Mô hình cấu trúc về ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn trực tuyến tại Việt Nam

Nghiên cứu được thực hiện nhằm xây dựng và kiểm định một mô hình cấu trúc về lý

thuyết sử dụng và hài lòng, vốn xã hội, cảm nhận về cộng đồng ảo với thái độ hướng về diễn đàn

và ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn trực tuyến. Phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM) thực hiện

trên 147 mẫu thu thập từ những thành viên của các diễn đàn trực tuyến tại Việt Nam đã ủng hộ 16

trên tổng số 17 giả thuyết nghiên cứu đề xuất. Kết quả cho thấy, sử dụng và hài lòng (nhu cầu

thông tin và nhu cầu giải trí), vốn xã hội (vốn nhận thức và vốn quan hệ) đều có tác động tích cực

lên thái độ cũng như cảm nhận về diễn đàn trực tuyến (tính đam mê và tính ảnh hưởng) có ảnh

hưởng dương lên ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn. Ngoài ra, nghiên cứu còn nhận diện các

mối quan hệ nội tại của cả ba khái niệm phức hợp là sử dụng và hài lòng, vốn xã hội và cảm nhận

về cộng đồng ảo.

pdf 11 trang kimcuc 2340
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình cấu trúc về ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn trực tuyến tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình cấu trúc về ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn trực tuyến tại Việt Nam

Mô hình cấu trúc về ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn trực tuyến tại Việt Nam
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 
 32
Mô hình cấu trúc về ý định đóng góp tri thức 
trên diễn đàn trực tuyến tại Việt Nam 
Nguyễn Mạnh Tuân*, Đặng Thái Đoàn 
Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, 
268 Lý Thường Kiệt, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 
Nhận ngày 16 tháng 8 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 09 tháng 9 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 9 năm 2017 
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm xây dựng và kiểm định một mô hình cấu trúc về lý 
thuyết sử dụng và hài lòng, vốn xã hội, cảm nhận về cộng đồng ảo với thái độ hướng về diễn đàn 
và ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn trực tuyến. Phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM) thực hiện 
trên 147 mẫu thu thập từ những thành viên của các diễn đàn trực tuyến tại Việt Nam đã ủng hộ 16 
trên tổng số 17 giả thuyết nghiên cứu đề xuất. Kết quả cho thấy, sử dụng và hài lòng (nhu cầu 
thông tin và nhu cầu giải trí), vốn xã hội (vốn nhận thức và vốn quan hệ) đều có tác động tích cực 
lên thái độ cũng như cảm nhận về diễn đàn trực tuyến (tính đam mê và tính ảnh hưởng) có ảnh 
hưởng dương lên ý định đóng góp tri thức trên diễn đàn. Ngoài ra, nghiên cứu còn nhận diện các 
mối quan hệ nội tại của cả ba khái niệm phức hợp là sử dụng và hài lòng, vốn xã hội và cảm nhận 
về cộng đồng ảo. 
Từ khóa: Mô hình cấu trúc, sử dụng và hài lòng, vốn xã hội, cảm nhận về cộng đồng ảo. 
1. Giới thiệu 
Các diễn đàn trực tuyến hầu như được khai 
sinh và lớn mạnh cùng với hiện tượng Internet 
[1]. Gần đây, cùng với trào lưu truyền thông xã 
hội (social media), các cộng đồng trên diễn đàn 
trực tuyến ngày càng nhiều và trở thành một 
thực tế quen thuộc của những người dùng 
Internet nói chung [2]. Nghiên cứu của 
Mathwick và cộng sự (2008) đã chỉ ra, các diễn 
đàn trực tuyến là phù hợp cho việc phát triển 
các loại quan hệ cộng đồng bởi đó là các 
phương tiện đóng góp tri thức hữu hiệu [3]. Tuy 
nhiên, cần lưu ý là những lợi thế về mặt kỹ 
thuật vẫn chưa đủ để thúc đẩy ý định và hành vi 
đóng góp tri thức thực sự trong cộng đồng 
_______ 
* Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-903872833. 
 Email: n.m.tuan@hcmut.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4055 
ảo [4]. Malik và cộng sự (2016) cho rằng các 
thành viên cảm nhận được nhu cầu sử dụng của 
mình thì sẽ nỗ lực chia sẻ trong cộng đồng ảo 
tương ứng [5]. Vì vậy, lý thuyết sử dụng và hài 
lòng (Uses and Gratifications - U&G) - xuất 
phát từ lĩnh vực truyền thông, đã được áp dụng 
phổ biến để thể hiện nhu cầu cá nhân trong các 
nghiên cứu về cộng đồng ảo [6]. Mặt khác, 
cộng đồng ảo là một dạng mạng lưới cho phép 
người dùng trực tuyến chia sẻ các mối quan tâm 
chung về xã hội [7], do đó các nghiên cứu trên 
cộng đồng ảo thường dùng cách tiếp cận vốn xã 
hội [8]. Trong khi đó, sự kết hợp quan điểm nhu 
cầu cá nhân và nguồn lực xã hội vẫn chưa được 
quan tâm nhiều trong mảng chia sẻ tri thức 
trong cộng đồng ảo [9]. Tuy nhiên), dù số người 
sử dụng Internet ở Việt Nam đã vượt ngưỡng 
50 triệu người (53% dân số), cao hơn ngưỡng 
trung bình thế giới là 46,64%, thì theo báo cáo 
N.M. Tuân, Đ.T. Đoàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 33
của Bộ Thông tin và Truyền thông (2017), chất 
lượng thông tin và hàm lượng tri thức chia sẻ 
trực tuyến vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này cho 
thấy, ngoài việc nâng cao các tính năng và ứng 
dụng cho các diễn đàn nhằm thu hút những 
người tham gia thì cần thiết phải có các nghiên 
cứu nhằm xem xét thái độ, hành vi của những 
người tham gia nhằm tìm các giải pháp nâng 
cao chất lượng của các diễn đàn là một nhu cầu 
thiết yếu tại Việt Nam. Từ đây, nghiên cứu tập 
trung xem xét cả hai khía cạnh - sử dụng và hài 
lòng lẫn vốn xã hội - đối với hành vi cá nhân là 
những thành viên trong các diễn đàn trực tuyến 
khác nhau. 
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố 
ảnh hưởng đến ý định đóng góp tri thức trên các 
diễn đàn tri thức tại Việt Nam bao gồm: (1) 
Xem xét tác động của nhóm các yếu tố sử dụng 
& hài lòng cùng với nhận thức xã hội tác động 
như thế nào đến thái độ hướng về diễn đàn của 
khách hàng; (2) Kiểm định vai trò trung giang 
của nhóm các yếu tố cảm nhận về cộng đồng 
trực tuyến đối với ý định đóng góp tri thức; (3) 
Cuối cùng xác định các yếu tố thật sự ảnh 
hưởng đến ý định đóng góp tri thức trên diễn 
đàn trực tuyến cũng như mối quan hệ nội tại 
trong các khung lý thuyết được đề cập đến. 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Các khái niệm nền tảng 
Với việc nhìn nhận diễn đàn trực tuyến như 
là một dạng cộng đồng trực tuyến, nghiên cứu 
này đặt cơ sở trên các lý thuyết cảm nhận về 
cộng đồng trực tuyến (sense of virtual 
community) của Koh và Kim (2003) [10], sử 
dụng và hài lòng của Stafford và cộng sự 
(2004) [11] và cuối cùng là vốn xã hội (social 
capital) của Nahapiet và Ghoshal (1998) [12]. 
Cảm nhận về cộng đồng trực tuyến 
Theo McMillan và Chavis (1986), cảm 
nhận về cộng đồng, là cảm giác mà các thành 
viên của cộng đồng cảm thấy phụ thuộc lẫn 
nhau, và với một niềm tin rằng nhu cầu của 
mình sẽ được đáp ứng bởi các thành viên khác 
[13]. Trên nền tảng đó, Koh và Kim (2003) đề 
xuất khái niệm cảm nhận về cộng đồng trực 
tuyến có ý nghĩa và phù hợp hơn cho những bối 
cảnh ảo, với ba khía cạnh là tính thành viên, 
tính ảnh hưởng và tính đam mê [10]. Thứ nhất, 
tính thành viên chỉ ra những cảm giác thuộc về 
cộng đồng ảo của người trải nghiệm. Thứ hai, 
tính ảnh hưởng là điều mà mỗi cá nhân có thể 
tác động đến những thành viên khác trong cộng 
đồng ảo mà họ tham gia. Cuối cùng, tính đam 
mê là tình trạng mà thành viên tham gia bị cuốn 
theo những hoạt động trong cộng đồng ảo. Ba 
khía cạnh trên của cảm nhận về cộng đồng trực 
tuyến phản ánh tình cảm, nhận thức và hành vi 
của các thành viên trong cộng đồng trực tuyến 
[6] và sẽ được khai thác trong nghiên cứu này. 
Sử dụng và hài lòng 
Lý thuyết U&G đề xuất rằng việc sử dụng 
các phương tiện truyền thông sẽ giúp con người 
có thể chủ động thay vì thụ động trong việc tiếp 
nhận và tìm kiếm thông tin để đáp ứng nhu cầu 
riêng của cá nhân [14]. Ngoài ra, U&G còn cho 
rằng việc tích cực sử dụng các phương tiện 
truyền thông sẽ dẫn đến trạng thái tương tác cao 
với chúng [15]. Gần đây, U&G được dùng 
trong nhiều nghiên cứu về tâm lý và hành vi 
người dùng Internet [16]. Chen và cộng sự 
(2013) đề cập việc kết hợp cả ba khía cạnh của 
lý thuyết U&G trong bối cảnh cộng đồng ảo là 
nhu cầu giải trí, nhu cầu xã hội và nhu cầu 
thông tin nhằm giải thích những động lực sử 
dụng và sự thỏa mãn của thành viên về cộng 
đồng ảo [6]. Đầu tiên, nhu cầu giải trí tham 
chiếu đến việc phương tiện truyền thông giúp 
người dùng cảm thấy được thư giãn và tận 
hưởng những điều thú vị [15]. Tiếp đến, nhu 
cầu xã hội đề cập đến việc người dùng tham gia 
cộng đồng ảo nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội 
như gặp gỡ bạn bè, duy trì các mối quan hệ ẩn, 
tìm kiếm sự hỗ trợ về tinh thần và xây dựng ý 
thức cho cộng đồng chung [17]. Cuối cùng, nhu 
cầu thông tin là mức độ mà người dùng có được 
thông tin nhanh chóng và hữu ích [18]. Nghiên 
cứu này vận dụng cả ba thành phần của U&G 
nhằm đánh giá và đo lường thái độ của các 
thành viên đối với diễn đàn mà họ tham gia. 
N.M. Tuân, Đ.T. Đoàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 
34
Vốn xã hội 
Adler và Kwon (2002) mô tả vốn xã hội là 
các nguồn lực bắt nguồn từ các mối quan hệ 
diễn ra giữa các cá nhân với mạng lưới trong và 
ngoài tổ chức [19]. Theo Nahapiet và Ghoshal 
(1998), vốn xã hội là một khái niệm phức hợp 
bao gồm ba khía cạnh khác nhau: vốn nhận 
thức, vốn cấu trúc và vốn quan hệ [12]. Theo 
đó, vốn nhận thức là những yếu tố giúp cho 
việc chia sẻ, trình bày và giải thích giữa các 
thành viên trong mạng lưới được thuận tiện 
hơn; vốn cấu trúc bao gồm hệ thống các mối 
quan hệ giữa các thành viên trong mạng lưới và 
có thể được thể hiện qua các kết nối, dạng mô 
hình và tính bền vững của mạng lưới; còn vốn 
quan hệ mô tả các mối quan hệ giữa các thành 
viên, bao gồm sự tin tưởng, tôn trọng và quan 
tâm đến lợi ích của nhau. Vốn xã hội với ba 
thành phần trên được sử dụng trong nhiều nghiên 
cứu hành vi chia sẻ tri thức, chẳng hạn như của 
Demartini (2015) [20]. Nghiên cứu này kế thừa 
công trình của Nahapiet và Ghoshal (1998) [12], 
đồng thời đề xuất thêm các mối quan hệ nội tại 
giữa ba thành phần của vốn xã hội. 
Thái độ hướng về diễn đàn trực tuyến và ý 
định đóng góp tri thức trong diễn đàn 
trực tuyến 
Một cách tổng quát, thái độ là cảm nhận của 
một cá nhân mang tính thuận lợi hay bất tiện 
hướng về một đối tượng nhất định [21]. Cụ thể 
hơn, những thành viên thường xuyên tham gia 
diễn đàn chắc chắn sẽ có thái độ tích cực, tuy 
nhiên, thái độ tích cực này có trực tiếp dẫn đến 
ý định chia sẻ tri thức hay không vẫn còn là một 
vấn đề cần nghiên cứu [6]. Điều này từng được 
chỉ ra trong nghiên cứu của Davis và cộng sự 
(1989) [22], theo đó thái độ được loại trừ khi 
xem xét sự tác động đến ý định sử dụng hệ 
thống công nghệ. 
Cũng cần nhắc lại rằng tri thức ở đây được 
hiểu chung là những dữ kiện, thông tin, kỹ năng 
hay hiểu biết có được nhờ trải nghiệm hoặc qua 
các hình thức học tập khác nhau. Và theo đó, ý 
định đóng góp tri thức trong nghiên cứu này 
được xem là trạng thái mà các thành viên muốn 
cung cấp và tiếp nhận tri thức trong các diễn 
đàn mà họ tham gia [8]. 
2.2. Các giả thuyết nghiên cứu 
Sử dụng và hài lòng với thái độ hướng về 
diễn đàn trực tuyến 
Nhiều nghiên cứu đã sử dụng lý thuyết 
U&G nhằm tìm hiểu các khía cạnh động cơ 
thuộc về hành vi và tâm lý của người sử dụng 
Internet [11]. 
Trước hết, theo Koh và cộng sự (2003), 
người dùng tham gia vào các cộng đồng trực 
tuyến chính yếu là nhằm thỏa mãn các mục tiêu 
như gặp gỡ bạn bè mới, duy trì các mối quan hệ 
ẩn, hay tìm kiếm sự hỗ trợ về mặt tinh thần 
[10]. Liu và cộng sự (2016) [23] cũng đã khám 
phá ra rằng nhu cầu xã hội là một động lực 
chính để duy trì mối quan hệ giữa các thành 
viên của các loại hình mạng xã hội. Từ đó, dựa 
trên và chỉ bằng các kết nối xã hội này, các 
thành viên sẽ có điều kiện hướng đến các hoạt 
động khác như chia sẻ hiểu biết chung trong cả 
cộng đồng (đáp ứng nhu cầu thông tin) hay chia 
sẻ niềm vui và cảm xúc giữa các thành viên 
(đáp ứng nhu cầu giải trí) [17]. Mặt khác, giá trị 
thông tin là quan trọng nhất đối với cảm nhận 
hài lòng của người dùng trực tuyến [15]. Trong 
khi đó, mối quan hệ nội tại giữa ba thành phần 
này trong lý thuyết U&G của Katz và cộng sự 
(1974) chưa được đánh giá [14]. Tại Việt Nam 
với đặc thù là dân số trẻ, lực lượng sử dụng 
Internet với đa phần nhu cầu giải trí cá nhân, 
chứ chưa có nhiều ý niệm về việc chia sẻ kỹ 
năng hay tri thức cho những thành viên khác. 
Do đó, nhằm kiểm chứng thực nghiệm vai trò 
của nhóm các yếu tố sử dụng và hài lòng trong 
nghiên cứu này đề xuất các giả thuyết sau: 
H1a: Nhu cầu xã hội tác động dương lên 
nhu cầu giải trí. 
H1b: Nhu cầu xã hội tác động dương lên 
nhu cầu thông tin. 
H1c: Nhu cầu thông tin tác động dương lên 
nhu cầu giải trí. 
Mặt khác, nhu cầu giải trí tham chiếu đến 
mức độ thoải mái và vui vẻ của môi trường có thể 
mang lại cho người dùng [11], thế nên nhu cầu 
giải trí sẽ có ảnh hưởng thuận lợi đến cảm nhận 
của người dùng về môi trường. Về thực nghiệm, 
gần đây Chen và cộng sự (2013) cũng đã kiểm 
định rằng nhu cầu giải trí tác động đến thái độ của 
N.M. Tuân, Đ.T. Đoàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 35
các thành viên hướng về cộng đồng trực tuyến [6]. 
Từ đây, giả thuyết sau được hình thành: 
H2a: Nhu cầu giải trí tác động dương lên 
thái độ hướng về diễn đàn. 
Tiếp theo, Bowman và Willis (2003) lập 
luận rằng dẫn dắt cho sự tham gia của các thành 
viên trên cộng đồng ảo là để có được kiến thức 
và thông tin hữu ích [24]. Từ đây, giả thuyết 
sau được đề xuất: 
H2b: Nhu cầu thông tin tác động dương lên 
thái độ hướng về diễn đàn. 
Vốn xã hội với thái độ hướng về diễn đàn 
trực tuyến 
Vốn xã hội được quan niệm là các nguồn 
lực xuất phát từ các mối quan hệ của cá nhân 
hay tổ chức, ví dụ như sự chia sẻ thông tin 
trong một câu lạc bộ/diễn đàn người tiêu dùng 
đối với các loại hình sản phẩm/dịch vụ khác 
nhau. Hơn thế, vốn xã hội thường được xem 
gồm ba thành phần: cấu trúc, nhận thức và quan 
hệ [12]. Vốn cấu trúc thể hiện các kết nối và 
tương tác giữa các cá nhân, hình thành bởi cấu 
trúc của các mạng xã hội, kể cả các vị trí lẫn tần 
suất giao tiếp giữa họ. Vốn nhận thức là những 
nguồn lực giúp các bên liên quan diễn giải và chia 
sẻ các mối quan tâm cùng nhau. Vốn quan hệ 
tham chiếu đến nguồn lực được hình thành từ các 
mối quan hệ xã hội, thường biểu hiện bằng niềm 
tin và gắn kết tương ứng [12]. 
Tuy nhiên, các mối quan hệ giữa ba thành 
phần này vẫn còn chưa được khẳng định [12]. 
Trong khi đó, vốn cấu trúc thông qua các kết 
nối xã hội có thể giúp phát triển vốn nhận thức 
trong việc định hình những ngôn ngữ và nhận 
thức chung cho các cá thể; và hơn thế nữa, cũng 
góp phần mở rộng vốn quan hệ trong việc củng 
cố niềm tin và sự tôn trọng lẫn nhau giữa các 
thành viên [25]. Từ đây, các giả thuyết sau về 
cấu trúc của vốn xã hội được đề xuất: 
H3a: Vốn cấu trúc tác động dương lên vốn 
nhận thức. 
H3b: Vốn cấu trúc tác động dương lên vốn 
quan hệ. 
H3c: Vốn nhận thức tác động dương lên 
vốn quan hệ. 
Kế tiếp, vốn nhận thức thông qua các dạng 
ngôn ngữ dùng chung giúp các cá thể có thể 
giao tiếp hiệu quả hơn trong việc định hướng 
mục tiêu chung [26]. Ngoài ra, vốn quan hệ 
thông qua niềm tin và sự tôn trọng lẫn nhau lại 
tạo điều kiện cho các cá thể cùng tham gia vào 
các hoạt động vì lợi ích của cả cộng đồng [26]. 
Về thực nghiệm, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra 
rằng các thành phần của vốn xã hội có tác động 
khác biệt đến các kết quả của tổ chức, chẳng 
hạn theo Demartini (2015), vốn quan hệ có ảnh 
hưởng tích cực đến việc hình thành tài sản trí 
tuệ của tổ chức nhưng vốn nhận thức và vốn 
cấu trúc thì lại không có tác động [20]. Vì vậy, 
hoàn toàn có ý nghĩa về mặt lý thuyết để đề 
xuất kiểm chứng các giả thuyết sau trong bối 
cảnh diễn đàn trực tuyến như là một dạng cộng 
đồng ảo: 
H4a: Vốn nhận thức tác động dương lên 
thái độ hướng về diễn đàn. 
H4b: Vốn quan hệ tác động dương lên thái 
độ hướng về diễn đàn. 
Thái độ hướng về diễn đàn với cảm nhận về 
cộng đồng trực tuyến và ý định góp tri thức 
Theo Ajzen (2012), có mối liên hệ giữa thái 
độ và ý định trong các hành vi nói chung của con 
người [21]. Diễn đàn trực tuyến hình thành nhằm 
hướng tới chia sẻ tri thức, vì thế thái độ tích cực 
về diễn đàn trực tuyến được mong đợi là sẽ có tác 
động thuận chiều đến ý định chia sẻ tri thức của 
các thành viên tương ứng. Vì thế, giả thuyết sau 
được đề xuất kiểm chứng: 
H5a: Thái độ hướng về diễn đàn tác động 
dương lên ý định đóng góp tri thức trên diễn 
đàn trực tuyến. 
Mặt khác, thái độ tích cực hướng tới một đối 
tượng (như diễn đàn trực tuyến) cũng là điều kiện 
cần cho việc đáp ứng nhu cầu về đối tượng đó 
[27]. Đối với bối cảnh là diễn đàn trực tuyến, nhu 
cầu này chính là cảm nhận sự thuộc về diễn đàn, 
hay nói cách khác, là tính thành ... ên X Loại CFA 
e 
Mô hình cấu trúc 
Kiểm định SEM kế tiếp cho thấy các chỉ số 
phù hợp chung của mô hình đều đạt: CMIN/df 
= 1,640 (< 3), p = 0,000, RMSEA = 0,066 (< 
0,08), AGFI = 0,805 (> 0,8), TLI = 0,917, CFI 
= 0,932 (> 0,9). Trong tổng số 17 giả thuyết 
được phát biểu, chỉ có một giả thuyết (H5a) bị 
bác bỏ (Hình 1). 
d 
N.M. Tuân, Đ.T. Đoàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 39
Hình 1. Kết quả mô hình SEM với các hệ số ước lượng chuẩn hóa.
5. Kết luận 
Thảo luận kết quả 
Đối với nhóm các yếu tố U&G, nghiên cứu 
đã khẳng định được ảnh hưởng tích cực của nhu 
cầu giải trí (β = 0,368) và nhu cầu thông tin 
(β = 0,512) đến thái độ hướng về diễn đàn - như 
cũng được tìm thấy tương đồng với kết quả của 
Dolan và cộng sự (2015) [16]. Nghiên cứu cũng 
cho thấy tác động tích cực giữa các yếu tố trong 
U&G như nhu cầu xã hội đến nhu cầu giải trí 
(β = 0,202) và nhu cầu thông tin (β = 0,465), 
cũng như nhu cầu thông tin ảnh hưởng dương 
đến nhu cầu giải trí (β = 0,639). Như vậy, trong 
khi nhu cầu thông tin và nhu cầu giải trí có ảnh 
hưởng lớn đến việc xây dựng thái độ tích cực 
của các thành viên hướng về diễn đàn trực 
tuyến, yếu tố nhu cầu xã hội giữ vai trò tiền tố 
củng cố thêm cho hai yếu tố trên. 
Bên cạnh U&G, nhóm các yếu tố vốn xã 
hội gồm vốn cấu trúc, vốn nhận thức và vốn 
quan hệ cho thấy có tác động trực tiếp lẫn gián 
tiếp đến thái độ. Trước hết, trong phạm vi nội 
tại của vốn xã hội, thành phần vốn cấu trúc ảnh 
hưởng đến thành phần vốn quan hệ (β = 0,729) 
và thành phần vốn nhận thức (β = 0,295). Kết 
quả là một khẳng định thực nghiệm mới bổ 
sung cho công trình kinh điển về vốn xã hội của 
Nahapiet và Ghoshal (1998) [12]. Tiếp theo, hai 
thành phần vốn xã hội của các thành viên đều 
có ảnh hưởng đến thái độ hướng về diễn đàn 
của họ (cụ thể, vốn quan hệ - thái độ có 
β = 0,473, vốn nhận thức - thái độ có 
β = 0,334). Kết quả này phù hợp với kỳ vọng và 
nghiên cứu của Chow và Chan (2008) [35], khi 
vốn xã hội chỉ có duy nhất thành phần vốn cấu 
trúc có tác động đến thái độ chia sẻ tri thức của 
nhân viên trong tổ chức. 
Đối với nhóm yếu tố cảm nhận về cộng 
đồng trực tuyến, thái độ hướng về diễn đàn có 
tác động tích cực đến thành phần tính thành 
viên (β = 0,547). Riêng trong phạm vi nội tại 
của khái niệm cảm nhận về cộng đồng trực 
tuyến, tính thành viên ảnh hưởng khá rõ đến hai 
yếu tố còn lại là tính ảnh hưởng và tính đam mê 
(với các hệ số là 0,610 và 0,625). Ngoài ra, giả 
thuyết tính đam mê tác động dương đến tính 
ảnh hưởng (β = 0,298) cũng được thừa nhận. 
Cuối cùng, đúng như kỳ vọng, tính đam mê và 
tính ảnh hưởng đều có tác động dương đáng kể 
N.M. Tuân, Đ.T. Đoàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 
40
đến ý định đóng góp tri thức (với các hệ số lần 
lượt là 0,719 và 0,353). 
Điều đáng chú ý ở đây, mặc dù giả thuyết 
về ảnh hưởng của thái độ hướng về diễn đàn 
đến ý định đóng góp tri thức bị bác bỏ, kết quả 
này trùng khớp với nghiên cứu của Chen và 
cộng sự (2013) [6], khi cảm nhận về cộng đồng 
trực tuyến đóng vai trò trung gian toàn phần 
giữa thái độ hướng về diễn đàn và ý định đóng 
góp tri thức. 
Đóng góp lý thuyết 
Nghiên cứu này chỉ ra được bốn điểm mới 
trong lĩnh vực đóng góp và chia sẻ tri thức. 
Thứ nhất, nghiên cứu đã mở rộng trực tiếp 
trên khái niệm cảm nhận về cộng đồng trực 
tuyến được đề xuất bởi Koh và Kim (2003) 
[10]. Đối chiếu với công trình xuất phát đó thì 
nghiên cứu này đã chỉ ra được mối quan hệ toàn 
diện của ba thành phần trong đó, cụ thể: tính 
thành viên tác động đồng thời đến tính ảnh 
hưởng và tính đam mê, ngoài ra tính đam mê 
cũng tác động đến tính ảnh hưởng. Và vì vậy, 
đúng như kỳ vọng, tính thành viên giữ vai trò 
trung gian đối với ý định đóng góp tri thức 
thông qua hai thành phần còn lại là tính đam mê 
và tính ảnh hưởng. 
Thứ hai, nghiên cứu đã làm rõ được mối 
quan hệ nội tại của khái niệm sử dụng và hài 
lòng, theo đó nhu cầu xã hội có tác động dương 
đến nhu cầu thông tin và nhu cầu giải trí, còn 
nhu cầu thông tin cũng có ảnh hưởng đến nhu 
cầu giải trí. Điều này có tác dụng bổ sung cho 
công trình của Chen và cộng sự (2012) [18], 
trong đó ba thành phần này chỉ được xem xét 
biệt lập. 
Thứ ba, mặc dù kết quả tương tự với công 
trình của Sun và cộng sự (2012) [36] ở chỗ 
quan hệ nội hàm của ba thành phần thuộc vốn 
xã hội (vốn cấu trúc tác động đồng thời đến vốn 
nhận thức và vốn quan hệ), nhưng nghiên cứu 
này bổ sung thêm được ảnh hưởng từ vốn nhận 
thức đến vốn quan hệ. 
Cuối cùng, với việc cả hai thành phần vốn 
quan hệ và vốn nhận thức có quan hệ dương với 
thái độ hướng về diễn đàn, nghiên cứu này đã đi 
xa hơn công trình của Chen và cộng sự (2012) 
[18], trong đó thái độ hướng về diễn đàn chỉ 
được giải thích duy nhất bởi các khái niệm sử 
dụng và hài lòng (nhu cầu giải trí, nhu cầu 
thông tin và nhu cầu xã hội). 
Ý nghĩa thực tiễn 
Kết quả nghiên cứu chỉ ra một vài hàm ý 
quản trị chính như sau. 
Thứ nhất, trên nền tảng lý thuyết U&G, nhu 
cầu xã hội có ý nghĩa thúc đẩy quan trọng - đến 
nhu cầu thông tin và nhu cầu giải trí - và từ đó 
tác động tới thái độ hướng về diễn đàn nhằm 
tăng cường cảm nhận về cộng đồng trực tuyến 
một cách tương ứng. Từ đây, các nhà quản trị 
các trang mạng cần lưu ý các diễn đàn trực 
tuyến trước hết là các diễn đàn xã hội để giải 
quyết nhu cầu xã hội của các đối tượng người 
tham gia khác nhau. Do đó, các thiết kế và quy 
tắc vận hành cơ bản của các diễn đàn phải chú ý 
đến các đòi hỏi và nguyện vọng hướng tới 
xã hội. 
Thứ hai, khi xét đến cảm nhận về cộng 
đồng trực tuyến, tính thành viên là tác nhân dẫn 
dắt tích cực - dẫn đến tính đam mê và tính ảnh 
hưởng - từ đó tác động đến ý định đóng góp tri 
thức. Như vậy, đối với mục tiêu tăng cường 
chia sẻ tri thức của các diễn đàn thì các nhà 
quản trị các trang mạng tương ứng cần khơi gợi 
trước hết ý thức thành viên của những người 
tham gia. Một lần nữa, các thiết kế, quy tắc vận 
hành cũng như nội dung trên các trang mạng 
này phải nhấn mạnh và có thể bồi dưỡng hơn 
nữa về ý thức thành viên. 
Cuối cùng, với các trang mạng được thiết 
kế hướng tới nhu cầu xã hội và nhấn mạnh vào 
cảm nhận thành viên, vốn xã hội của các đối 
tượng tham gia cũng có cơ hội tăng cường và từ 
đây ý định đóng góp tri thức cũng sẽ được tăng 
cường trực tiếp lẫn gián tiếp thông qua thái độ 
hướng về diễn đàn. 
Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo 
Bài viết này có một số hạn chế chính sau 
đây. Thứ nhất, đối tượng nghiên cứu là những 
người tham gia diễn đàn trực tuyến và có đóng 
góp tri thức nên số lượng mẫu còn giới hạn. 
Thứ hai, mẫu cũng chưa có sự phân chia đồng 
đều về nhân khẩu học. Vì vậy, nghiên cứu tiếp 
theo sẽ thực hiện cho tất cả các thành phần của 
cộng đồng ảo để có tính khái quát hơn, đồng 
N.M. Tuân, Đ.T. Đoàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 41
thời phân tích cụ thể tác động của các yếu tố 
nhân khẩu học lên mô hình nghiên cứu. Theo 
hướng này cũng có thể dẫn đến các nghiên cứu 
hứa hẹn khác, chẳng hạn như vai trò trung gian 
của sự tin cậy trong xã hội (social trust) trong 
mối quan hệ giữa thái độ và ý định chia sẻ tri 
thức như từng được đề xuất ở Chow và 
Chan [35]. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Rheingold, H., The virtual community: Finding 
commection in a computerized world, Addison-
Wesley Longman Publishing Co., Inc., 1993. 
[2] Abraham, C., 2015: The Year of Message Boards 
and Forums, 2015, truy cập ngày 17/3/2017 từ 
<
year-message-boards-and-forums>. 
[3] Mathwick, C., Wiertz, C., & De Ruyter, K., 
“Social capital production in a virtual P3 
community”, Journal of Consumer Research, 34 
(2008) 6, 832-849. 
[4] Jarvenpaa, S. L., & Staples, D. S., “The use of 
collaborative electronic media for information 
sharing: An exploratory study of 
determinants”, Journal of Strategic Information 
Systems, 9 (2000) 2, 129-154. 
[5] Malik, A., Dhir, A., & Nieminen, M., “Uses and 
gratifications of digital photo sharing on 
Facebook”, Telematics and Informatics, 33 (2016) 
1, 129-138. 
[6] Chen, G. L., Yang, S. C., & Tang, S. M., “Sense 
of virtual community and knowledge contribution 
in a P3 virtual community: Motivation and 
experience”, Internet Research, 23 (2013) 1, 4-26. 
[7] Gu, B., Konana, P., Rajagopalan, B., & Chen, H. 
W. M., “Competition among virtual communities 
and user valuation: The case of investing-related 
communities”, Information Systems Research, 18 
(2007) 1, 68-85. 
[8] Yu, Y., Hao, J. X., Dong, X. Y., & Khalifa, M., 
“A multilevel model for effects of social capital 
and knowledge sharing in knowledge-intensive 
work teams”, International Journal of 
Information Management, 33 (2013) 5, 780-790. 
[9] Hung, S. Y., Lai, H. M., & Chou, Y. C., 
“Knowledge‐sharing intention in professional 
virtual communities: A comparison between 
posters and lurkers”, Journal of the Association 
for Information Science and Technology, 66 
(2015) 12, 2494-2510. 
[10] Koh, J., & Kim, Y. G., “Sense of virtual 
community: A conceptual framework and 
empirical validation”, International Journal of 
Electronic Commerce, 8 (2003) 2, 75-94. 
[11] Stafford, T. F., Stafford, M. R., & Schkade, L. L., 
“Determining uses and gratifications for the 
Internet”, Decision Sciences, 35 (2004) 2, 259-288. 
[12] Nahapiet, J., & Ghoshal, S., “Social capital, 
intellectual capital, and the organizational 
advantage”, Academy of Management Review, 23 
(1998) 2, 242-266. 
[13] McMillan, D. W., & Chavis, D. M., “Sense of 
community: A definition and theory”, Journal of 
community Psychology, 14 (1986) 1, 6-23. 
[14] Katz, E., & Blumler, J. G., The uses of mass 
communications: Current perspectives on 
gratifications research, Sage Publications, 1974. 
[15] Lin, S. W., & Liu, Y. C., “The effects of motivations, 
trust, and privacy concern in social networking”, 
Service Business, 6 (2012) 4, 411-424. 
[16] Dolan, R., Conduit, J., Fahy, J., & Goodman, S., 
“Social media engagement behaviour: A uses and 
gratifications perspective”, Journal of Strategic 
Marketing, 24 (2016) 3/4, 261-277. 
[17] Ellison, N. B., “Social network sites: Definition, 
history, and scholarship”, Journal of 
Computer‐Mediated Communication, 13 (2007) 1, 
210-230. 
[18] Chen, Q., & Wells, W. D., “Attitude toward the 
site”, Journal of Advertising Research, 39 (1999) 
5, 27-38. 
[19] Adler, P. S., & Kwon, S. W., “Social capital: 
Prospects for a new concept”, Academy of 
Management Review, 27 (2002) 1, 17-40. 
[20] Demartini, C., “Relationships between social and 
intellectual capital: Empirical evidence from IC 
statements”, Knowledge and Process 
Management, 22 (2015) 2, 99-111. 
[21] Ajzen, I., “Martin Fishbein’s legacy the reasoned 
action approach”, The Annals of the American 
Academy of Political and Social Science, 640 
(2012) 1, 11-27. 
[22] Davis, F. D., Bagozzi, R. P., & Warshaw, P. R., 
“User acceptance of computer technology: A 
comparison of two theoretical models”, 
Management Science, 35 (1989) 8, 982-1003. 
[23] Liu, I. L., Cheung, C. M., & Lee, M. K., “User 
satisfaction with microblogging: Information 
dissemination versus social networking”, Journal 
of the Association for Information Science and 
Technology, 67 (2016) 1, 56-70. 
N.M. Tuân, Đ.T. Đoàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 3 (2017) 32-42 
42
[24] Bowman, S., & Willis, C., “We media: How 
audiences are shaping the future of news and 
information”, 2015, Wikipedia. 
[25] Tsai, W., & Ghoshal, S., “Social capital and value 
creation: The role of intrafirm 
networks”, Academy of Management Journal, 41 
(1998) 4, 464-476. 
[26] Dyer, J. H., & Singh, H., “The relational view: 
Cooperative strategy and sources of 
interorganizational competitive advantage”, 
Academy of Management Review, 23 (1998) 4, 
660-679. 
[27] Au, N., Ngai, W. & Cheng, T., “Extending the 
understanding of end user information systems 
satisfaction formation: An equitable needs 
fulfillment model approach”, MIS Quarterly, 32 
(2008) 1, 43-66. 
[28] Chai, S., & Kim, M., “A socio-technical approach 
to knowledge contribution behavior: An empirical 
investigation of social networking sites 
users”, International Journal of Information 
Management, 32 (2012) 2, 118-126. 
[29] Hogg, M. A., van Knippenberg, D., & Rast III, D. 
E., “The social identity theory of leadership: 
Theoretical origins, research findings, and 
conceptual developments”, European Review of 
Social Psychology, 23 (2012) 1, 258-304. 
[30] Abrams, D., & Hogg, M. A., “Social identity and 
self-categorization”, pp. 179-93, The SAGE 
Handbook of Prejudice, Stereotyping and 
Discrimination, 2010. 
[31] [31] Turner, J. C., Hogg, M. A., Oakes, P. J., 
Reicher, S. D., & Wetherell, M. S., Rediscovering 
the social group: A self-categorization theory, 
Basil Blackwell, 1987. 
[32] Chiu, C.M., Hsu, M. H., & Wang, E. T., 
“Understanding knowledge sharing in virtual 
communities: An integration of social capital and 
social cognitive theories”, Decision support 
systems, 42 (2006) 3, 1872-1888. 
[33] Straub, D., Boudreau, M., & Gefen, D. (2004). 
Validation guidelines for is positivist 
research. Communications of the AIS, 13(24), 
380-427. 
[34] Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. 
E., & Tatham, R. L., Multivariate data analysis 6th 
Edition, New Jersey: Pearson Education, 2014. 
[35] Chow, W. S., & Chan, L. S., “Social network, 
social trust and shared goals in organizational 
knowledge sharing”, Information & Management, 
45 (2008) 7, 458-465. 
[36] Chicago. 
[37] Sun, Y., Fang, Y., Lim, K. H., & Straub, D., 
“User satisfaction with information technology 
service delivery: A social capital perspective”, 
Information Systems Research, 23 (2012) 4, 
1195-1211. 
A Structural Model of Intention 
of Knowledge Contribution in Online Forums in Vietnam 
Nguyen Manh Tuan, Dang Thai Doan 
HCM City University of Technology, VNU-HCM, 
No. 268, Ly Thuong Kiet Street, Dist. 10, Ho Chi Minh City, Vietnam 
Abstract: This study aims to build and validate a structural model among the constructs of uses and 
gratifications, social capital, sense of virtual community and attitude to online forum and intention of 
knowledge contribution as well. A SEM analysis with the sample of 174 members who belong to popular 
online forums in Vietnam indicated that 16 out of all of 17 hypotheses are empirically supported. The 
findings showed as expectedly that of uses and gratifications (information need and entertainment need) 
and social capital (cognitive capital and relational capital) positively related to attitude and that sense of 
virtual community (influence and immersion) positively related to intention of knowledge contribution. In 
addition, the paper provides a new understanding of the internal structures of theoretically complex 
concepts of of uses and gratifications, social capital and sense of virtual community. 
Keywords: Structural model, uses and gratifications, social capital, sense of virtual community. 

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_cau_truc_ve_y_dinh_dong_gop_tri_thuc_tren_dien_dan_t.pdf