện tình trong CB, nhưng ông có thay đổi một số chi tiết. Thứ nhất, Dương công, ở truyện HTK về trí sĩ cùng ngày Lương, Dương vinh quy. Thứ hai, Lương Sinh sau khi thành hôn đã cùng Diêu Sinh đưa vợ về Tràng Châu và Ngô Giang. Còn chi tiết cuối nói về nhà họ Lưu vì ở truyện HTK bị rách nên chúng tôi cũng không biết nó có giống với tình tiết của CB hay không. Như vậy qua sự thống kê so sánh và phần nào sự phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa CB và truyện HTK ở phương diện này, chúng tôi nhận thấy: Thứ nhất, về cốt truyện, bố cục, tên hồi hầu như Nguyễn Huy Tự không có thay đổi gì nhiều so với CB. Để phục vụ ý tưởng nghệ thuật và tư tưởng, tác giả chỉ thêm bớt một số tình tiết nhỏ, hoặc sửa một số từ trong tên hồi. Thứ hai, vì đặc trưng của thể loại là một mặt giữ vững cốt truyện, một mặt phát huy tối đa tính trữ tình, chất thơ của câu chuyện, nên Nguyễn Huy Tự đã gọt bớt khá nhiều dung lượng của tác phẩm vay mượn. Đặc biệt tính cô đọng hàm súc của lời thơ đã được ông thể hiện rõ nét. Mặc dù cũng có nhà nghiên cứu (như Đào Duy Anh) có cảm giác rằng có những chỗ Nguyễn Huy Tự giản lược quá khiến cho “nội tâm nhân vật hoá sơ sài”, nhưng nhìn chung, về cơ bản, Nguyễn Huy Tự đã làm tốt thao tác này. Người đọc khi tiếp cận tác phẩm vẫn cảm nhận được trọn vẹn câu chuyện tình yêu của tài tử giai nhân. Hơn thế nữa với những sáng tạo bất ngờ (như vận dụng ngôn ngữ dân tộc mình, văn hoá nước mình), Nguyễn Huy Tự đã cho thấy bản Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 41 lĩnh của nhà sáng tác, bản lĩnh dân tộc trong khi tiếp nhận nền văn hoá, văn học nước ngoài để sáng tác văn học, đồng thời mở ra một xu hướng chuyển thể đầu tiên cho những truyện Nôm bác học sau này được sáng tác dựa trên những tác phẩm văn học nước ngoài. Đó là giữ tình tiết chính, giản lược tình tiết phụ và tăng cường chất thơ cho tác phẩm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Lại Văn Hùng (2000), Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Nxb Khoa học xã hội, H. [2]. Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú, Tĩnh Tịnh Trai bình đính, Thư viện Viện thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu P.705 (Bản chụp của PGS Phạm Tú Châu). [3]. Nguyễn Huy Tự - Nguyễn Thiện (1961), Truyện Hoa tiên. Lại Ngọc Cang khảo đính và giới thiệu, Nxb Văn hóa, Viện Văn học, H. SUMMARY TU TUONG ĐE BAT TAI TU TIEN CHU AND HOA TIEN KY IN COMPARISON OF PLOT, DISPOSITION, VERSES, ACT NAMES Ngo Thi Thanh Nga College of Education – Thai Nguyen University Under the same feelings and emotions, Nguyen Huy Tu adapted Hoa tien ky from Tu tuong de bat tai tu tien chu (Ca ban). But with unique aesthetic ideal and literature tradition, the author of Hoa tien ky left a special impression of creativity in terms of many aspects, such as genre, character building, first-person narrative modeIn this article, we focus on studying the small changes of plot, details, disposition, verses, act names of Hoa tien ky in compared with Tu tuong de bat tai tu tien chu. Although these aspects did not show fully the talent of Nguyen Huy Tu like the others, they played an important role in expressing the author’s artistic ideal as well as the nation’s literature tradition. Keywords: Hoa tien ky - Nguyen Huy Tu - Tu tuong đe bat tai tu tien chu - Nom story – compare Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 35 - 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 42
File đính kèm:
- tu_tuong_de_bat_tai_tu_tien_chu_va_truyen_tho_nom_hoa_tien_k.pdf