Tìm hiểu việc hình thành kĩ năng đọc - Viết thông qua dạy học tự nhiên - Xã hội cho học sinh Tiểu học

Bài viết tập trung tìm hiểu việc hình thành kĩ năng đọc-viết trong dạy học Tự nhiên - Xã hội

(TNXH) cho học sinh tiểu học (HSTH) thông qua khảo sát nhận thức cũng như cách thức thực hiện

công việc này của giáo viên (GV), đồng thời phân tích một số công cụ hỗ trợ việc hình thành kĩ

năng đọc-viết để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu của nhưng công cụ này. Trên cơ sở đó, bài

viết đề xuất một số dạng bài tập khác nhau để góp phần hình thành những kĩ năng này một cách tốt

nhất cho HSTH.

pdf 10 trang thom 06/01/2024 3280
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu việc hình thành kĩ năng đọc - Viết thông qua dạy học tự nhiên - Xã hội cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu việc hình thành kĩ năng đọc - Viết thông qua dạy học tự nhiên - Xã hội cho học sinh Tiểu học

Tìm hiểu việc hình thành kĩ năng đọc - Viết thông qua dạy học tự nhiên - Xã hội cho học sinh Tiểu học
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP HOÀ CHÍ MINH 
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE
ISSN: 
1859-3100 
KHOA HOÏC GIAÙO DUÏC 
Tập 14, Số 1 (2017): 129-138 
EDUCATION SCIENCE
Vol. 14, No. 1 (2017): 129-138
 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website:  
129 
TÌM HIỂU VIỆC HÌNH THÀNH KĨ NĂNG ĐỌC - VIẾT 
THÔNG QUA DẠY HỌC TỰ NHIÊN - XÃ HỘI 
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC 
Đỗ Thị Nga* 
Ngày Tòa soạn nhận được bài:13-7-2016; ngày phản biện đánh giá: 25-10-2016; ngày chấp nhận đăng: 06-01-2017 
TÓM TẮT 
Bài viết tập trung tìm hiểu việc hình thành kĩ năng đọc-viết trong dạy học Tự nhiên - Xã hội 
(TNXH) cho học sinh tiểu học (HSTH) thông qua khảo sát nhận thức cũng như cách thức thực hiện 
công việc này của giáo viên (GV), đồng thời phân tích một số công cụ hỗ trợ việc hình thành kĩ 
năng đọc-viết để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu của nhưng công cụ này. Trên cơ sở đó, bài 
viết đề xuất một số dạng bài tập khác nhau để góp phần hình thành những kĩ năng này một cách tốt 
nhất cho HSTH. 
Từ khóa: kĩ năng đọc-viết, giáo dục tiểu học, môn Tự nhiên - Xã hội. 
ABSTRACT 
Examining the formation of reading - writing skills 
for primary school pupils through teaching Natural - Social Science 
The article explores the development of reading and writing skills for primary school 
children through teaching and learning Natural and Social Sciences by examining primary school 
teachers’ perceptions and teaching methodology regarding this issue. The writer also analyzes the 
strengths and weaknesses of some exercises aiding the formation of said skills (language skills) and 
recommends proposes various types of exercises to optimize the process. 
Keywords: reading and writing skills, primary education, Natural and Social Science. 
* Khoa Giáo dục Tiểu học - Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: dongagdth@gmail.com 
1. Đặt vấn đề 
Ngôn ngữ đóng một vai trò vô cùng 
quan trọng trong việc tiếp thu kiến thức 
khoa học cho học sinh (HS) ở mọi cấp học, 
đặc biệt là HSTH (học sinh tiểu học). 
Trong trường phổ thông nói chung, trường 
tiểu học nói riêng, với cách tiếp cận nhấn 
mạnh các hoạt động dạy học trong tìm hiểu 
khoa học và kĩ thuật, ngôn ngữ không phải 
là đối tượng nghiên cứu đầu tiên. Tuy 
nhiên, thông qua các hoạt động mà GV 
(giáo viên) tổ chức như quan sát và thực 
hành với thế giới thực, làm các bài tập liên 
quan đến đọc và viết, trẻ dần dần được 
hình thành các kĩ năng ngôn ngữ, đồng thời 
tư duy của trẻ cũng phát triển. [13, tr.37-
38]. Như vậy, quá trình phát triển các kĩ 
năng ngôn ngữ chính là quá trình hoàn 
thiện các kĩ năng tư duy cho HS. 
Dạy học tích hợp đang là một xu thế 
toàn cầu, trong đó định hướng dạy học tích 
hợp xuyên môn đang được nhấn mạnh. 
Khả năng sử dụng ngôn ngữ là một năng 
lực xuyên môn, là một năng lực học tập 
Tập 14, Số 1 (2017): 129-138 
130 
chung, đồng thời là cũng là năng lực sống 
và làm việc suốt đời của con người. Đối 
với việc học tập để lĩnh hội kiến thức khoa 
học, thông qua việc tìm hiểu nội dung các 
văn bản hay thực hành trải nghiệm các hiện 
tượng khoa học rồi trình bày những suy 
nghĩ, sự hiểu biết của mình bằng ngôn ngữ 
nói, ngôn ngữ viết, HS dễ dàng tiếp cận, 
ghi nhớ các khái niệm khoa học hơn. Và 
ngược lại, kĩ năng đọc - viết cho phép HS 
hiểu sâu và phản ánh chính xác các vấn đề 
khoa học [13, tr.97]. 
Thông qua khảo sát nhận thức 
(perception), cách thức thực hiện 
(methodology) của GV tiểu học cũng như 
phân tích, đánh giá một số công cụ được 
xem là có vai trò quan trọng trong việc 
hình thành kĩ năng đọc-viết cho HSTH như 
sách giáo khoa (SGK), vở bài tập và vở ghi 
chép của HS, chúng tôi đề xuất một vài 
dạng bài tập khác nhau có thể góp phần 
hình thành kĩ năng đọc-viết một cách tốt 
nhất cho HS. 
2. Nhận thức của giáo viên tiểu học 
về các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình 
thành kĩ năng đọc-viết cho học sinh tiểu 
học trong dạy học môn TN-XH 
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng 
tôi đã thực hiện khảo sát bằng phỏng vấn 
trực tiếp và bằng bảng hỏi về nhận thức, 
thái độ cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến 
việc hình thành kĩ năng đọc - viết cho 
HSTH đối với 35 GVTH thuộc các trường: 
Tiểu học Lương Thế Vinh - quận Thủ Đức, 
Tiểu học Hòa Bình - Quận 1, Tiểu học 
Trần Bình Trọng - Quận 5, Tiểu học Võ 
Trường Toản - Quận 10 (Thành phố Hồ 
Chí Minh) và 71 GV tiểu học tại một số 
trường tiểu học thuộc tỉnh Bến Tre. Có 6 
nội dung chính đã được khảo sát như sau: 
- Tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng 
đọc-viết cho HS trong dạy học môn TN-
XH; 
- Cơ hội đọc-viết của HS trong dạy 
học môn TN-XH; 
- Mức độ sử dụng vở ghi và Vở bài tập 
môn TN-XH của HS; 
- Việc kiểm soát và đánh giá Vở bài 
tập môn TN-XH của GV và Tổ - khối 
trưởng chuyên môn; 
- Những yếu tố ảnh hưởng không tốt 
đến việc hình thành kĩ năng đọc-viết cho 
HSTH trong dạy học môn TN-XH (chương 
trình nặng về cung cấp kiến thức, thiếu sự 
kiểm tra đánh giá một cách nghiêm túc và 
thường xuyên sử dụng vở bài tập và vở ghi 
chép); 
- Biện pháp hỗ trợ việc rèn kĩ năng đọc 
viết cho HS trong dạy học môn TN-XH 
(xây dựng chương trình học theo định 
hướng hình thành năng lực cho người học, 
đa dạng về hình thức và hấp dẫn về nội 
dung cũng như trình bày các bài tập, có sự 
kiểm tra vở ghi và vở bài tập của HS). 
Kết quả khảo sát cho thấy 100% số 
người được hỏi cho rằng việc hình thành kĩ 
năng đọc-viết cho HS trong dạy học môn 
TN-XH là hết sức quan trọng và cần thiết. 
Nhận định về kĩ năng đọc-viết của HS 
trong học tập môn TN-XH, có 81% các GV 
cho rằng mức độ chỉ ở phạm vi trung bình 
đến trung bình khá (chia đều cho tất cả HS 
ở các khối lớp). 
Đỗ Thị Nga 
131 
Tuy nhiên, 76% GV cho rằng có hai 
nguyên nhân chính ảnh hưởng tới vấn đề 
hình thành kĩ năng đọc-viết của HS trong 
dạy học TN-XH. Thứ nhất, đó là chương 
trình học nặng về cung cấp kiến thức, vì 
vậy phần lớn thời gian của tiết học đều 
dành cho việc tìm hiểu kiến thức thông qua 
quan sát tranh - trả lời câu hỏi hoặc học 
thuộc phần tóm tắt kiến thức chính của bài. 
Thứ hai, đó là vấn đề kiểm tra - đánh giá. 
Các câu hỏi kiểm tra giữa kì, cuối kì đều 
chỉ nhằm kiểm tra kiến thức học thuộc lòng 
của HS mà quên đi việc kiểm tra, đánh giá 
các kĩ năng khác, trong đó có kĩ năng đọc-
viết. Tuy nhiên, cũng qua kết quả khảo sát, 
chúng tôi nhận thấy một nguyên nhân 
không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến 
kĩ năng đọc-viết của HS, đó là gần như 
không có sự kiểm tra đánh giá thường 
xuyên của các nhà quản lí chuyên môn đối 
với vở bài tập cũng như vở ghi chép của 
HS. Và điều này cũng đồng nghĩa với việc 
GV không có động cơ để bắt buộc HS sử 
dụng những công cụ học tập này. Ngoài ra, 
việc thiếu vắng các dạng bài tập đọc-viết 
mới lạ, sinh động về hình thức, phong phú 
về nội dung để hấp dẫn HS, để từ đó HS có 
thể chủ động và tự giác thực hiện chúng 
mà không cần nhiều đến sự kiểm tra, đôn 
đốc của GV cũng là một nguyên nhân 
không thể không tính đến. 
3. Công cụ hỗ trợ hình thành kĩ năng 
đọc-viết cho HS trong dạy học TN-XH 
3.1. Sách giáo khoa 
Có thể chia SGK môn TN-XH thành 
2 nhóm dựa vào cấu trúc chung và cách 
trình bày. Nhóm 1 là SGK môn Lịch sử và 
địa lí (lớp 4, 5). Nhóm 2 là SGK phân môn 
Tự nhiên và xã hội của các khối lớp 1, 2, 3 
và SGK phân môn Khoa học lớp 4, 5. SGK 
phân môn Lịch sử và Địa lí có kênh chữ 
vượt trội so với kênh hình do đặc thù môn 
học: cung cấp kiến thức cho HS thông qua 
phần ngữ liệu dạng văn bản. Do vậy, hoạt 
động đọc của HS sẽ được khai thác nhiều 
hơn khi học các phân môn này. 
Đối với SGK phân môn Tự nhiên và 
xã hội và phân môn Khoa học, ngoài kênh 
chữ đóng vai trò chính là cung cấp kiến 
thức, còn có một hệ thống câu hỏi và các 
lệnh yêu cầu HS thực hiện các hoạt động 
học tập để chiếm lĩnh tri thức như quan sát, 
trả lời câu hỏi, liên hệ thực tế, thực hành 
thí nghiệm hoặc làm các bài tập cho sẵn... 
Như vậy, thông qua làm việc với SGK, HS 
có cơ hội thực hành kĩ năng đọc và nói 
nhiều hơn viết. 
3.2. Vở ghi chép 
Vở ghi chép là một công cụ hết sức 
quan trọng trong dạy học khoa học. HS 
dùng vở để ghi chép những trình tự của 
thực nghiệm, ghi chép những gì mà GV đã 
công nhận, những suy nghĩ ban đầu của trẻ, 
những thông tin thu nhận trên lớp Chữ 
viết là một cách thể hiện những suy nghĩ, ý 
kiến của HS thay lời nói. Chữ viết lưu giữ 
những thông tin đã thu nhận được. Khi dạy 
HS chuyển từ nói sang viết nghĩa là dạy 
cho các em một cách thức thể hiện trang 
trọng hơn [13, tr.77]. Vở ghi chép chính là 
một công cụ quan trọng trong việc hình 
thành kĩ năng viết cho HS thông qua học 
tập khoa học. 
Tập 14, Số 1 (2017): 129-138 
132 
Tuy nhiên, qua quan sát thực tế cũng 
như kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy 
có một thực tế đáng buồn là hầu hết HSTH 
không được khuyến khích sử dụng vở ghi 
trong quá trình học tập môn TN-XH nói 
chung, phân môn Khoa học nói riêng. Một 
số ít GV có cho HS sử dụng vở ghi nhưng 
chỉ để ghi tựa bài học. Như vậy, HS đã mất 
đi cơ hội tốt để rèn kĩ năng viết cho mình. 
Điều này ảnh hưởng không tốt đến quá 
trình phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, từ đó 
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến phát triển tư 
duy của HS. 
3.3. Vở bài tập 
Cùng với bộ SGK là bộ Vở bài tập 
cho các môn học về tự nhiên và xã hội. 
Trong bài viết này, chúng tôi tập trung tìm 
hiểu Vở bài tập Khoa học 4 và và 5, cụ thể 
hơn là phần bài tập thuộc chủ đề Vật chất 
và năng lượng. Theo chúng tôi, chủ đề này 
bộc lộ rõ nhất cách thức và hiệu quả của 
việc hình thành kĩ năng đọc-viết cho HS 
qua việc học tập kiến thức thuộc khoa học 
tự nhiên. 
Ngay trong mục Hướng dẫn sử dụng, 
các tác giả Vở bài tập Khoa học đã khẳng 
định: “Các bài tập trong vở Bài tập nhằm 
rèn luyện cho HS các kĩ năng học tập, thực 
hành, củng cố và khắc sâu kiến thức” [14, 
tr.3] với các hình thức chủ yếu: 
- Trắc nghiệm đúng-sai; 
- Trắc nghiệm nhiều lựa chọn; 
- Trắc nghiệm ghép đôi; 
- Trắc nghiệm điền khuyết; 
- Vẽ; 
- Trả lời câu hỏi. 
Thống kê sơ bộ cho thấy trong tổng 
số 110 bài tập của chủ đề Vật chất và năng 
lượng thuộc Vở bài tập Khoa học 4, có đến 
65 bài tập thuộc dạng bài trắc nghiệm với 
các hình thứ khác nhau, chiếm 59%. Và 
trong 93 bài tập cũng thuộc chủ đề này của 
Vở bài tập Khoa học 5, có đến 48 bài thuộc 
dạng bài trắc nghiệm, chiếm 51,6%. Đây là 
dạng bài chủ yếu giúp HS nhận ra kiến 
thức đã được học nhằm phục vụ cho mục 
đích ôn tập các kiến thức khoa học [12, 
tr.102]. Một số các dạng bài còn lại như 
quan sát hình minh họa và trả lời câu hỏi 
chủ yếu lấy lại các hình ảnh trong các bài 
học của SGK. Một số bài đưa ra hệ thống 
câu hỏi và HS chỉ cần chép lại phần ghi 
nhớ trong bài học để trả lời. Những dạng 
bài này, giống như dạng bài trắc nghiệm 
vừa được đề cập ở trên, thực chất không 
giúp được nhiều cho HS trong việc rèn các 
kĩ năng đọc-viết. 
Tuy nhiên, Vở bài tập Khoa học cũng 
đã bước đầu đưa ra được một dạng bài tập 
có thể giúp HS rèn kĩ năng đọc-viết tốt, đó 
là dạng bài tập đọc-viết thông qua trải 
nghiệm trong chủ đề Vật chất và năng 
lượng. Đó là các bài tập số 3 (trang 31), bài 
tập 1 (trang 32), bài tập 4 (trang 33) của 
Vở bài tập Khoa học 4, các bài tập 1 trang 
63, bài 1 trang 65, bài 1 trang 66, bài 1 
trang 77 của Vở bài tập Khoa học 5. Tuy 
nhiên, con số 7 bài tập là con số khiêm tốn 
so với tổng số 110 bài tập. Hơn nữa, tất cả 
các bài tập này đều lấy lại các tình huống 
đã được trình bày trong SGK mà HS đã 
được học trước đó. Điều này rất khó để 
đánh giá khả năng tư duy độc lập của các 
Đỗ Thị Nga 
133 
em vì đã được học trước đó, HS có thể 
không hứng thú với việc làm các bài tập. 
Vì vậy, việc xây dựng các bài tập hình 
thành kĩ năng đọc-viết thông qua các hoạt 
động trải nghiệm là hết sức quan trọng và 
cần thiết. 
4. Định hướng xây dựng bài tập rèn 
kĩ năng đọc-viết cho HS thông qua dạy 
học khoa học 
4.1. Một số căn cứ 
4.1.1. Đặc điểm tư duy của HSTH 
Theo nhà tâm lí học J. Piaget, từ 7 
đến 10 tuổi là giai đoạn những thao tác cụ 
thể, tư duy của trẻ dựa vào những đặc điểm 
trực quan của những đối tượng và hiện 
tượng cụ thể có trong thực tiễn (Dẫn theo 
[6, tr.55]). Ở lứa tuổi này, khi được học tập 
thông qua hành động, cuốn hút mình qua 
các hoạt động được xây dựng logic và có 
chủ đích, trẻ em có thể đạt được những 
mục tiêu học tập khác nhau một cách dễ 
dàng. Tthông qua các hoạt động khác nhau 
như tương tác nhóm, làm các thí nghiệm 
hoặc vẽ tranh trẻ được phát triển nhiều 
kĩ năng khác nhau, trong đó có kĩ năng 
ngôn ngữ. Cũng từ đặc điểm tâm lí này của 
trẻ, các tác giả của phương pháp dạy học 
Bàn tay nặn bột (La main à la pâte) đã đưa 
ra các định hướng cho hoạt động dạy học 
lấy việc tìm tòi, khám phá thông qua thực 
hiện các thí nghiệm khoa học của HS làm 
hoạt động nòng cốt, trong đó việc sử dụng 
vở thực nghiệm để HS ghi chép cá nhân 
được đặc biệt chú trọng. [4], [6], [13] 
4.1.2. Đọc - viết khoa học 
Theo nhận định của PISA 
(Programme for International Student 
Assessment), đọc - viết khoa học được 
định nghĩa: “Kiến thức khoa học của một 
cá nhân là việc sử dụng kiến thức đó để 
nhận diện vấn đề, lĩnh hội kiến thức mới, 
giải thích các hiện tượng khoa học, rút ra 
các kết luận dựa trên các chứng cứ liên 
quan đến khoa học” [12. tr.77]. Cũng 
theo PISA, người đọc viết khoa học có khả 
năng biết và hiểu các khái niệm và tiến 
trình khoa học cần thiết cho hội nhập xã 
hội, có khả năng đặt câu hỏi nảy sinh từ trí 
tò mò về thế giới cũng như mô tả, giải 
thích hay phỏng đoán các sự vật, hiện 
tượng tự nhiên; đọc hiểu các bài báo khoa 
học, thể hiện ý kiến về các thông tin khoa 
học, dựa trên chứng cứ thu thập được có 
thể đưa ra các kết luận... Như vậy, đọc - 
viết khoa học có tầm quan trọng lớn trong 
việc hình thành năng lực và tư duy khoa 
học cho trẻ, giúp trẻ không những tiếp thu 
tốt kiến thức khoa học mà còn sử dụng tốt 
các kĩ năng khoa học trong đời sống. 
4.1.2. Các yếu tố của đọc viết khoa học 
Cũng theo PISA, đọc-viết khoa học 
bao gồm 5 yếu tố chính: [12, tr. 77] 
- Thể hiện sự hiểu biết về các khái 
niệm khoa học; 
- Nhận diện câu hỏi nghiên cứu khoa 
học; 
- Xác định các chứng cứ cần thiết của 
các vấn đề liên quan đến khoa học; 
- Trình bày và đánh giá các kết luận 
khoa học; 
- Đưa ra các kết luận hợp lí và có giá 
trị. 
Như vậy, đây sẽ là những căn cứ có 
giá trị trong việc định hướng để xây dựng 
Tập 14, Số 1 (2017): 129-138 
134 
các bài tập rèn kĩ năng đọc-viết cho HS 
thông qua tìm hiểu kiến thức khoa học. 
4.1.3. Những yêu cầu về kĩ năng đọc-viết 
cho HS khối lớp 4, 5 
Chương trình Giáo dục phổ thông 
cấp tiểu học (Ban hành kèm theo Quyết 
định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 
tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo 
dục và Đào tạo) xác định các kĩ năng đọc-
viết cần đạt đối với HS lớp 4 và 5 như sau: 
 Về kĩ năng đọc-viết của HS lớp 4 
 Kĩ năng đọc: 
- Đọc thầm; 
- Đọc diễn cảm đoạn văn, bài thơ, màn 
kịch ngắn; 
- Tìm hiểu ý nghĩa của bài văn, bài thơ 
và một số chi tiết có giá trị nghệ thuật 
trong bài văn, bài thơ; 
- Đọc thuộc một số bài thơ, đoạn văn; 
- Dùng từ điển HS hoặc các sách công 
cụ để tra cứu, ghi chép thông tin. 
 Kĩ năng viết: 
- Viết chính tả đoạn văn, đoạn thơ theo 
các hình thức nghe-viết, nhớ viết; 
- Sửa lỗi chính tả trong bài viết. Lập sổ 
tay chính tả; 
- Lập dàn ý cho bài văn kể chuyện, 
miêu tả; 
- Viết đoạn văn kể chuyện và miêu tả 
theo dàn ý; 
- Viết thư thăm hỏi, cảm ơn, trao đổi 
công việc; viết giấy mời, điện báo. 
 Về kĩ năng đọc-viết của HS lớp 5 
 Kĩ năng đọc: 
- Đọc các văn bản nghệ thuật, hành 
chính, khoa học, báo chí; 
- Đọc thầm, đọc lướt để nắm thông tin; 
- Đọc diễn cảm đoạn văn, bài thơ, màn 
kịch ngắn; 
- Nhận xét về nhân vật, hình ảnh, cách 
sử dụng từ ngữ và tình cảm, thái độ của tác 
giả; 
- Đọc thuộc một số đoạn văn, đoạn 
thơ, bài thơ; 
- Tra từ điển HS, sổ tay từ ngữ, ngữ 
pháp để tìm và ghi chép thông tin; 
- Hiểu các kí hiệu, số liệu trên sơ đồ, 
biểu đồ...; 
- Tìm hiểu ý nghĩa của bài văn, bài thơ 
và một số chi tiết có giá trị nghệ thuật 
trong bài văn, bài thơ; 
- Đọc thuộc một số bài thơ, đoạn văn; 
- Dùng từ điển HS hoặc các sách công 
cụ để tra cứu, ghi chép thông tin. 
 Kĩ năng viết: 
- Viết chính tả đoạn văn, đoạn thơ theo 
các hình thức nghe-viết, nhớ viết; 
- Sửa lỗi chính tả trong bài viết. Lập sổ 
tay chính tả; 
- Viết đoạn văn kể chuyện, miêu tả (tả 
người, tả cảnh); 
- Viết biên bản một cuộc họp, một vụ 
việc; 
- Viết tóm tắt văn bản (độ dài vừa 
phải). [1] 
Như vậy, với những kĩ năng này, HS 
hoàn toàn có thể đáp ứng được các dạng 
bài tập đọc-viết được xây dựng theo các 
yêu cầu trên. 
4.2. Một vài dạng bài tập tiêu biểu 
4.2.1. Xây dựng năng lực ngôn ngữ thông 
qua trải nghiệm 
HS có rất nhiều cơ hội trải nghiệm 
thông qua học tập môn TN-XH, đặc biệt là 
Đỗ Thị Nga 
135 
học tập các chủ đề thuộc khoa học tự 
nhiên. HS được trải nghiệm qua tham quan 
môi trường tự nhiên, qua các hoạt động 
thực hành, thí nghiệm khoa học, điều tra 
thực tế, tham gia các hoạt động bảo vệ môi 
trường. Sau mỗi hoạt động trải nghiệm, HS 
sẽ dễ dàng hơn trong việc viết lại những gì 
mình vừa trải qua với những cảm xúc, 
những biểu tượng sinh động từ thực tế. 
4.2.2. Xây dựng năng lực ngôn ngữ thông 
qua viết sáng tạo 
Đây là các dạng bài tập yêu cầu trẻ 
quan sát tranh, mô tả các biểu hiện của sự 
vật, hiện tượng; yêu cầu trẻ viết thư, làm 
thơ, viết truyện kết hợp vẽ tranh, tô màu, 
cắt dán, viết chú thích cho sơ đồ, tranh 
ảnh Ngoài ra, có thể sử dụng ảnh hưởng 
của ngôn ngữ và ý tưởng của người khác 
để phát triển ý tưởng và ngôn ngữ của cá 
nhân trẻ: Cung cấp các bài đọc hiểu hấp 
dẫn về các chủ đề khác nhau (khác với các 
văn bản của SGK, nếu có) để kích thích sự 
tò mò ham hiểu biết của trẻ, đáp ứng mục 
tiêu môn học và hình thành động cơ đọc từ 
bên trong cho trẻ. Trẻ sẽ có cơ hội hiểu biết 
thêm về thế giới động - thực vật, về các sự 
vật, hiện tượng tự nhiên, các dạng vật chất 
và năng lượng Đó cũng chính là các chủ 
đề của môn học. 
4.2.3. Thiết kế mẫu dạng bài tập đọc-viết 
thông qua trải nghiệm 
Trong khuôn khổ báo này, chúng tôi 
đưa ra một thiết kế bài tập theo hướng trải 
nghiệm như một ví dụ cụ thể nhằm minh 
chứng cho mong muốn góp phần hình 
thành kĩ năng đọc-viết cho HS một cách tốt 
nhất. 
Phân môn Khoa học 4, bài 51: 
Nóng, lạnh và nhiệt độ (tiếp theo) 
Mục tiêu bài học: 
 HS có thể làm thí nghiệm để chứng 
minh: 
- Vật nóng hơn luôn truyền nhiệt cho 
vật lạnh hơn; 
- Nước và một số chất lỏng khác gặp 
nóng thì nở ra, gặp lạnh thì co lại. 
 HS có thể trình bày hiểu biết bằng lời 
nói, bằng các bài tập rèn kĩ năng đọc-
viết 
 HS tò mò, ham hiểu biết khoa học, có 
ý thức áp dụng kiến thức được học vào đời 
sống. 
Chúng tôi chọn mục tiêu “HS có thể 
làm thí nghiệm để chứng minh: Nước gặp 
nóng thì nở ra, gặp lạnh thì co lại” để xây 
dựng bài tập rèn kĩ năng đọc-viết cho HS. 
Ở bài tập này, nhiệm vụ đọc và viết 
của HS sẽ được đặt ra trong các yêu cầu 
sau: 
a. Nhiệm vụ đọc của HS: 
- Đọc tình huống xuất phát; 
- Đọc câu hỏi định hướng để tìm hiểu 
vấn đề; 
- Đọc phần hướng dẫn chọn phương 
tiện thí nghiệm bằng cách đánh dấu vào 
các lựa chọn cho sẵn; 
- Đọc yêu cầu của bài tập điền từ, đọc 
để chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống, 
đọc toàn văn bài tập sau khi đã điền từ; 
- Đọc câu hỏi của bài tập ứng dụng ở 
phần cuối để suy luận và trả lời (Bài tập 
dành cho HS khá giỏi). 
b. Nhiệm vụ viết của HS: 
Tập 14, Số 1 (2017): 129-138 
136 
- Viết những nhận định ban đầu về vấn 
đề đặt ra; 
- Viết khi làm bài tập điền từ vào chỗ 
trống; 
- Viết thư cho bạn để giải thích vấn đề; 
(Xem phần Phụ lục về thiết kế cụ 
thể) 
5. Kết luận 
Đọc-viết là hai trong nhiều những kĩ 
năng rất quan trọng trong việc giúp HS tiếp 
thu các kiến thức khoa học. Vì vậy, việc 
hình thành kĩ năng đọc-viết là nhiệm vụ 
quan trọng và cần thiết không chỉ của 
những môn học có nhiệm vụ dạy ngôn ngữ 
mà của tất cả các môn học khác, trong đó 
có các môn học về tự nhiên và xã hội. 
Trong chương trình Giáo dục tiểu 
học Việt Nam, ngoài môn Tiếng Việt, môn 
TN-XH là một môn học đóng vai trò quan 
trọng trong việc hình thành kĩ năng đọc-
viết cho HSTH. Những kiến thức khoa học 
thuộc chủ đề tự nhiên bao giờ cũng hấp 
dẫn và lôi cuốn trẻ ngay từ những năm 
tháng đầu đời và phù hợp với đặc điểm tâm 
- sinh lí của chúng. Thông qua việc tiếp thu 
những kiến thức khoa học này bằng các 
hình thức trải nghiệm sáng tạo, kĩ năng 
đọc-viết cũng sẽ được hình thành một cách 
tự nhiên, dễ dàng và hiệu quả. 
Để việc hình thành kĩ năng đọc-viết 
cho HSTH thông qua dạy học môn TN-XH 
được thực hiện một cách tốt nhất, chương 
trình môn học phải được xây dựng theo 
hướng tiếp cận năng lực và theo hướng tích 
hợp cao. Có như vậy GV mới không phải 
tập trung toàn bộ sức lực và thời gian trong 
việc nhồi nhét kiến thức cho HS mà quên 
đi việc dạy cho HS kĩ năng sử dụng ngôn 
ngữ và nhiều kĩ năng sống cần thiết khác. 
Vở ghi chép cá nhân, đặc biệt là vở 
bài tập, được coi là những công cụ hỗ trợ 
tốt nếu chúng được sử dụng thường xuyên 
và có sự kiểm tra, đánh giá nghiêm túc. 
Các dạng bài tập đọc và viết thông qua trải 
nghiệm, đọc viết sáng tạo dựa trên những ý 
tưởng của người khác cũng luôn là những 
công cụ hỗ trợ tốt để hình thành kĩ năng 
đọc-viết cho HSTH. Ngoài ra, cần quan 
tâm hơn đến kĩ năng đọc-viết trong các bộ 
đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập của 
HS thay vì chỉ quan tâm thuần túy đến 
đánh giá kiến thức khoa học như hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình Giáo dục phổ thông cấp tiểu học, Nxb Giáo 
dục. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Sách giáo khoa Tự nhiên và Xã hội 1, 2, 3; Sách giáo khoa 
Khoa học 4, 5, Nxb Giáo dục. 
3. Hoàng Hòa Bình, Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học Tiếng Việt nhìn từ 
tiểu học, Nxb Giáo dục Việt Nam. 
4. Phạm Phương Anh (2014), Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học. 
5. Georges Charpak (1996), Bàn tay nặn bột, khoa học ở trường tiểu học, Bản dịch từ tiếng 
Pháp, Người dịch Đinh Ngọc Lân (1999), Nxb Giáo dục 
6. Nguyễn Thị Bích Hạnh, Trần Thị Thu Mai (2009), Tâm lí học tiểu học và tâm lí học sư phạm 
tiểu học, Nxb Giáo dục Việt Nam. 
Đỗ Thị Nga 
137 
7. Đỗ Thị Nga (2013), Dạy học Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học bằng phương pháp Bàn tay nặn 
bột, Nxb Giáo dục Việt Nam. 
8. Đỗ Thị Nga (2003), Đánh giá môn Phương pháp dạy học Tự nhiên- Xã hội ở tiểu học bằng 
phương pháp trắc nghiệm khách quan, Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư 
phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
9. Bùi Phương Nga, Lương Việt Thái (2012), Vở bài tập Khoa hoc 4, 5, Nxb Giáo dục Việt 
Nam. 
10. Hoàng Thị Tuyết (2012), Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Nxb Thời đại 
11. Hoàng Thị Tuyết (2012), “Đào tạo - dạy học theo quan điểm tích hợp: chúng ta đang ở 
đâu?”, Kỉ yếu Hội thảo “Dạy học tích hợp ở Tiểu học: Hiện tại và tương lai”, Trường Đại 
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
12. PISA Organisation (2002), PISA Assessment of reading, Mathematical and Scientific 
Literacy, Measuring Student Knowledge and skills, OECD Publishing, p. 76-96. 
13. Wynne Harlen, Ann Tống (2005), Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Nxb Khoa 
học Xã hội. 
14. Quanlter (2014), The Teaching of Science in Primery School, David Fulton Publishers 
15. Lisa Adam, Jean Claude Arrouge, Jean Michel Berard, Nadine Belin, David Jasmin (2002), 
Teaching Science in School. 
PHỤ LỤC 
Tập 14, Số 1 (2017): 129-138 
138 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_viec_hinh_thanh_ki_nang_doc_viet_thong_qua_day_hoc.pdf