Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu lưu trữ khoa học ở nước ta hiện nay

Thế  giới đang bước vào thời kỳ phát

triển kinh tế tri thức, khoa học và công

nghệ đóng vai trò là nguồn lực và động lực

cho sự phát triển và phồn vinh của từng

quốc gia và toàn nhân loại. Sự phát triển

mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong

những thập niên gần đây đã mang lại

những tác động to lớn và những biến đổi

sâu sắc trong mọi hoạt động kinh tế, văn

hóa, xã hội của nhiều quốc gia. Luận cứ

khoa học trở thành một đòi hỏi không thể

thiếu trong mọi quyết sách, quyết định sự

thành bại trong mọi tổ chức sản xuất, kinh

doanh và quản lý xã hội. Hàm lượng khoa

học trong mỗi sản phẩm trở thành lợi thế

cạnh tranh trên thị trường.

pdf 10 trang kimcuc 9120
Bạn đang xem tài liệu "Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu lưu trữ khoa học ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu lưu trữ khoa học ở nước ta hiện nay

Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu lưu trữ khoa học ở nước ta hiện nay
QUẢN LÝ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ NGUỒN TÀI LIỆU 
LƯU TRỮ KHOA HỌC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 
 LÊ THỊ HẢI NAM* 
1. Sự cần thiết phải quản lý, phát huy 
giá trị tài liệu lưu trữ khoa học 
Thế*giới đang bước vào thời kỳ phát 
triển kinh tế tri thức, khoa học và công 
nghệ đóng vai trò là nguồn lực và động lực 
cho sự phát triển và phồn vinh của từng 
quốc gia và toàn nhân loại. Sự phát triển 
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong 
những thập niên gần đây đã mang lại 
những tác động to lớn và những biến đổi 
sâu sắc trong mọi hoạt động kinh tế, văn 
hóa, xã hội của nhiều quốc gia. Luận cứ 
khoa học trở thành một đòi hỏi không thể 
thiếu trong mọi quyết sách, quyết định sự 
thành bại trong mọi tổ chức sản xuất, kinh 
doanh và quản lý xã hội. Hàm lượng khoa 
học trong mỗi sản phẩm trở thành lợi thế 
cạnh tranh trên thị trường. 
 Các luận cứ khoa học là thành quả của 
quá trình nghiên cứu, tâm sức của các nhà 
khoa học, được ghi lại, phản ánh lại trên 
vật mang tin đó là tài liệu lưu trữ khoa học. 
Không giống như các tài liệu khác, tài liệu 
lưu trữ khoa học là những bộ hồ sơ mà 
trong đó chứa đựng các thông tin từ việc 
bắt đầu cho đến khi kết thúc một công việc, 
một nhiệm vụ nghiên cứu và quản lý 
nghiên cứu. Đó là những hồ sơ trọn bộ (tài 
liệu từ khi đề đạt - thuyết minh, xét duyệt; 
Quyết định phê duyệt, Hợp đồng thực hiện, 
* ThS. Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 
Báo cáo triển khai thực hiện; kết quả 
nghiên cứu - các loại báo cáo; kết quả quản 
lý - Quyết định nghiệm thu, phiếu đánh giá, 
nhận xét và biên bản) một chương trình/đề 
tài/đề án/dự án nghiên cứu. 
Bởi vậy, tài liệu lưu trữ khoa học tự bản 
thân nó chứa đựng những thông tin về các 
phát hiện, sáng tạo mới của người nghiên 
cứu - cơ sở để tạo ra các sản phẩm mới cho 
xã hội. Hoạt động nghiên cứu khoa học là 
quá trình con người thâm nhập vào thế giới 
của những sự vật, hiện tượng, mà họ chưa 
khám phá được bản chất. Do đó, quá trình 
thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học là quá 
trình hướng tới phát hiện hoặc sáng tạo 
mới. Tìm ra cái mới là yêu cầu của quá 
trình nghiên cứu khoa học là tiền đề, là cơ 
sở cho những phát hiện, sáng tạo của 
những công trình nghiên cứu tiếp theo. Từ 
tài liệu lưu trữ khoa học có thể gợi mở hình 
thành các ý tưởng nghiên cứu mới. 
Tài liệu lưu trữ khoa học giúp cho nhà 
quản lý và người nghiên cứu trong việc xét, 
chọn đề tài để có thể kế thừa, phát triển, 
tránh trùng lặp và lãng phí trong nghiên cứu. 
Trên thực tế, không có một công trình 
nghiên cứu khoa học nào được bắt đầu từ 
chỗ hoàn toàn trống không về kiến thức. 
Các công trình nghiên cứu khoa học đều 
phải kế thừa các kết quả nghiên cứu trước 
đó. Tài liệu lưu trữ khoa học giúp chúng ta 
kế thừa được những kết quả, những phát 
minh, những nhận xét, đánh giá, số liệu... 
Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu... 
57
Việc kế thừa thành quả nghiên cứu, một 
mặt giúp các nhà nghiên cứu tiết kiệm thời 
gian, tiền của và công sức, tránh lãng phí 
cho ngân sách nhà nước, mặt khác giúp họ 
có được nguồn thông tin tham khảo có hệ 
thống và đảm bảo độ tin cậy, giúp cho việc 
so sánh khi nghiên cứu, khắc phục hiện 
tượng nghiên cứu trùng lặp. 
Mặt khác, nghiên cứu khoa học và phát 
triển công nghệ ở nước ta hiện nay chủ yếu 
được thực hiện bằng nguồn kinh phí từ 
ngân sách nhà nước và được phân bổ theo 
kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ 
hằng năm của các Bộ, ngành, địa phương 
(tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). 
Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ trực tiếp 
quản lý các đề tài, dự án thuộc chương 
trình khoa học và công nghệ trọng điểm 
cấp nhà nước, đề tài, dự án độc lập cấp nhà 
nước và các nhiệm vụ thực hiện theo nghị 
định thư. Các đề tài, dự án cấp bộ, tỉnh, 
thành phố và cấp cơ sở thuộc phạm vi và 
trách nhiệm quản lý của bộ, ngành, tỉnh, 
thành phố trực thuộc Trung ương. Với cơ 
chế quản lý như vậy, nếu không có được hệ 
thống tài liệu lưu trữ khoa học đầy đủ để 
đảm bảo thông tin thông suốt giữa Trung 
ương với địa phương và giữa các Bộ, 
ngành, địa phương với nhau thì sẽ rất dễ 
xảy ra hiện tượng trùng lặp đề tài nghiên 
cứu khi chọn lựa, xét duyệt. Như vậy, sẽ 
gây lãng phí ngân sách nhà nước và công 
sức các nhà nghiên cứu. 
Tài liệu lưu trữ khoa học là bằng chứng 
xác thực để bảo vệ bản quyền tác giả. Vì 
những thông tin về người nghiên cứu/nhóm 
nghiên cứu và sản phẩm nghiên cứu của họ 
đều có trong bộ hồ sơ khoa học (các thuyết 
minh đề tài, quyết định phê duyệt, quyết 
định nghiệm thu, kết quả nghiên cứu, nhận 
xét, đánh giá là loại tài liệu yêu cầu bắt 
buộc phải có trong một bộ hồ sơ khoa học 
để lưu trữ). 
Tài liệu lưu trữ khoa học được lưu giữ 
đầy đủ còn giúp cho việc công khai, minh 
bạch thông tin về kết quả quản lý, kết qủa 
nghiên cứu. Qua đó, củng cố niềm tin của 
cộng đồng nói chung và các tổ chức, cá 
nhân làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học 
nói riêng đối với hiệu quả hoạt động quản 
lý nhà nước về khoa học và công nghệ. 
Ở nước ta hiện nay, nguồn kinh phí đầu 
tư cho nghiên cứu khoa học chủ yếu là từ 
ngân sách nhà nước, hoạt động khoa học 
và công nghệ hàng năm chiếm từ 2 đến 
2,2% chi ngân sách, nên sản phẩm nghiên 
cứu khoa học cũng như tài liệu lưu trữ 
khoa học rất cần phải được quản lý để bảo 
vệ và phát huy giá trị của nó cho sự nghiệp 
xây dựng và phát triển đất nước. 
Ngược lại, phát huy giá trị tài liệu lưu 
trữ khoa học cũng chính là để nâng cao 
chất lượng, hiệu quả của hoạt động quản lý 
khoa học, hoạt động quản lý tài liệu lưu trữ 
khoa học và hiệu quả của sản phẩm nghiên 
cứu, đem những giá trị này đến gần hơn 
với cộng đồng, phục vụ lợi ích chung của 
cộng đồng, tôn vinh và quảng bá giá trị 
nghiên cứu của các nhà khoa học. 
2. Thực trạng quản lý, phát huy giá trị 
tài liệu khoa học ở nước ta hiện nay 
- Chính sách, pháp luật quản lý và phát 
huy giá trị tài liệu lưu trữ khoa học 
Để quản lý và phát huy nguồn lực thông 
tin khoa học và công nghệ, nhiều quốc gia 
trên thế giới đã có những chính sách, các 
quy định cụ thể của pháp luật để yêu cầu 
mọi cá nhân, mọi tổ chức phải tuân thủ. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 2/2013 
58
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã 
hội từ 2011- 2020, Đảng ta xác định Chú 
trọng phát triển các ngành, lĩnh vực khoa 
học, công nghệ làm nền tảng cho phát triển 
kinh tế tri thức và để góp phần vào sự nghiệp 
trên, cần: “Hình thành hệ thống đánh giá kết 
quả, hiệu quả hoạt động khoa học và công 
nghệ. Thực hiện nghiêm túc các quy định về 
quyền sở hữu trí tuệ, tập trung phát triển và 
khai thác tài sản trí tuệ”1. 
Thực hiện chủ trương của Đảng, trong 
những năm gần đây, các quy định pháp 
luật về lĩnh vực này đã được Quốc hội, 
Chính phủ, mà cụ thể là các Bộ, ngành cơ 
quan trung ương và địa phương xây dựng, 
sửa đổi, bổ sung để ban hành làm cơ sở 
cho việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn. 
 Từ năm 2000 đến nay, Quốc hội đã ban 
hành một số luật như: Luật Khoa học và 
công nghệ (năm 2000), Luật sửa đổi bổ 
sung một số điều của Luật xuất bản (năm 
2008); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều 
của Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2009), Luật 
Lưu trữ (năm 2011). 
Dưới Luật là hệ thống các văn bản quản 
lý của các cơ quan quản lý nhà nước về 
hoạt động quản lý khoa học và công nghệ, 
về văn thư và lưu trữ: Nghị định số 
159/2004/NĐ - CP của Chính phủ về hoạt 
động thông tin khoa học và công nghệ; 
Quy chế quản lý hoạt động khoa học xã hội 
và nhân văn (ban hành kèm theo Nghị định 
số 201/2004/NĐ - CP ngày 10/12/2004 của 
Chính phủ); Chỉ thị 05/2007/CT - TTG 
ngày 2/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ 
về việc tăng cường và phát huy giá trị tài 
liệu lưu trữ; Thông tư 04/2006/TT- BNV 
ngày 11/4/2006 của Bộ Nội vụ hướng dẫn, 
xác định cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp 
lưu vào lưu trữ lịch sử các cấp; Thông tư 
số 09/2011/TT- BNV ngày 03/06/2011 của 
Bộ Nội vụ quy định về thời hạn bảo quản 
hồ sơ, tài liệu hình thành phổ biến trong 
hoạt động của các cơ quan, tổ chức; Quy 
chế Đăng ký, lưu giữ và sử dụng kết quả 
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ 
(Ban hành kèm theo Quyết định số 
03/2007/QĐ-BKHCN ngày 16/3/2007 của 
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ)2. 
 Các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và 
các tỉnh/thành phố trong cả nước cũng đã 
xây dựng được các quy chế quản lý hoạt 
động khoa học và công nghệ, quy chế văn 
thư lưu trữ. Trong các quy chế đó đã có 
những nội dung cụ thể về việc quản lý, lưu 
giữ, lưu trữ, công bố giới thiệu và tổ chức 
khai thác sử dụng nguồn thông tin khoa 
học và công nghệ do cơ quan, đơn vị mình 
chủ trì thực hiện. 
Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn 
bản pháp luật nêu trên đã góp phần hoàn 
thiện từng bước hệ thống thể chế quản lý 
tài liệu lưu trữ nói chung và tài liệu lưu trữ 
khoa học nói riêng theo chủ trương, đường 
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. 
Cơ chế, chính sách quản lý tài liệu lưu trữ 
khoa học và kết quả nghiên cứu khoa học 
đã tạo bước chuyển biến tích cực, từng 
bước góp phần quản lý và phát huy giá trị 
của tài liệu này trong hoạt động thực tiễn. 
Theo như quy định hiện hành nêu trên, 
kết quả nghiên cứu khoa học phải đăng ký 
và lưu giữ tại các Trung tâm Thông tin 
Khoa học và Công nghệ các cấp, đồng thời 
phải lưu giữ, lưu trữ tại các cơ quan Lưu 
trữ nhà nước. Tài liệu lưu trữ khoa học 
phải lưu giữ ở các tổ chức lưu trữ hiện 
hành (lưu trữ của các cơ quan, tổ chức), 
hết thời gian hiện hành nộp lưu vào lưu trữ 
lịch sử (Trung tâm Lưu trữ quốc gia hoặc 
Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu... 
59
Trung tâm Lưu trữ tỉnh/thành phố). Như 
vậy, tài liệu lưu trữ khoa học là đối tượng 
quản lý của các cơ quan lưu trữ các cấp. 
Trong khi đó, kết quả nghiên cứu khoa học 
(báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, báo 
cáo nhánh, phụ lục tổng hợp số liệu điều 
tra, khảo sát; phiếu mô tả quy trình công 
nghệ và giải pháp kỹ thuật; bản đồ; bản 
vẽ; ảnh; băng hình, đĩa hình), một trong 
những thành tố cấu thành hồ sơ, tài liệu lưu 
trữ khoa học lại thuộc đối tượng quản lý 
của các Trung tâm Thông tin Khoa học và 
Công nghệ các cấp. 
- Thực tiễn quản lý, lưu giữ, lưu trữ, 
công bố giới thiệu và sử dụng tài liệu lưu 
trữ khoa học 
 Với các quy định hiện hành như đã nêu 
trên, các tài liệu lưu trữ khoa học đã được 
nộp lưu vào lưu trữ hiện hành của Bộ, 
ngành cơ quan trung ương và địa phương, 
các trường đại học,.. một số tài liệu hết thời 
gian hiện hành đã được nộp lưu vào lưu trữ 
lịch sử. Kết quả nghiên cứu khoa học đã 
được đăng ký và lưu giữ tại các Trung tâm 
Thông tin Khoa học và Công nghệ các cấp. 
Việc thu thập, lưu giữ, lưu trữ, công bố, 
giới thiệu và tổ chức sử dụng phục vụ cho 
cơ quan, đơn vị và các cá nhân có yêu cầu 
khai thác nguồn lực thông tin này đã được 
các lưu trữ cũng như trung tâm thông tin 
quan tâm thực hiện. 
Ở Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 
Phòng Lưu trữ Văn phòng Viện đang bảo 
quản, lưu giữ được một khối lượng lớn tài 
liệu lưu trữ khoa học xã hội và nhân văn; 
gồm các chương trình, đề tài dự án cấp nhà 
nước, cấp bộ, cấp cơ sở và các hồ sơ tài 
liệu hội thảo khoa học từ năm 1981- 2011 
trên giá đỡ dài gần 50 mét đã được phân 
loại, chỉnh lý với khoảng 2.000 đơn vị bảo 
quản tài liệu. Trong đó, các dự án điều tra, 
đề tài cấp nhà nước và đề tài cấp bộ giai 
đoạn từ 2001 - 2011 có gần 1.000 công 
trình3. Hiện nay, website của Viện Khoa 
học xã hội Việt Nam đã cập nhật, công bố, 
giới thiệu tóm tắt nội dung 829 đề tài cấp 
nhà nước và cấp bộ do Viện Khoa học xã 
hội Việt Nam chủ trì giai đoạn 1995 - 
2010. Toàn văn công trình nghiên cứu độc 
giả có thể khai thác ở phòng lưu trữ Văn 
phòng Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 
Ở Viện Khoa học và Công nghệ Việt 
Nam, Trung tâm Thông tin - tư liệu chịu 
trách nhiệm lưu giữ và công bố giới thiệu 
các kết quả nghiên cứu khoa học và triển 
khai công nghệ. Đặc biệt, từ năm 2002 
đến nay đã có Báo cáo tổng hợp kết quả 
nghiên cứu khoa học và triển khai công 
nghệ thường kỳ 1 số/năm. Kết quả nghiên 
cứu khoa học và công nghệ được đăng tải 
thông tin trên website của Viện Khoa học 
công nghệ Việt Nam và Trung tâm thông 
tin của Viện. Các quy định cụ thể và việc 
thực hiện nộp lưu kết quả nghiên cứu khoa 
học và công nghệ vào Trung tâm Thông 
tin - tư liệu của Viện Khoa học và Công 
nghệ Việt Nam đã được thực hiện thường 
xuyên, nghiêm túc. Phòng Văn thư Lưu 
trữ của Viện lưu kết quả quản lý nghiên 
cứu do Viện Khoa học và công nghệ chủ 
trì thực hiện. 
Tại Viện Dầu khí, Trung tâm Lưu trữ 
dầu khí đã và đang lưu trữ nhiều tài liệu về 
thượng nguồn như: báo cáo kỹ thuật dạng 
bản cứng (giấy, film) và bản điện tử (PDF, 
DOC); Tài liệu địa vật lý giếng khoan 
gồm bản cứng (giấy, film), bản điện tử 
(PDS, TIF) và bộ tài liệu số (DLIS, 
LAS, LIS); Tài liệu địa chấn khảo sát 
2D, 3D; Dữ liệu thu nổ: SegA, SegB, 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 2/2013 
60
SegC, SegD, dữ liệu kết quả xử lý gồm bản 
cứng (giấy, film), bản điện tử (PDS, 
TIF) và bộ tài liệu số SegY, ASCII, 
lưu trữ trong băng từ, ổ cứng, đĩa; Các loại 
mẫu lõi, mẫu vụn ướt, mẫu khô của hơn 
550 giếng khoan với 9.650 mét mẫu lõi; 
Nhiều loại tài liệu, bản đồ, sơ đồ, báo cáo, 
kết quả nghiên cứu khoa học; Số lượng tài 
liệu đang quản lý là rất lớn và vô giá. 
Trong đó, có những tài liệu, báo cáo có giá 
trị từ những năm đầu thập niên 604. 
Ở Trung tâm Lưu trữ tỉnh Kiên Giang 
đang bảo quản Phông tài liệu Lưu trữ của 
Sở Khoa học và Công nghệ, trong đó có 
gần 80 đề tài nghiên cứu khoa học ở nhiều 
lĩnh vực khác nhau. Các đề tài khoa học 
công nghệ của tỉnh Kiên Giang là công 
trình nghiên cứu của các giáo sư, tiến sỹ, 
các kỹ sư, công chức, viên chức về các lĩnh 
vực như: nông nghiệp, thủy sản, giáo dục, 
nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường, bảo vệ 
các nguồn gen động, thực vật quý hiếm, 
lĩnh vực y học, lịch sử, địa lý học Kiên 
Giang là một tỉnh nông nghiệp nên công 
tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công 
nghệ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp rất 
được chú trọng và chiếm tỷ lệ cao trong 
tổng số đề tài khoa học của tỉnh5. 
Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học 
quốc gia lưu giữ hơn 1.000 công trình 
nghiên cứu khoa học do Trường chủ trì 
thực hiện. 
Thậm chí ngoài hệ thống cơ quan nhà 
nước, Trung tâm Di sản các nhà khoa học 
cũng đã quan tâm và thu thập lưu giữ được 
hơn 40.000 đầu tài liệu, hiện vật được 
nghiên cứu thu thập từ hơn 200 các nhà 
khoa học của Việt Nam. Trong đó có 
những công trình nghiên cứu có giá trị 
cao của các nhà khoa học như GS. Tôn 
Thất Tùng, GS. Đào Duy Anh, GS. Tạ 
Quang Bửu... 
Điểm qua những quy định và thực tế ở 
một số cơ quan, đơn vị chúng ta có thể 
thấy các chính sách và thể chế quản lý tài 
liệu lưu trữ khoa học và kết quả nghiên cứu 
khoa học đã tương đối đầy đủ, đây chính là 
cơ sở pháp lý cho việc triển khai và thực 
hiện nội dung này ở các cấp trung ương và 
địa phương. 
Cùng với văn bản pháp luật là một hệ 
thống các tổ chức lưu trữ, tổ chức thông tin 
từ trung ương tới địa phương được hình 
thành để đảm trách công tác này. Các Bộ, 
ngành, cơ quan Trung ương đều có Trung 
tâm Thông tin và Phòng lưu trữ để thực 
hiện chức năng lưu giữ, công bố giới thiệu 
và tổ chức khai thác sử dụng kết quả 
nghiên cứu/tài liệu lưu trữ khoa học. 
Tỉnh/thành phố đều có các Trung tâm 
Thông tin khoa học và Trung tâm Lưu trữ 
đảm nhiệm. 
Trên thực tế, việc lưu trữ, lưu giữ, công 
bố, giới thiệu, quản lý tài liệu lưu trữ khoa 
học đã được các bộ, ban, ngành, cơ quan 
trung ương và địa phương triển khai thực 
hiện. Nhiều bộ, ngành, cơ quan đã biết phát 
huy giá trị nguồn thông tin này cho hoạt 
động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, đào 
tạo, phát triển kinh tế và ổn định xã hội. 
Khả năng tiếp cận tài liệu lưu trữ khoa học 
đang ngày càng được mở rộng. Các tổ chức 
lưu trữ và thông tin đang nỗ lực để làm cho 
tài liệu lưu trữ khoa học và sản phẩm 
nghiên cứu khoa học ngày càng gần gũi, 
thiết thực hơn nữa với công chúng, người 
nghiên cứu và nhà quản lý nghiên cứu. 
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên 
cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên 
Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu... 
61
nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa 
học cho các phương án phát triển kinh tế - 
xã hội của đất nước6. 
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân 
văn, những luận cứ khoa học từ kết quả 
nghiên cứu đã góp phần bổ sung, phát triển 
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời 
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tổng kết 
đánh giá Chiến lược phát triển kinh tế - xã 
hội giai đoạn 2001-2010, làm căn cứ để 
phân tích dự báo bối cảnh và tình hình 
trong nước, đề xuất quan điểm, chủ trương 
và các định hướng mới trong chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 
2011-2020. Các kiến nghị khoa học về 
quan điểm phát triển bền vững đất nước, 
các giải pháp đối với các vấn đề xã hội, 
dân tộc, tôn giáo trong bối cảnh mới cũng 
đã góp phần rất lớn cho Đảng và Nhà nước 
ta trong việc xây dựng và hoạch định chính 
sách kinh tế - xã hội7. 
Ngoài những đóng góp vĩ mô như đề 
cập ở trên, chỉ riêng tài liệu lưu trữ khoa 
học trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò khai 
thác dầu khí cho thấy tất cả các mỏ được 
phát hiện và đưa vào khai thác đều có dấu 
ấn kết quả nghiên cứu khoa học và ứng 
dụng các công nghệ tiên tiến của Viện Dầu 
khí Việt Nam. Trong đó các chương trình 
trọng điểm cấp nhà nước 22.01 (1981 - 
1985), 2A (1986 - 1990), KT 01 (1991 - 
1995), KT03 (1996 -2000) do Viện Dầu 
khí Việt Nam nghiên cứu đã đánh giá tiềm 
năng, phân vùng triển vọng dầu khí, đề 
xuất phương hướng triển khai công tác dầu 
khí trong các năm tiếp theo, góp phần xây 
dựng phương hướng phát triển ngành Dầu 
khí đến năm 20258. 
Mặc dù đã đạt được thành quả đáng kể 
bước đầu trong quản lý, phát huy giá trị tài 
liệu lưu trữ khoa học, nhưng hoạt động này 
vẫn còn nhiều bất cập. Tài liệu lưu trữ 
cũng như kết quả nghiên cứu khoa học 
chưa được lưu giữ, lưu trữ theo đúng quy 
định của pháp luật hiện hành. Hầu hết tài 
liệu nằm rải rác ở từng cấp, từng Bộ, 
ngành, thiếu tính hệ thống, chưa được nộp 
lưu đầy đủ vào các tổ chức lưu trữ, tổ chức 
thông tin khoa học và công nghệ. Do đó, 
việc phát huy giá trị của tài liệu để phục vụ 
cho hoạt động thực tiễn, nghiên cứu và 
quản lý nghiên cứu còn hạn chế. 
Công trình nghiên cứu còn trùng lặp, hạ 
tầng thông tin khoa học và công nghệ chưa 
đủ mạnh để hỗ trợ cho công tác quản lý 
nhà nước về khoa học và công nghệ. Hệ 
thống các cơ sở dữ liệu thông tin và thống 
kê quốc gia về nguồn lực và các nhiệm vụ 
nghiên cứu (chương trình, đề tài, dự án 
khoa học và công nghệ) phục vụ cho công 
tác lập kế hoạch, quản lý, hoạch định chính 
sách và hoạt động của thị trường khoa học 
và công nghệ còn hạn chế. Các trung tâm 
thông tin khoa học và công nghệ tại các 
Bộ, ngành, địa phương chưa được hiện đại, 
đồng bộ. Mạng nghiên cứu và đào tạo tại 
Việt Nam chưa kết nối một cách rộng rãi 
nên hạn chế trong việc phát huy vai trò 
thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, đào tạo, chia 
sẻ, cập nhật thông tin, tri thức tiên tiến quy 
mô quốc gia và quốc tế 9. 
Theo quy định pháp luật hiện hành, ở 
cấp trung ương Trung tâm Lưu trữ Quốc 
gia III thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà 
nước là tổ chức lưu trữ lịch sử có chức 
năng thu thập, bảo quản và tổ chức khai 
thác sử dụng tài liệu lưu trữ khoa học khi 
tài liệu đã hết thời gian hiện hành (sau 10 
năm phải nộp lưu vào lưu trữ lịch sử) ở lưu 
trữ hiện hành (lưu trữ cơ quan/tổ chức ở 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 2/2013 
62
Bộ, ngành, cơ quan Trung ương). Trung 
tâm Thông tin Khoa học và công nghệ các 
cấp chịu trách nhiệm đăng ký kết quả các 
nhiệm vụ khoa học và công nghệ; xây 
dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu; biên soạn và 
xuất bản ấn phẩm; công bố thông tin thư 
mục về kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa 
học và công nghệ đã đăng ký; cập nhật dữ 
liệu vào ngân hàng dữ liệu và mạng thông 
tin quốc gia về kết quả thực hiện nhiệm vụ 
khoa học và công nghệ đã đăng ký. Nhưng 
kết quả nghiên cứu chưa nộp lưu và đăng 
ký đầy đủ ở các trung tâm thông tin nên 
việc tổng hợp, công bố giới thiệu kết qủa 
nghiên cứu bị hạn chế, chưa kịp thời, 
không đầy đủ. 
Ở cấp địa phương, Trung tâm Lưu trữ 
tỉnh/thành phố là Lưu trữ lịch sử có chức 
năng thu thập, bảo quản và tổ chức khai 
thác sử dụng tài liệu lưu trữ khoa học từ 
lưu trữ hiện hành (lưu trữ của các sở, 
ngành thuộc tỉnh/thành phố) khi tài liệu đã 
hết thời gian hiện hành. 
Trên thực tế, Trung tâm Lưu trữ Quốc 
gia III mới chỉ lưu giữ và tổ chức khai thác 
sử dụng một khối tài liệu khoa học rất ít do 
các lưu trữ hiện hành (lưu trữ bộ, ngành 
trung ương) nộp lưu, gồm các chương 
trình, đề tài, dự án, đề án, tài liệu hội thảo 
khoa học, từ năm 2001 trở về trước. 
Trong đó, chủ yếu mới có Bộ Khoa học và 
Công nghệ nộp lưu. Tài liệu khoa học của 
các bộ, ngành và các cơ quan trung ương 
hầu như vắng bóng, ngay cả hai viện 
nghiên cứu khoa học đầu ngành về tự 
nhiên và xã hội, tài liệu khoa học cũng 
đang lưu giữ tại đơn vị chủ quản, chưa nộp 
lưu vào Lưu trữ quốc gia. Trung tâm lưu 
trữ các tỉnh/thành phố cũng trong tình 
trạng chung, tài liệu lưu trữ khoa học phần 
lớn đang nằm ở đa số các sở khoa học và 
công nghệ. 
Việc lưu giữ kết quả nghiên cứu khoa 
học và công nghệ ở Trung tâm thông tin 
khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ 
Khoa học và Công nghệ cũng nằm trong 
tình trạng tương tự. Tỷ lệ Báo cáo các đề 
tài cấp nhà nước đăng ký chỉ gần 50%, đề 
tài cấp bộ 37%10. 
Như vậy, có thể thấy, tài liệu lưu trữ 
khoa học cũng như kết quả nghiên cứu 
khoa học hiện được lưu giữ ở các tổ chức 
lưu trữ các cấp từ Trung ương tới địa 
phương và tổ chức thông tin của các Bộ, 
ngành, viện nghiên cứu, sở khoa học thuộc 
tỉnh, chưa được quản lý thống nhất, chưa 
được nộp lưu đầy đủ theo như quy định. Sự 
quan tâm đầu tư của từng đơn vị đối với 
sản phẩm này cũng có sự khác nhau. Đơn 
vị nào quản lý chặt chẽ thì tài liệu được 
nộp lưu, lưu giữ tương đối đầy đủ, được 
công bố giới thiệu và phát huy được giá trị 
cho hoạt động thực tiễn và quản lý hoạt 
động khoa học của cơ quan, đơn vị. Nhưng 
cũng không ít đơn vị quản lý sản phẩm này 
chưa tốt, nên tài liệu lưu giữ không đầy đủ, 
rất khó phát huy giá trị của nguồn tài 
nguyên trí tuệ này. 
Nguyên nhân tồn tại 
Một là, do cá nhân và tổ chức hoạt động 
trong lĩnh vực khoa học và lưu trữ nhận 
thức chưa đầy đủ về trách nhiệm của mình, 
về vai trò và tầm quan trọng của tài liệu 
lưu trữ khoa học và việc phải quản lý chặt 
chẽ và phát huy có hiệu quả giá trị tài liệu 
lưu trữ khoa học, kết quả nghiên cứu. 
Hai là, hệ thống pháp luật hiện hành 
chưa đầy đủ, thiếu chế tài xử lý vi phạm. 
Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu... 
63
Đến nay vẫn chưa có quy định riêng của cơ 
quan quản lý nhà nước về lưu trữ trong 
việc quản lý tài liệu lưu trữ khoa học để 
làm cơ sở cho việc quản lý nhóm tài liệu 
quan trọng này. Các Bộ, ngành, cơ quan 
trung ương và địa phương đã có quy định 
về quản lý, nộp lưu kết quả nghiên cứu 
khoa học nhưng trong các quy định đó vẫn 
thiếu các chế tài xử lý vi phạm về nộp lưu 
tài liệu khoa học và đăng ký kết quả nghiên 
cứu. Do đó tài liệu lưu trữ khoa học và kết 
quả nghiên cứu chưa được nộp lưu đầy đủ. 
Ba là, thiếu sự liên kết giữa các cá nhân 
và tổ chức có liên quan đến hoạt động lưu 
giữ, lưu trữ, công bố, giới thiệu, quản lý, tổ 
chức khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ khoa 
học và kết quả nghiên cứu khoa học. Cụ 
thể ở đây là người nghiên cứu, cơ quan 
quản lý nghiên cứu (Bộ Khoa học và Công 
nghệ, Ban Quản lý Khoa học, sở Khoa học 
và Công nghệ, Trung tâm Thông tin Khoa 
học và Công nghệ các cấp), cơ quan quản 
lý tài liệu lưu trữ (Bộ Nội vụ, Cục Văn thư 
và Lưu trữ nhà nước, phòng lưu trữ bộ 
ngành cơ quan trung ương, Trung tâm lưu 
trữ tỉnh/thành phố). 
Bốn là, đội ngũ cán bộ làm công tác lưu 
trữ, thông tin và quản lý hoạt động khoa 
học chưa thực sự sâu sát đến vấn đề lưu trữ 
và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ khoa học. 
Năm là, hiệu lực văn bản pháp luật chưa 
cao. Tổ chức thực hiện trên thực tế thiếu 
thống nhất, chưa tuân thủ đúng quy định 
hiện hành của pháp luật. Văn bản hướng 
dẫn, quy định về quản lý tài liệu lưu trữ 
khoa học, kết quả nghiên cứu vẫn còn 
chồng chéo, chưa đồng bộ, thiếu sự kết nối 
giữa các văn bản dưới luật. Do đó, các Bộ, 
ngành, đơn vị mỗi nơi quy định và thực 
hiện lưu giữ kết quả nghiên cứu một khác, 
nơi thì giao cho trung tâm thông tin - tư 
liệu, nơi thì giao cho phòng lưu trữ. Vì 
vậy, thiếu tính thống nhất trong cả hệ 
thống thông tin và hệ thống lưu trữ, không 
đồng thời nộp lưu ở cả hai hệ thống. 
Sáu là, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo 
của các cấp có thẩm quyền còn thiếu kiểm 
tra, giám sát, hướng dẫn. Việc tổng kết, 
đánh giá chưa trở thành nhiệm vụ thường 
xuyên của các cấp quản lý. 
Cùng với đó là, chất lượng công trình 
nghiên cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực 
khoa học xã hội, số lượng đề tài nhiều 
nhưng chất lượng còn thấp, ít có công trình 
có giá trị cao, hàm lượng khoa học chứa 
trong tài liệu lưu trữ khoa học ít. Hạn chế 
này đã phần nào làm giảm đi giá trị tài liệu 
lưu trữ khoa học. 
3. Một số giải pháp nhằm quản lý, sử 
dụng và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ 
khoa học ở Việt Nam trong thời gian tới 
Để quản lý và phát huy giá trị tài liệu 
lưu trữ khoa học cũng như kết quả nghiên 
cứu khoa học ở Việt Nam trong giai đoạn 
hiện nay theo chúng tôi, cần phải thực hiện 
đồng bộ các giải pháp sau đây: 
- Nâng cao hơn nữa nhận thức chung 
của toàn xã hội và trách nhiệm của lãnh 
đạo các cơ quan quản lý nhà nước về khoa 
học và lưu trữ, cán bộ trực tiếp làm việc 
trong lĩnh vực khoa học, lưu trữ và thông 
tin về tầm quan trọng của tài liệu và việc 
phải quản lý, phát huy giá trị tài liệu lưu 
trữ khoa học. 
- Cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật 
hiện hành, cụ thể là: Bộ Nội vụ cần có quy 
định riêng để cụ thể hóa nội dung quản lý, 
lưu trữ tài liệu khoa học trong phạm vi cả 
nước; Quy định xử lý vi phạm trong đăng 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 2/2013 
64
ký, quản lý, giao nộp tài liệu nghiên cứu 
khoa học/ kết quả nghiên cứu. 
- Các Bộ, ngành, cơ quan trung ương 
cần sửa đổi và thực hiện thống nhất quy 
định tài liệu lưu trữ khoa học phải nộp lưu 
vào Lưu trữ hiện hành, kết quả nghiên cứu 
phải nộp lưu vào Trung tâm Thông tin để 
tránh tình trạng mỗi nơi làm một kiểu, 
không thống nhất trong cả hệ thống; tài 
liệu lưu trữ khoa học không thể lưu trọn 
bộ, kết quả nghiên cứu không thể đăng ký, 
công bố giới thiệu đầy đủ ở các trung tâm 
thông tin như hiện nay vì không được nộp 
lưu đầy đủ. 
- Ở từng Bộ, ngành, cơ quan nghiên 
cứu khoa học cần phải thực hiện nghiêm 
việc đồng thời nộp lưu kết quả nghiên cứu 
vào Trung tâm Thông tin để đăng ký, 
công bố, giới thiệu kết quả nghiên cứu 
theo kênh thông tin khoa học và nộp lưu 
vào phòng lưu trữ để lưu giữ, bảo vệ và 
phát huy giá trị tài liệu lưu trữ khoa học 
theo kênh lưu trữ. 
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, tổng 
kết thực tiễn hoạt động quản lý, công bố 
giới thiệu và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ 
khoa học/kết quả nghiên cứu khoa học để 
thúc đẩy hoạt động này hiệu quả hơn. 
- Đẩy mạnh phối kết hợp giữa người 
nghiên cứu, cơ quan quản lý tài liệu lưu trữ 
khoa học và người quản lý hoạt động khoa 
học để nộp lưu đầy đủ tài liệu lưu trữ khoa 
học/kết quả nghiên cứu khoa học vào tổ 
chức lưu trữ và trung tâm thông tin khoa 
học các cấp. 
- Nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ 
cán bộ làm công tác lưu trữ, thông tin và 
quản lý hoạt động khoa học để sâu sát hơn 
đến vấn đề lưu trữ, thu nộp và phát huy giá 
trị tài liệu lưu trữ khoa học. 
- Nâng cao chất lượng công trình nghiên 
cứu để có những công trình nghiên cứu có 
giá trị cao. 
- Đa dạng hóa hình thức tổ chức khai 
thác sử dụng, giới thiệu quảng bá, phát huy 
hơn nữa giá trị tài liệu lưu trữ khoa học. 
+ Thiết lập bảo tàng khoa học để giới thiệu 
sản phẩm nghiên cứu khoa học, tài liệu 
nghiên cứu khoa học rộng rãi tới công chúng. 
+ Đẩy mạnh truyền thông để kịp thời 
quảng bá, giới thiệu rộng rãi các kết quả 
nghiên cứu khoa học công nghệ. 
- Xây dựng mô hình liên kết ngành 
thông tin, lưu trữ, bảo tàng và người 
nghiên cứu để lưu giữ, tổng hợp, cung cấp, 
chia sẻ, giới thiệu, triễn lãm thông tin tài 
liệu lưu trữ khoa học/kết quả nghiên cứu 
khoa học hiệu quả hơn. 
Tài liệu lưu trữ khoa học là nguồn thông 
tin đặc biệt quan trọng của đất nước, là kết 
quả của hoạt động quản lý và nghiên cứu 
khoa học mà các tập thể cơ quan, tổ chức và 
cá nhân tạo lập nên. Đây là dữ liệu cấp I, 
chứa đựng các luận cứ khoa học, thông tin 
dự báo, là nguồn tư liệu không thể thiếu đối 
với giới nghiên cứu, nhà quản lý và giới 
lãnh đạo, phúc đáp cho yêu cầu giải đáp và 
dự báo các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư 
duy của con người, những vấn đề nóng, cấp 
bách của quốc gia, dân tộc và thế giới... 
Trong xã hội hiện đại, có rất nhiều 
nguồn thông tin trái chiều, vì vậy nguồn tư 
liệu khoa học có độ tin cậy cao này càng 
cần phải được phổ biến rộng rãi hơn nữa 
đến công chúng trong và ngoài nước để họ 
có thể tiếp cận, hiểu sâu và hiểu đúng hơn 
về đất nước con người Việt Nam, về các 
Quản lý và phát huy giá trị nguồn tài liệu... 
65
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà 
nước và về kết quả phát triển kinh tế - xã 
hội của Việt Nam hiện nay, nhất là những 
vấn đề xã hội, vấn đề nhạy cảm như tôn 
giáo, dân tộc và nhân quyền... 
___________________ 
Chú thích 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010. Văn kiện Đại 
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI , Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, tr.135. 
2. Phòng lưu trữ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 
Tập lưu văn bản đến năm 2000, 2004, 2006, 2007, 
2008, 2009, 2011. 
3. Phòng lưu trữ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 
Danh mục chương trình đề tài nghiên cứu Khoa học. 
4.  
ype=pac. 
5.  
menu Id=1110&articleId=21453. 
6.  Bai-viet-
Hoat-Dong-KHCN/Chien-luoc-quy-hoach-ke-hoach/ 
Thực trạng khoa học và công nghệ Việt Nam. 
7. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Chiến lược 
phát triển Viện Khoa học xã hội Việt Nam giai 
đoạn 2011-2020. 
8.  
vi-dau-an-ket-qua-nghien-cuu-khoa-hoc.html. 
9. Văn phòng BCH Trung ương Đảng cộng sản 
Việt Nam, Tình hình phát triển khoa học và công 
nghệ từ năm 1996 đến năm 2011, Thông tin 
chuyên đề số 24-TTCĐ/VPCP ngày 7/9/2012. 
10.www.vinaren.vn/.../3%20Cacs%20bao%20cao.

File đính kèm:

  • pdfquan_ly_va_phat_huy_gia_tri_nguon_tai_lieu_luu_tru_khoa_hoc.pdf