Tổng đốc Đặng Văn Thiêm với vấn đề xây dựng, quản lý đê điều và khắc phục hậu quả sau thiên tai (qua Đại Nam Thực Lục)

Trong số các nhân vật quan lại nhà Nguyễn, một “nguyên lão tứ triều”, làm quan

trải bốn triều: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức và rất mực thanh liêm, đó

là Tổng đốc Đặng Văn Thiêm. Gần 40 năm làm quan, bôn ba khắp nơi, ông đã

để lại nhiều dấu ấn trên con đường phát triển của đất nước. Thành công và tủi

hận chốn quan trường với nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, song nổi bật hơn

cả Đặng Văn Thiêm là một vị Tổng đốc luôn tận tụy vì cuộc sống của nhân dân.

Bài viết dựa trên những ghi chép trong Đại Nam thực lục của Quốc sử quán

triều Nguyễn, phác họa phần nào góc chân dung của ông cùng những dấu ấn

trong cách thức xây dựng, quản lý đê điều cũng như những đóng góp của ông

cho các quyết sách nuôi dân.

pdf 12 trang kimcuc 16800
Bạn đang xem tài liệu "Tổng đốc Đặng Văn Thiêm với vấn đề xây dựng, quản lý đê điều và khắc phục hậu quả sau thiên tai (qua Đại Nam Thực Lục)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng đốc Đặng Văn Thiêm với vấn đề xây dựng, quản lý đê điều và khắc phục hậu quả sau thiên tai (qua Đại Nam Thực Lục)

Tổng đốc Đặng Văn Thiêm với vấn đề xây dựng, quản lý đê điều và khắc phục hậu quả sau thiên tai (qua Đại Nam Thực Lục)
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (251) 2019 
66 
TỔNG ĐỐC ĐẶNG VĂN THIÊM 
VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU 
VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ SAU THIÊN TAI 
(QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC) 
 VƯƠNG THỊ HƯỜNG* 
Trong số các nhân vật quan lại nhà Nguyễn, một “nguyên lão tứ triều”, làm quan 
trải bốn triều: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức và rất mực thanh liêm, đó 
là Tổng đốc Đặng Văn Thiêm. Gần 40 năm làm quan, bôn ba khắp nơi, ông đã 
để lại nhiều dấu ấn trên con đường phát triển của đất nước. Thành công và tủi 
hận chốn quan trường với nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, song nổi bật hơn 
cả Đặng Văn Thiêm là một vị Tổng đốc luôn tận tụy vì cuộc sống của nhân dân. 
Bài viết dựa trên những ghi chép trong Đại Nam thực lục của Quốc sử quán 
triều Nguyễn, phác họa phần nào góc chân dung của ông cùng những dấu ấn 
trong cách thức xây dựng, quản lý đê điều cũng như những đóng góp của ông 
cho các quyết sách nuôi dân. 
Từ khóa: Đặng Văn Hòa, Đặng Văn Thiêm, Tổng đốc, đê điều, lũ lụt, nhà Nguyễn 
Nhận bài ngày: 10/5/2019; đưa vào biên tập: 18/5/2019; phản biện: 24/5/2019; 
duyệt đăng: 10/8/2019 
1. DẪN NHẬP 
Đặng Văn Thiêm hay còn gọi là Đặng 
Văn Hòa (1791 - 1856) hiệu Lễ Trai, 
ngƣời thôn Thanh Lƣơng, xã Bắc 
Vọng, huyện Quảng Điền (nay thuộc 
xã Hƣơng Xuân, huyện Hƣơng Trà 
tỉnh Thừa Thiên Huế). Ông là con 
trƣởng của danh sƣ Đặng Quang 
Tuấn và bà Phan Thị Hãn. 
Đặng Văn Thiêm tuy đỗ đạt từ lúc còn 
trẻ nhƣng với năng lực cùng tƣ chất 
dám chịu trách nhiệm của ông đƣợc 
ngƣời đƣơng thời đánh giá cao. Lúc 
ông mới tham gia quan trƣờng, vua Minh 
Mệnh còn có chút e ngại vì thấy ông 
nhỏ tuổi nhƣng những vị quan dày 
dặn kinh nghiệm của triều Nguyễn 
nhìn thấy tố chất tốt đẹp, dám làm 
dám chịu trách nhiệm của ông nên đã 
nhiều lần tiến cử. Nhà vua từng băn 
khoăn khi giao trọng trách cho Đặng 
Văn Thiêm vì: “Thiêm làm việc đƣợc, 
nhƣng còn ít tuổi” nhƣng quan đại 
thần Lê Chất(2) tâu rằng: “Bình tính 
thật thà, có đại thể, Thiêm có tài mẫn 
cán, hai ngƣời(3) cùng giúp nhau có 
thể làm nổi việc” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2007, tập 2: 306). 
Làm quan trải bốn triều nhà Nguyễn 
(Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự 
* 
Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 
VƢƠNG THỊ HƢỜNG – TỔNG ĐỐC ĐẶNG VĂN THIÊM 
67 
Đức), Đặng Văn Thiêm đã có nhiều 
đóng góp trên các mặt trận: kinh tế, 
văn hóa, chính trị Đặc biệt, với trọng 
trách Tổng đốc của nhiều tỉnh phía 
Bắc, ông để lại thành tựu trong công 
cuộc kiến thiết: vẽ địa giới tỉnh Hà Nội, 
xây dựng trƣờng thi, bãi bỏ thuế khóa, 
mở rộng tịch điền, sửa chữa tổ chức 
sắp xếp phố phƣờng, xây dựng và 
bảo vệ đê điều 
Trong khoảng 20 năm, từ năm 1832 - 
1852, Đặng Văn Thiêm giữ chức Tổng 
đốc của nhiều tỉnh: Tổng đốc Nam 
Định - Hƣng Yên, Tổng đốc Hà Nội - 
Ninh Bình, Tổng đốc Bình Định - Phú 
Yên, Tổng đốc Gia Định - Biên Hòa. 
Từ năm 1853 đến năm 1856 ông 
đƣợc cử làm Tổng tài Quốc sử quán, 
làm Tổng vựng bộ Khâm Định Đại 
Nam hội điển sự lệ, sƣu tầm thơ dân 
gian biên soạn sách Nam thổ anh hoa 
lục Khi mất ông đƣợc vua Tự Đức 
truy tặng danh hiệu Văn Minh điện Đại 
học sĩ, ban thụy Văn Nghị. Ông đƣợc 
sĩ phu Bắc Hà kính phục; nhân dân tin 
tƣởng, ngƣỡng mộ. 
2. ĐẶNG VĂN THIÊM VỚI VIỆC XÂY 
DỰNG VÀ QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU 
Nói con đƣờng hoạn lộ của Đặng Văn 
Thiêm gắn liền với việc quản lý đê 
điều, khơi dòng chảy là bởi những 
thành công trong cuộc đời ông cũng 
nhƣ thành tích đƣợc nhiều lần vua 
ban khen đều gắn với những thành 
tựu đó. Có thể ở lĩnh vực quân sự hay 
dẹp phỉ loạn ông còn có điều chƣa 
ƣng ý nhƣng những công việc liên 
quan đến thăm khám, đắp đê, đào 
sông, khơi thông dòng chảy phục vụ 
cho đời sống dân sinh thì hầu nhƣ 
ông chƣa mắc phải sai lầm. Đặng Văn 
Thiêm thƣờng đích thân đi thực địa 
trong địa hạt mình quản lý để khám 
xét, đo đạc, hỏi thăm kinh nghiệm sản 
xuất cũng nhƣ đời sống của nhân dân, 
từ đó đƣa ra những kế sách phù hợp, 
phòng ngừa, hạn chế tối đa thiệt hại 
do thiên tai. 
Khi đƣợc giao làm Thự Tổng đốc Định - 
Yên ông đã nhiều lần đi thăm khám đê 
điều, phát hiện những điểm sạt lở, tìm 
hiểu thế nƣớc lên xuống của từng 
khúc sông rồi đƣa ra kế hoạch tu bổ, 
xây dựng. Những tờ tâu bẩm của ông 
báo về triều đình cho thấy ông là một 
con ngƣời mẫn cán, không ngại khó, 
lăn lộn với thực địa để chủ động nắm 
chắc tình hình thực tế: “Đặng Văn 
Thiêm tâu: Một dải sông Hoàng Giang 
ở bên tả tỉnh thành nƣớc chảy xô 
mạnh, đã từng đào sông mới để rút 
bớt thế nƣớc. Mùa xuân này mƣa lụt, 
có một đoạn sông cũ dài hơn 190 
trƣợng, lƣợn vòng nhƣ hình cánh 
cung, nhiều chỗ sạt lở. Vậy xin đến 
mùa đông, nƣớc lụt rút xuống thì 
trƣớc hết mở rộng thêm 2 bên cửa 
sông mới, mỗi bên 3, 4 trƣợng để thu 
lấy dòng nƣớc. Lại đắp mỏ kè ở chỗ 
sụt lở chống nƣớc chảy xói” (Quốc sử 
quán triều Nguyễn, 2007, tập 3: 463). 
Nhờ những biện pháp cụ thể do ông 
đƣa ra nên đoạn đê bị sạt lở đƣợc bồi 
đắp, không gây tổn hại cho dân trong 
mùa mƣa lũ. 
Hiểu về về những con đê, hiểu về quy 
luật dòng chảy nhƣng ông không chủ 
quan, áp đặt suy nghĩ của mình mà 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (251) 2019 
68 
luôn tôn trọng những kinh nghiệm của 
ngƣời dân tại vùng lũ lụt để có những 
biện pháp phù hợp, đem lại hiệu quả 
thiết thực. Đây có lẽ cũng là bài học 
cho những ngƣời làm công tác 
khuyến nông, khuyến lƣơng đời sau. 
Tại tỉnh Nam Định, hạ lƣu của sông 
Cái chia ra chảy về các cửa biển Liêu 
Lác, Ba Lạt, Trà Lý. Trong đó cửa Ba 
Lạt và cửa Liêu đƣờng nƣớc quanh 
co; còn đƣờng sông chảy qua cửa 
Lác thì thẳng, vì thế sức nƣớc đổ ra 
biển ở những nơi này mạnh yếu khác 
nhau. Tuy nhiên mực nƣớc thủy triều 
lên xuống chênh nhau cũng không 
nhiều, các cửa biển thƣờng có cồn cát, 
lại có những bãi cát ngầm. Hàng năm 
cả hai cửa sông Liêu, Lác đều bị đất 
cát, phù sa bồi dần. Nhƣng suốt từ 
các cửa Liêu Lác, Ba Lạt, đến các cửa 
Trà Lý, Diêm Hộ đều không có đê điều 
giữ lụt. Các cửa biển cạn, thuyền bè 
không tiện qua lại, đến lúc mƣa to thì 
nƣớc bị ngăn trở thoát ra biển nên bị 
ứ lại, tràn ngƣợc vào khu dân cƣ gây 
ngập úng. Đặng Văn Thiêm đã phải 
đến tận nơi, đo đạc kỹ mức nƣớc lên 
xuống: “Cửa Liêu chỗ nông lúc nƣớc 
lên thì trên dƣới 7 thƣớc 5 tấc, lúc 
nƣớc xuống thì trên dƣới 2 thƣớc 5 
tấc. Cửa Lác, chỗ nông, khi nƣớc lên, 
trên dƣới 5 thƣớc 8 tấc, lúc nƣớc 
xuống trên dƣới 2 thƣớc 1 tấc)” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007, 
tập 3: 479). Phân tích kỹ tình hình, 
làm thử mô hình, rút kinh nghiệm 
nhƣng ông vẫn không chủ quan mà 
luôn tham khảo ý kiến của dân: “Thự 
Tổng đốc Đặng Văn Thiêm đến tại chỗ 
hỏi ngƣời bản thổ, thì họ đều nói: Cửa 
Lác không thể khơi đƣợc rồi, duy có 
cửa Liêu đi lại còn tiện. Những năm 
trƣớc, đƣờng cảng này vẫn sâu, từ 
khi có cái bãi nổi lên ngăn trở nƣớc 
sông chảy mạnh thành ra cửa sông 
Lạch Ngang chia chảy ra cửa Lác, thế 
nƣớc cửa Liêu dần dần yếu đi, bùn 
cát ngày càng bồi lên nông. Bây giờ 
nên làm cái mỏ kè để lấp Lạch Ngang, 
thì nƣớc thƣợng lƣu chảy thẳng, mới 
có thể đẩy bật cát mà thông ra cửa 
biển” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 
2007, tập 4: 298). Sau khi tham khảo 
ý kiến ngƣời dân, đối chiếu với mực 
nƣớc tại nhiều thời điểm khác nhau, 
Đặng Văn Thiêm đã lựa chọn thời 
điểm và vị trí khơi thông dòng chảy, 
tạo thành luồng đủ cho tàu thuyền qua 
lại và dòng chảy bớt ngƣng trệ, bớt 
gây ngập úng cho dân. Nhờ thăm 
khám kỹ các tuyến đê sung yếu, 
nghiên cứu cặn kẽ nguyên nhân, kết 
hợp với những kiến thức trong lĩnh 
vực thủy nông, lắng nghe ngƣời dân 
sở tại đã khiến ông thu đƣợc thành 
công trong việc trị thủy. 
Việc vƣợt qua những khó khăn trong 
công việc và đạt đƣợc những thành 
công đều xuất phát từ tấm lòng chân 
thành của ông đối với dân. Làm quan 
ông hiểu rằng, dân no ấm thì làng xóm 
mới bình yên. Nếu để dân đói, dân 
khổ thì trộm cƣớp cũng từ đó mà sinh 
ra, thuần phong mỹ tục cũng từ đó mà 
bại hoại. Muốn làm cho dân no ấm thì 
phải tìm kế sinh nhai cho dân. Ngƣời 
dân ở vùng đồng bằng quanh năm 
chân lấm tay bùn, cuộc sống gắn liền 
với đồng ruộng. Thấu hiểu nỗi lòng đó 
của nhân dân nên thân làm quan ở 
VƢƠNG THỊ HƢỜNG – TỔNG ĐỐC ĐẶNG VĂN THIÊM 
69 
tỉnh ông đã dốc hết sức mình làm việc, 
không quản ngày đêm tìm kế sách 
nuôi dân. Tổng đốc Định - Yên Đặng 
Văn Thiêm trăn trở dâng sớ tâu vua: 
“Đê ở kiêm hạt Hƣng Yên đã thôi 
không đắp, hằng năm cứ đến kỳ nƣớc 
to, tràn ngập lên ruộng có khi hàng 
tháng. Làng xóm đƣờng ngõ đi lại 
không thông đồng. Quân cƣớp thừa 
cơ nổi lên, thế tất cũng có. Vậy xin 
đóng lấy 6 chiếc thuyền nhanh nhẹ 
(mỗi chiếc đều dài 2 trƣợng, 3 thƣớc, 
5 tấc, ngang 4 thƣớc 4 tấc, sâu 1 
thƣớc 9 tấc). Mỗi thuyền có thể chở 
đƣợc 2, 3 chục ngƣời, giao cho lính 
thú Tiền quân coi giữ. Từ đó cứ đến 
mùa thu nƣớc to, phải đi tuần tiễu ở 
dân gian. Và, cửa Liêu cũng là nơi 
xung yếu, xin cho đóng 3 chiếc thuyền 
nhanh nhẹ để đi tuần ngoài biển” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007, 
tập 4: 548). 
Đặng Văn Thiêm hết lòng với việc xây 
dựng đê, chống xói lở để nhân dân 
đƣợc yên ổn trồng cấy: “Về ruộng 
mùa cày cấy, chỉ đƣợc 2 phần 10, dân 
lại muốn sửa lại đê, để phòng nƣớc 
lớn. Vả lại việc thôi đắp đê và khơi 
sông cũng thử làm để xem công hiệu. 
Tức nhƣ nƣớc lụt năm nay, so với 
nƣớc lụt năm ngoái, đã giảm đến 6 
thƣớc, mà nƣớc sông xuống mau, rồi 
rút cạn ngay. Về đê bối ở các tỉnh Sơn 
Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định và 
phủ Tiên Hƣng thuộc Hƣng Yên đều 
vững chắc cả” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2007, tập 4: 961). Việc gia cố 
chân đê bằng cách cho kè đá, làm các 
mỏ kè phía trƣớc đã đem lại hiệu quả 
trong việc gìn giữ, bảo vệ chống xói lở: 
“Nay bãi bị lở, khi đến kè đá thì thiết 
tƣởng: nƣớc sông lại nhƣ thƣờng, mà 
sự sụt lở cũng ngƣng lại. Xét nghiệm 
ra, ở chỗ mỏ kè đã lở đến đất cũ, các 
khối đá lộ ra, quả không lở nữa. Vậy 
xin nên thôi không đắp đƣờng quai 
bằng đá nữa” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2007, tập 3: 479). Những vấn 
đề ông nêu trong các bản sớ, rất chi 
tiết cụ thể, đi thẳng vào sự việc, không 
vòng vo, sáo rỗng điều đó chứng tỏ 
ông nắm chắc tình hình. Không nhƣ 
một số vị quan đƣơng thời khác chỉ 
thƣờng ngồi ở công đƣờng dò đoán 
tình hình, ông lại dành mọi thời gian 
để đi xuống kiểm tra đê điều hay tình 
hình đời sống nhân dân dọc ven đê 
Vì lăn lộn tìm hiểu thực địa nên những 
đánh giá về tình hình thực tế của ông 
luôn xác đáng. Và không chỉ dừng lại 
ở ý kiến chủ quan của mình, ông 
không ngần ngại tham khảo ý kiến 
ngƣời dân. Bởi ông cho rằng, nếu chỉ 
một vài lần trong năm đi thăm khám 
thực địa không thể đánh giá hết mức 
độ cụ thể. Ngƣời dân địa phƣơng sẽ 
là ngƣời nắm chắc nhất và có nhiều 
kinh nghiệm nhất đối với mỗi dòng 
chảy, khúc quanh của con đê. Cửa 
Liêu và cửa Lác ở Nam Định là hai 
nơi xung yếu, ngập lụt diễn ra thƣờng 
xuyên, việc khơi thông dòng gặp 
nhiều khó khăn do phù sa bồi đắp. 
Triều đình đã nhiều lần lệnh cho quan 
địa phƣơng xem xét vấn đề này 
nhƣng vẫn chƣa thể giải quyết dứt 
điểm. Sau nhiều lần nghiên cứu, năm 
Nhâm Thìn niên hiệu Minh Mệnh thứ 
13 [1832], Đặng Văn Thiêm một lần 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (251) 2019 
70 
nữa đến tận thực địa khảo sát và 
tham khảo ý kiến của ngƣời dân nơi 
đây. Họ cho biết: “Những năm trƣớc, 
đƣờng cảng này vẫn sâu, từ khi có cái 
bãi nổi lên ngăn trở nƣớc sông chảy 
mạnh thành ra cửa sông Lạch Ngang 
chia chảy ra cửa Lác, thế nƣớc cửa 
Liêu dần dần yếu đi, bùn cát ngày 
càng bồi lên nông. Bây giờ nên làm 
cái mỏ kè để lấp Lạch Ngang, thì 
nƣớc thƣợng lƣu chảy thẳng, mới có 
thể đẩy bật cát mà thông ra cửa biển” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn. 2007, 
tập 3: 479). Chính vì có sự kết hợp 
giữa nghiên cứu thực địa và tham 
khảo ý kiến của dân, lợi dụng sự 
mạnh yếu của dòng nƣớc từng thời 
điểm nên công trình khơi thông dòng 
chảy của ông đã thành công. Cửa 
sông đổ ra biển (cửa Liêu, cửa Lác) 
đã hạn chế đƣợc tắc nghẽn và ngập 
úng. 
Với những vấn đề lớn hơn, ngoài 
tham khảo ý kiến của ngƣời dân, 
Đặng Văn Thiêm cũng không ngại 
ngần học hỏi kinh nghiệm từ những 
ngƣời đồng liêu. Tờ sớ ông tấu với 
triều đình về tình hình đê điều ở Khoái 
Châu năm 1832 đã trở thành cuộc 
thảo luận hết sức cởi mở và có những 
ý kiến đóng góp hữu ích cho công tác 
trị thủy trong địa hạt mà ông đang 
quản lý: “Mọi ngƣời cho rằng nƣớc lụt 
ở hạt Khoái Châu đều theo chỗ vỡ 
chảy rót về Hải Dƣơng, lối nƣớc chảy 
đã có chỗ dồn về, nếu ngăn cản lại, 
thì vít chỗ nọ tất chảy xói vào chỗ kia, 
hạt khác không khỏi có sự đáng lo bất 
ngờ. Vậy đắp đê vẫn là không nên, 
nhƣng bỏ đê mà không lý hội đến thì 
tới kỳ tiểu mãn, nƣớc lụt lên mau, lúa 
chiêm không khỏi có tổn hại” (Quốc 
sử quán triều Nguyễn, 2007, tập 4: 
459). Từ việc tham khảo ý kiến của 
nhiều tầng lớp nhân dân và quan lại 
ông đã có những kế sách phù hợp. 
Mỗi lần đi tuần nắm bắt tình hình ông 
đều vẽ lại sơ đồ từng khúc sông xung 
yếu, phân tích cụ thể nguyên nhân để 
chủ động đối phó với các hiểm họa từ 
thiên nhiên, tránh làm hao tổn sức lực 
của nhân dân. Đối với ông, công việc 
trị thủy không phải lúc nào muốn là có 
thể đắp hay đào hay muốn là có thể 
ngăn dòng dựng đập Bởi dòng 
nƣớc nếu thuận thì sẽ hiền hòa, có 
ích cho muôn dân nhƣng làm trái với 
quy luật, làm trái với tự nhiên thì hiểm 
họa đến từ nƣớc không thể đo đếm 
đƣợc. Và ngƣời dân sẽ là những 
ngƣời gánh chịu thiệt hại nhiều nhất. 
Do đó, mỗi khi làm việc ngăn hay khơi 
dòng đều phải kiểm tra, đánh giá kỹ 
những đƣợc mất và lƣờng trƣớc 
đƣợc hậu quả. Thế nên, các bản tấu 
của Đặng Văn Thiêm về triều đình xin 
ý kiến, bao giờ cũng có những chứng 
lý thuyết phục: “Thần thiết nghĩ: Các 
đoạn đê lƣu bao ngoài huyện Đông 
An hiện nay bị thế nƣớc ở phía hữu 
sông Cái chảy xói vào, dù có đắp lại 
con đê cong ở vòng trong chăng nữa, 
thì đất mới đắp chƣa hoàn thổ, mà 
nƣớc mùa thu vụt tràn lên, thiết tƣởng 
cũng khó mà yên tâm đƣợc. Vả lại, 
những chỗ vỡ ở đê Sài Thị và Sài 
Quất, dòng nƣớc chảy qua các cánh 
đồng, mỗi nơi đều thành một cái ngòi 
nhỏ, chảy qua các huyện Thiên Thi, 
VƢƠNG THỊ HƢỜNG – TỔNG ĐỐC ĐẶNG VĂN THIÊM 
71 
Tiên Lữ và Phù Dung. Nay hỏi những 
kỳ lão và Tổng lý sở tại đều nói: sửa 
đắp đê mới hay đê cũ, công trình 
nặng nhọc và phí tổn công khố cũng 
nhiều, thế mà khó nói trƣớc đƣợc 
rằng có giữ đƣợc chắc chắn hay 
không” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 
2007, tập 3: 1109). 
Các bản tấu đầy sức thuyết phục với 
những phân tích rất rõ ràng của Đặng 
Văn Thiêm cho thấy ông là một nhà 
hoạch định kinh tế giỏi và tận tâm. 
Ông hiểu việc mình làm là một trọng 
trách lớn trƣớc dân, trƣớc triều đình, 
do đó mỗi khi đề xuất công việc ông 
đều điều tra cặn kẽ, tỉ mỉ. Thậm chí 
có những việc sau khi phân tích thấy 
không khả thi, ông kiên quyết không 
cho triển khai: “Đƣờng sông, trên từ 
cửa sông Lạch Ngang, một nhánh 
chảy ra cửa Liêu, dài hơn một nghìn 
trƣợng; bờ mé tây là Kim Sơn thuộc 
Ninh Bình chạy dài đến cửa biển 
Thần Phù thuộc Thanh Ba, lau sậy 
um tùm, địa thế rất xa; bờ mé đông là 
Đại An, Chân Ninh thuộc Nam Định, 
chỗ tiếp giáp có một nhánh chảy ra 
cửa Lác, dài hơn bảy trăm trƣợng; bờ 
mé tây là cồn nổi bờ mé đông thì 
huyện hạt Chân Ninh liền suốt tận 
biển, chỗ nào cũng có bùn cát bồi 
nông. Khi nƣớc triều lên thì thế nƣớc 
mô ... ều. 
Vả lại, bên cạnh cửa sông, có một 
đoạn cồn nhọn dài hơn 140 trƣợng. 
Vậy xin cho đào chỗ ấy mà mở cửa 
sông, thì nƣớc ở trên chảy xuống có 
thể bớt đi, và công trình cũng bớt 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (251) 2019 
72 
đƣợc” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 
2007, tập 3: 861). 
Nhƣ vậy, với tất cả sự nhiệt huyết 
Tổng đốc Đặng Văn Thiêm đã đạt 
đƣợc rất nhiều thành tựu trong công 
cuộc quản lý, bảo vệ đê điều. Nhờ đó 
ngƣời dân trong địa hạt của ông đƣợc 
an toàn tính mệnh, yên ổn làm ăn, tin 
tƣởng vào chính quyền. Từ đây có thể 
nhận thấy bài học vô cùng đắt giá cho 
ngƣời làm công tác quản lý, lãnh đạo 
trong bất kỳ thời kỳ nào cũng phải 
luôn đặt lợi ích của nhân dân trên mọi 
lợi ích trƣớc khi tiến hành làm bất cứ 
nhiệm vụ nào. 
3. ĐẶNG VĂN THIÊM VỚI VIỆC 
KHẮC PHỤC HẬU QUẢ SAU THIÊN 
TAI 
Là một đất nƣớc có truyền thống nông 
nghiệp lâu đời, nền kinh tế lấy sản 
xuất nông nghiệp làm chủ đạo nên 
vấn đề trị thủy có ý nghĩa hệ trọng, 
liên quan trực tiếp tới đời sống của 
nhân dân và an sinh xã hội. Ngay từ 
khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã ra 
lệnh cho tu bổ đê cũ, xây đắp thêm đê 
mới, phát triển mạng lƣới thủy nông. 
Các đời vua sau nhƣ Minh Mệnh, Tự 
Đức đều ban hành nhiều chính sách 
bảo vệ, sửa chữa đê điều. Song do 
thiên nhiên khá khắc nghiệt, nhất là 
khí hậu xứ Bắc Kỳ thƣờng xuyên phải 
đối phó với bão lũ, việc trị thủy không 
phải lúc nào cũng thu đƣợc thắng lợi. 
Để xảy ra các sự cố do thiên tai có 
nhiều nguyên nhân: tác động bất 
thƣờng của môi trƣờng, công trình 
xây dựng chƣa đƣợc khảo sát và tính 
toán kỹ, lƣợng mƣa không ổn định 
Tình hình mƣa lũ, ngập lụt và đặc biệt 
là số lần vỡ đê nghiêm trọng ở miền 
Bắc đƣợc ghi chép và mô tả trong Đại 
Nam thực lục. 
Vỡ đê, mất mùa, nhà cửa bị cuốn trôi, 
đời sống ngƣời nông dân gặp vô vàn 
khó khăn khiến Tổng đốc Đặng Văn 
Thiêm trăn trở rất nhiều. Sau mƣa bão 
ông nhanh chóng cho khắc phục hậu 
quả thiên tai và kịp thời báo cáo với 
triều đình về tình hình đê điều và xin 
chẩn cấp cho dân: năm Quý Tỵ, Minh 
Mệnh năm thứ 14 [1833], “Tổng đốc 
Định - Yên Đặng Văn Thiêm, tâu báo: 
„Đê điều huyện Mỹ Lộc tỉnh hạt bị sạt 
nứt và đê ở xã Phú An, huyện Bình 
Lục thuộc tỉnh hạt Hà Nội ở đầu dòng 
bị vỡ, thế nƣớc chảy mạnh lắm, hiện 
đƣơng hộ, trị‟. Vua dụ rằng: „Hiện nay 
việc hộ đê và việc chẩn cấp đều trọng 
yếu cả. Ngƣơi nên ra sức làm, cho 
đến đƣợc ổn và tốt, mới không phụ 
trọng trách đã giao cho chuyên giữ 
một trấn ở ngoài‟ Tổng đốc Định - 
Yên Đặng Văn Thiêm tâu nói: „Thuộc 
hạt có huyện Thiên Bản (sau đổi là Vụ 
Bản thuộc Nam Định), huyện Ý Yên 
và huyện Phong Doanh, địa thế thấp 
trũng, bị nƣớc lụt tràn ứ, dân gian có 
vẻ kém đói. Vậy đã tạm chi tiền và 
gạo để phát chẩn‟” (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2007, tập 3: 861). 
Ngƣời nông dân sản xuất dựa vào 
thời tiết nên lũ lụt hay hạn hán đều có 
thể khiến đời sống của họ lâm vào 
bƣớc khốn cùng. Tổng đốc Đặng Văn 
Thiêm đã thấu hiểu điều đó nên trong 
công việc ông luôn cân nhắc và sâu 
sát với thời vụ. Năm Minh Mệnh thứ 14 
VƢƠNG THỊ HƢỜNG – TỔNG ĐỐC ĐẶNG VĂN THIÊM 
73 
(1833), đê điều ở một số tỉnh Bắc Kỳ 
bị vỡ, việc gieo cấy không thuận lợi, 
trong khi quan tỉnh Sơn Tây báo cáo 
là “vẫn có thể trồng cấy” nhƣng “Tổng 
đốc Nam Định, Hƣng Yên là Đặng 
Văn Thiêm tâu nói: Thời tiết làm ruộng 
đã muộn, lúa khó cấy giặm đƣợc, mà 
dân hai tỉnh mình có nơi muốn giữ 
nƣớc ứ lại để tiện cày cấy vụ tới”. 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007, 
tập 3: 900). Đặng Văn Thiêm đã phân 
tích, đánh giá kỹ lƣỡng để tránh thiệt 
hại cho dân. Ông cho phép dân bỏ 
qua vụ lúa hè thu năm đó vì thời điểm 
gieo trồng đã muộn, nếu cố tình bắt 
dân cày cấy trái vụ thì thu hoạch 
chẳng đƣợc là bao mà chắc chắc sẽ 
có tổn hại về tiền thóc giống, tiền 
công Cho dân nghỉ, chuẩn bị nguồn 
nƣớc và tập trung chuẩn bị tốt cho vụ 
sau đó mới là kế sách tốt. Và đúng 
nhƣ tính toán của ông, vụ lúa xuân 
năm ấy, dân tỉnh hạt Nam Định đã có 
một mùa bội thu. 
Thƣơng yêu dân nhƣ con của mình, 
đồng thời ông rất ghét bọn quan lại 
sâu mọt, lợi dụng chức vụ để nhũng 
nhiễu, tham ô, bớt xén công quỹ, nhất 
là công quỹ cho các công trình xây 
dựng phục vụ dân sinh. Những vụ 
tham ô ván gỗ, thuyền bè của Lê Văn 
Khôi; sách nhiễu nhân dân trên đƣờng 
đi tuần của Bố chính Nguyễn Đôn Tố 
hay vụ tham ô chi phí đúc tiền của Hộ 
bộ Tả Thị lang Thân Văn Quyền 
đều khiến Đặng Văn Thiêm và các 
quan lại chính trực trong triều rất 
khinh ghét. Không ngại đụng chạm 
đến quan lại sâu mọt, nhiều lần ông 
đã tâu báo với vua. Có lần, vì bức xúc 
việc tiền thuế của nhân dân đóng góp 
đã bị quan lại lợi dụng, chiếm đoạt, 
chậm chễ nộp vào ngân khố hòng trục 
lợi; trong khi nhân dân bị o ép về thời 
gian nộp thuế và nhà nƣớc lại thất thu, 
ông đã thẳng thắn tâu với vua: “Tiền 
và thóc về thuế mùa hạ năm nay và 
thuế năm trƣớc đọng lại hiện nay còn 
thiếu nhiều. Tựu trung có bọn tổng 
dịch (chỉ bọn Cai tổng và Phó tổng) 
hay lại tƣ (chỉ bọn nha lại ở các phủ, 
huyện), cố ý lƣơn khƣơn lòng thòng 
để mong đƣợc miễn; hoặc giả có 
những hƣơng hào, tổng mục, ngầm 
mƣu giữ lại, không chịu đem nộp, há 
nên nhất khái xin hoãn? Duy lúa vụ 
mùa năm nay, gần đây, vì bị lụt, sợ 
khó đƣợc mùa tất cả. Nếu thu thuế 
cả vào mùa đông thì nhân dân không 
khỏi khổ về chạy vạy” (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2007, tập 3: 997). Quan 
lại sâu mọt ngầm liên kết với nhau, 
lợi dụng chính sách của nhà nƣớc để 
xin giảm, miễn thuế cho dân hòng trục 
lợi, thu lấy phần đƣợc miễn giảm đó. 
Ông chỉ rõ nguyên nhân làm cho nhân 
dân đói khổ là do lụt lội, mất mùa 
nhƣng nỗi khốn khổ ấy càng tăng 
hơn khi quan lại các cấp nhũng nhiễu, 
bớt xén tiền thuế, vừa gây khó khăn 
cho ngân khố của nhà nƣớc mà ngƣời 
dân lại không đƣợc hƣởng ƣu đãi của 
triều đình. 
Ông còn đề nghị với vua: quan lại từ 
cấp xã thôn, tổng huyện cho đến hàng 
Bố chính, Án sát phải “nghiêm nhặt 
thu cho bằng đủ”. Ông luôn nhắc nhở 
quan lại dƣới quyền làm việc nghiêm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (251) 2019 
74 
túc, nhất là trong việc hộ đê và cứu 
đói, nếu để xảy ra sơ suất phải chịu 
xử phạt nặng. Quý Tỵ, năm Minh 
Mệnh thứ 14 [1833], mùa thu, tháng 7, 
đê các xã Sài Quất, Sài Thị, Nhuế 
Dƣơng (thuộc huyện Đông An) thuộc 
tỉnh Hƣng Yên, đều vỡ, nhà cửa, của 
cải đều bị chìm ngập đáng lẽ phải hết 
sức hộ đê và cứu dân nhƣng một số 
quan lại dƣới quyền đã không thực 
hiện đúng chức trách và nhiệm vụ. 
Đặng Văn Thiêm đã kiên quyết, không 
dung túng mà còn xử phạt rất nặng. 
Ông báo cáo về triều đình: “Hộ phủ Vũ 
Tuấn, trƣớc hết giáng 4 cấp, Án sát 
Nguyễn Nhƣợc Sơn giáng 2 cấp; 
những viên phái đi hộ đê là Lãnh binh 
Trần Văn Tảo, Quản phủ Nguyễn Văn 
Huy, Tri phủ Nguyễn Văn Hiển đều 
trƣớc phải cách chức tức thì phái thị 
vệ mang cái côn đỏ, do đƣờng trạm đi 
đến đem lũ Trần Văn Tảo đánh 20 
trƣợng, chuẩn cho đến chỗ thợ làm 
gắng sức làm việc để chuộc tội. Và 
đối với việc vớt ngƣời chết đuối, cứu 
đám lửa cháy, không thể trì hoãn 
đƣợc một khắc. Vậy ra lệnh cho Vũ 
Tuấn và Nguyễn Nhƣợc Sơn: một 
ngƣời ở lại, làm việc hàn khẩu chỗ vỡ 
đê, một ngƣời tức tốc tải muối, gạo và 
tiền, chính mình nghiêm đốc các văn 
võ phủ, huyện chia đi đƣờng thủy, 
đƣờng bộ, xét xem chỗ nào hiện đang 
bị ngập lụt thì phát chẩn trƣớc, rồi 
khám rõ tình hình bị tai nạn thƣơng 
tổn tâu tiếp lên” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2007, tập 3: 831). 
Đề xuất xử phạt nặng đối với ngƣời 
không chấp hành nghiêm mệnh lệnh, 
làm việc không dốc sức, hay lợi dụng 
chức vụ để tƣ túi nhƣng Đặng Văn 
Thiêm lại luôn có tấm lòng hết sức trìu 
mến với dân. Bao giờ ông cũng ƣu ái 
đối với ngƣời vì việc chung đứng ra 
gánh vác, đặc biệt là những công việc 
mang lại nguồn lợi cho dân từ các 
công trình đê điều. Ông đã khéo huy 
động đƣợc sức dân nhờ có chính 
sách thƣởng phạt rõ ràng. Việc đắp 
đê hay khơi nguồn chảy là những việc 
lớn, tốn nhiều chi phí và nhiều khi phải 
làm nhanh, gấp, chạy đua với thời tiết 
nhƣng nếu chỉ dựa vào triều đình ở xa 
thì khó bề chu toàn. Chính vì thế, một 
mặt ông đã cho huy động sức ngƣời 
sức của tại địa phƣơng, một mặt báo 
cáo rõ ràng kịp thời để triều đình tìm 
kế sách giải quyết. Khi công việc hoàn 
thành, ông không nhận công lao về 
mình mà luôn giành phần thƣởng, lời 
khen cho những ngƣời khác. Ví dụ 
ông từng dâng tấu xin ban khen cho 
Trần Ngọc Chấn: “„Ngƣời dân trong 
hạt là Trần Ngọc Chấn, năm trƣớc, 
tình nguyện tự bỏ của riêng, thử đắp 
con đê chặn lấp dòng nƣớc sông 
Hoành Giang. Mùa xuân năm nay 
hoàn thành. Qua vụ nƣớc mùa thu, 
thân hành đến khám thấy con đê này 
dài 144 trƣợng, thực đƣợc kiên cố‟. 
Vua ban khen. Chuẩn cho bộ Công 
bàn, truy cấp cho 1.000 quan và tiền 
chi dùng vật liệu. Thƣởng cho Trần 
Ngọc Chấn chức hàm Bát phẩm và 
một bộ mũ áo. Chuẩn cho 2 ngƣời 
giúp việc đƣợc miễn thuế thân và sƣu 
dịch. Lại thƣởng cho quần áo có thứ 
bậc khác nhau...” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2007, tập 3: 479). 
VƢƠNG THỊ HƢỜNG – TỔNG ĐỐC ĐẶNG VĂN THIÊM 
75 
Việc phát chẩn cứu dân lúc đói là việc 
làm cấp bách nhƣng cũng không phải 
là kế sách lâu dài. Dân đói phải nhanh 
chóng tìm cách tiếp tế lƣơng thực 
nhƣng qua cơn nguy biến phải tìm kế 
sách sinh sống lâu dài cho dân. Sản 
xuất nông nghiệp gắn chặt với nƣớc ở 
các dòng sông, việc gieo trồng phải 
nắm chắc quy luật lũ hay hạn đều để 
từ đó tìm cách đối phó, hạn chế tới 
mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai. 
Nhƣng sức ngƣời và của của dân đều 
có hạn nên việc lợi dụng địa hình có 
sẵn để tạo lợi ích lâu dài, ít phiền 
nhiễu tới dân cũng là kế sách “cứu 
dân” vẹn toàn. Vì luôn đặt lợi ích của 
dân lên hàng đầu đã khiến ông có 
những quyết định rất đúng đắn và kịp 
thời khi cho đắp đê, ngăn đập. Và lời 
dụ của vua cho Nội các cho thấy công 
lao và sự tri ân, tƣởng thƣởng của 
triều đình đối với ông. “Vua dụ Nội các: 
„Tổng đốc Định - Yên Đặng Văn 
Thiêm trong hạt đất rộng, ngƣời đông, 
tiền chồng, thóc chứa, thế mà dẹp 
đƣợc trộm cƣớp, yên đƣợc nhân dân, 
binh lƣơng có thiếu thì điền bổ đƣợc 
ngay. Hơn nữa, mùa làm ruộng đƣợc 
thuận, mùa màng đƣợc tốt, nhân dân 
đƣợc yên vui. Vậy gia hàm Thái tử 
thiếu bảo và gia thêm 1 cấp trác dị‟” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007, 
tập 4: 610). 
Lời dụ của vua nhận xét về Đặng Văn 
Thiêm cũng chính là sự công nhận 
của triều đình đối với công lao phấn 
đấu suốt đời “vị dân chi kế/ mọi kế 
sách đều vì dân” của ông. 
4. KẾT LUẬN 
Bắc Kỳ thời Nguyễn liên tục có mƣa 
lớn gây lụt lội và vỡ đê. Trong sách 
Đại Nam thực lục cho thấy từ lúc Gia 
Long lên ngôi (1802) đến năm liên 
quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn 
công Đà Nẵng (1858) trung bình cứ 
khoảng 1,5 năm lại có một trận đại 
hồng thủy. Đê điều và các công trình 
thủy lợi bị tổn thất nặng nề. Thân làm 
quan Tổng đốc nên Đặng Văn Thiêm 
luôn trăn trở bảo vệ nhân dân. Ông đã 
có nhiều kế sách hay trong quá trình 
thực hiện chức trách. Mỗi khi ra lệnh 
cho thực thi công việc ông đều cân 
nhắc dựa trên lợi ích của dân. Những 
phân tích cụ thể về đắp đê, đào sông 
của ông giúp nhân dân vùng lũ tránh 
đƣợc thiệt hại: “Sửa đắp đê mới hay 
đê cũ, công trình nặng nhọc, phí tổn 
công khố cũng nhiều, thế mà khó nói 
trƣớc có giữ đƣợc chắc chắn hay 
không. Nếu đổi ra làm việc khai sông, 
không những bớt đƣợc chút phí tổn 
mà lại có thể phân đƣợc thế nƣớc và 
bớt đƣợc sự xô mạnh dồn xuống” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007, 
tập 3: 1109). Cho đến nay những bài 
học từ kinh nghiệm mà Tổng đốc 
Đặng Văn Thiêm để lại vẫn còn 
nguyên giá trị trong công tác phòng 
chống thiên tai. 
Vài nét về con ngƣời Tổng đốc Đặng 
Văn Hòa - Đặng Văn Thiêm và những 
ƣu tƣ, thành tựu của ông trong công 
cuộc xây dựng, quản lý đê điều đƣợc 
Đại Nam thực lục ghi chép để thấy 
tấm lòng thƣơng dân ái quốc của vị 
Tổng đốc giàu trách nhiệm. Đồng thời 
qua đó hậu thế cũng có đƣợc những 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (251) 2019 
76 
bài học đắt giá trong việc xây dựng, 
quản lý đê điều và không có việc gì là 
khó nếu đó là vì lợi ích của nhân dân, 
lợi ích của dân tộc. 
Xây dựng, quản lý và sửa chữa đê 
điều là một một việc lớn, ảnh hƣởng 
trực tiếp đến đời sống của nhân dân. 
Chính vì thế cần phải có sự cầu thị, 
lắng nghe từ phía ngƣời dân. Kinh 
nghiệm này đã giúp Tổng đốc Đặng 
Văn Thiêm trên con đƣờng “vị dân chi 
kế” đƣợc thuận lợi và nhân dân tin 
yêu. 
Xin mƣợn lời của Tổng đốc Đặng Văn 
Thiêm thay cho lời kết thúc bài viết để 
những ngƣời làm chính sách ngày 
nay suy nghĩ về thế nƣớc, lòng dân 
mỗi khi đƣa ra quyết sách không 
phạm phải những sai lầm đáng tiếc: 
“Đến nhƣ đắp lấp chỗ vỡ, phải nên 
bàn tính cho kỹ, để một lần khó nhọc, 
đƣợc rỗi lâu dài, muôn năm bền vững. 
Việc làm đƣợc nên thực hiện ngay, 
quyết không khinh suất đƣợc” (Quốc 
sử quán triều Nguyễn, 2007, tập 4: 
459).
 
CHÚ THÍCH 
(1) 
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn Đại Nam thực lục từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) 
đến năm Duy Tân thứ 3 (1909). Lần lƣợt in từ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) đến năm Duy Tân 
thứ 3 (1909). Tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lƣu trữ 2 bản mang ký hiệu A.2772.1-67 và 
A.27/1-66. Sách đã đƣợc nhiều dịch giả dịch và xuất bản. Trong bài viết này, các trích dẫn 
chúng tôi sử dụng bản dịch Đại Nam thực lục, (bộ 10 tập), Nguyễn Ngọc Tỉnh (phiên dịch), 
Đào Duy Anh (hiệu đính), tập 1 tái bản lần thứ nhất năm 2001, tập 2 đấn tập 10 tái bản năm 
2007. Nxb. Giáo dục. Hà Nội. 
(2) 
Lê Chất : (1769 - 1826) còn gọi là Hậu Quân Chất, tƣớng triều Tây Sơn, sau theo về 
nhà Nguyễn. Ông còn có tên là Lê Tông Chất ( ), ngƣời huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. 
Lúc đầu, ông theo Tây Sơn, lập nhiều chiến công, đƣợc phong tới chức Đô đốc, thuộc 
quyền của Tƣ lệ Lê Trung. Về với Nguyễn Phúc Ánh, Lê Chất lần lƣợt giữ chức: Khâm sai 
chƣởng hậu quân Bình Tây tƣớng quân, Tổng trấn Bắc Thành 
(3) 
Bình: chỉ Nguyễn Hựu Bình. Trong Đại Nam thực lục ghi rõ: “Lấy Biện lý Lại bộ là Nguyễn 
Hựu Bình làm Hiệp trấn Thanh Hoa, Thiêm sự Binh bộ là Đặng Văn Thiêm làm Tham hiệp; 
tập 2, tr. 300. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đặng Văn Hòa. 2016. Lễ Trai thi chân bản. Ngƣời dịch: Hoàng Công Khanh, Phạm 
Tuấn Khanh. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn. 
2. Đoàn Thị Bảo Nhi. 2016. “Đặng Văn Hòa với lý tƣởng vị dân chí kế” in trong Lễ Trai 
thi chân bản. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn, tr. 174. 
3. L.Tuệ. 2012. “Vang danh Lễ Trai Đặng Văn Hòa”, 
danh-le-trai-dang-van-hoa-a3597.html, truy cập ngày 8/9/2018. 
4. Ngọc Phƣơng. 2018. “Đặng Văn Hòa - Tổng đốc đầu tiên của Hà Nội”,  
daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=78&NewsId=410508, truy cập ngày 25/3/2019. 
VƢƠNG THỊ HƢỜNG – TỔNG ĐỐC ĐẶNG VĂN THIÊM 
77 
5. Phạm Tuấn Khánh. 1987. “Đặng Văn Hòa và tập „Lễ Trai thi chân bản’ mới đƣợc phát 
hiện”. Tạp chí Hán Nôm, số 2 (1987). 
6. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2001. Đại Nam thực lục - tập 1 (dịch: Nguyễn Ngọc Tỉnh; 
hiệu đính: Đào Duy Anh, Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 
7. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2007. Đại Nam thực lục - tập 2, 3, 4 (dịch: Đỗ Mộng 
Khƣơng, Trần Huy Hân, Trƣơng Văn Chinh, Nguyễn Mạnh Duân, Ngô Hữu Tạo, 
Nguyễn Thế Đạt, Thẩm Văn Điền, Nguyễn Trọng Hân, Phạm Huy Giu; hiệu đính: Đào 
Duy Anh, Hoa Bằng). Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 
8. Trần Đình Sơn - Hồng Anh. 2001. Tản mạn Phú Xuân. TPHCM: Nxb. Trẻ. 

File đính kèm:

  • pdftong_doc_dang_van_thiem_voi_van_de_xay_dung_quan_ly_de_dieu.pdf