Nhận diện kỹ thuật khai thác, chế tác đá qua dấu tích trên tường thành Tây Đô

Thành Nhà Hồ là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam.

Di sản thể hiện bước phát triển mới về phong cách kiến trúc và kỹ thuật xây dựng, kết hợp

hài hòa giữa nguyên lý phong thủy phương Đông với thiên nhiên, kết hợp các yếu tố Việt

Nam với các yếu tố Đông Á trong các công trình kiến trúc và cảnh quan đô thị của di sản.

Việc khai thác, chế tác và vận chuyển đá xây dựng kinh thành Tây Đô là một vấn đề đã được

nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu. Giá trị của di sản đã được

UNESCO công nhận tại Hội nghị lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới tổ chức tại Paris

(Cộng hòa Pháp) năm 2011.

pdf 8 trang kimcuc 11440
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện kỹ thuật khai thác, chế tác đá qua dấu tích trên tường thành Tây Đô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận diện kỹ thuật khai thác, chế tác đá qua dấu tích trên tường thành Tây Đô

Nhận diện kỹ thuật khai thác, chế tác đá qua dấu tích trên tường thành Tây Đô
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
91
NHẬN DIỆN KỸ THUẬT KHAI THÁC, CHẾ TÁC ĐÁ QUA 
DẤU TÍCH TRÊN TƢỜNG THÀNH TÂY ĐÔ 
Trƣơng Hoài Nam1 
TÓM TẮT
Thành Nhà Hồ là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam. 
Di sản thể hiện bước phát triển mới về phong cách kiến trúc và kỹ thuật xây dựng, kết hợp 
hài hòa giữa nguyên lý phong thủy phương Đông với thiên nhiên, kết hợp các yếu tố Việt 
Nam với các yếu tố Đông Á trong các công trình kiến trúc và cảnh quan đô thị của di sản.
Việc khai thác, chế tác và vận chuyển đá xây dựng kinh thành Tây Đô là một vấn đề đã được 
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu. Giá trị của di sản đã được 
UNESCO công nhận tại Hội nghị lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới tổ chức tại Paris 
(Cộng hòa Pháp) năm 2011.
Từ khóa: Thành Nhà Hồ, khai thác, chế tác đá.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thành Nhà Hồ là tên thƣờng gọi của tòa thành bằng đá còn khá nguyên vẹn ở lƣu vực 
sông Mã và sông Bƣởi, thuộc địa phận các thôn Tây Giai, Xuân Giai (xã Vĩnh Tiến), Đông 
Môn (xã Vĩnh Long), huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, thuộc miền Bắc Việt Nam. Thành 
còn có tên gọi khác nhƣ: thành An Tôn vì khu vực này vào cuối thời Trần có tên là động An 
Tôn, thành Tây Đô vì thành là kinh đô của nƣớc Đại Việt (1397 - 1400) và Đại Ngu (1400 -
1407); thành Phủ Thanh Hoá do nhà Minh đặt sau khi chiếm Đại Việt, Tây Kinh để phân 
biệt với Đông Kinh (Thăng Long), Thạch Thành vì thành đƣợc xây toàn bằng đá, thành Tây 
Giai vì thành thuộc thôn Tây Giai [2].
Thành Nhà Hồ đƣợc xây dựng vào năm 1397, theo lệnh của Phụ chính Thái sƣ nhiếp 
chính nhà Trần là Hồ Quý Ly [1].
“Đinh Sửu (Quang Thái) năm thứ mười (1397) Mùa xuân, tháng giêng sai lại bộ
thượng thư kiêm thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép là Mẫn) đi xem đất và đo đạc động An 
Tôn phủ Thanh Hóa, đắp thành, đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn Xã Tắc, mở đường 
phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó, tháng 3 thì công việc hoàn tất” [1].
Di sản Thế giới Thành Nhà Hồ bao gồm tòa Hoàng thành đá, đàn tế Nam Giao, La 
Thành rộng 155.5 ha và vùng đệm rộng 4.923 ha, đƣợc vƣơng triều Trần cho xây dựng năm 
1397... “thể hiện sự trao đổi các giá trị nhân văn cùng sự phát triển mới trong kiến trúc, 
công nghệ và quy hoạch đô thị ở trong bối cảnh khu vực Đông Á và Đông Nam Á” [5].
Sự thay đổi trục chính tâm khác với tiêu chí xây thành truyền thống của Trung Quốc, việc 
sử dụng kỹ thuật xây dựng đá lớn là một thành tựu đột khởi trƣớc sau chƣa từng có ở Việt Nam, 
1 Trưởng phòng Nghiệp vụ Di sản, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
92
chứng minh quyết tâm mạnh mẽ của vƣơng triều Hồ trong công cuộc cách tân xây dựng đất 
nƣớc. Tuy nhiên cho đến nay, nhiều bí ẩn về kỳ tích xây dựng kinh thành Tây Đô vẫn còn là 
vấn đề bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu. Do vậy, ở đây chúng tôi đề cập việc nhận diện kỹ thuật 
khai thác, chế tác đá thời Hồ qua dấu tích còn lại trên tƣờng thành đá kinh thành Tây Đô.
2. NỘI DUNG
2.1. Kết quả khảo sát
Theo số lƣợng thống kê, đạc họa số lƣợng đá xây tƣờng Hoàng thành hiện có khoảng 
25.000m3, tổng diện tích bề mặt đá là 10.111.000m2. Thành Nhà Hồ là một đột khởi “vô 
tiền khoáng hậu” trong lịch sử xây dựng đô thành Việt Nam. Đặc điểm này không chỉ thể
hiện ở việc khai thác triệt để tính chất bền vững, uy nghiêm của vật liệu đá, mà còn thể
hiện trong kỹ thuật khai thác, chế tác, kỹ thuật vận chuyển và xây xếp các khối đá khổng 
lồ. Đó cũng là sự thể hiện của nghệ thuật điều phối tạo nên sức mạnh tổng hợp để sáng tạo 
nên một tòa thành đá kỳ vĩ, đúng với ý đồ của tổng công trình sƣ, Phụ chính Thái sƣ nhiếp 
chính nhà Trần là Hồ Quý Ly.
Nhiều loại đá khác nhau (nhƣ đá vôi xanh, đá phiến, đá cuội) đƣợc tính toán sử dụng 
hợp lý đối với từng vị trí khác nhau của kiến trúc: Móng tƣờng thành, vòm cửa thành, 
tƣờng thành thì dùng loại đá xanh rắn chắc; sân nền, đƣờng đi đƣợc dùng các loại đá 
phiến; đá dăm và sỏi nhỏ thì đƣợc dùng để gia cố móng tƣờng thành và lớp tƣờng thành 
bên trong.
Tháng 8 năm 2016, tôi đã trực tiếp thực hiện khảo sát và phát hiện đƣợc những dấu 
tích kỹ thuật khai thác, bóc, tách đá trên các phiến đá xây thành. Đồng thời tôi đã chụp ảnh, 
đánh số, ký hiệu cùng với cán bộ Trung tâm (ông Nguyễn Bá Giáp) tại những vị trí đã phát 
hiện dấu tích kỹ thuật trên, cụ thể:
Bảng thống kê những dấu tích kỹ thuật trên một số phiến đá xây thành Tây Đô
TT Vị trí/Tên gọi Mô tả
Kích thƣớc 
(cm)
(dài×rộng×sâu)
Bản 
ảnh/Ký 
hiệu
I Tƣờng thành phía Tây cổng Nam
+ Vị trí 1/ Khối 
đá 1
(Ảnh 01)
Cách cổng thành Nam 95m về phía Tây, 
khối đá có 3 rãnh đục chính cách nhau 13cm 
và hàng chục nhát đục phụ.
160 x 78 16.TNH
.S.01-02
- Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
11cm và nhỏ thu dần vào trong còn 3cm.
11 x 9 x 10
- Rãnh đục 2 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
11cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
11 x 8 x 9
- Rãnh đục 3 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2cm.
10 x 7 x 85
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
93
- Vết đục phụ Có nhiều vết đục phụ, do rãnh đá đã bị nứt 
vỡ nên không đo đƣợc kích thƣớc.
II Tƣờng thành phía Nam cổng Tây
1 Vị trí 1/ Khối 
đá 1
(Ảnh 02)
Cách cổng thành Tây 300m về phía Nam, 
khối đá có 2 rãnh đục chính cách nhau 65cm 
và một số nhát đục phụ.
240 x 50 16.TNH
.W.03-
04
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
13cm và nhỏ thu dần vào trong còn 3cm.
13 x 8 x 7
b Rãnh đục 2 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
13cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
10 x 7 x 7
c Vết đục phụ Có nhiều vết đục phụ, do rãnh đá đã bị nứt 
vỡ nên không đo đƣợc kích thƣớc.
2 Vị trí 2/ Khối 
đá 2
(Ảnh 03)
Cách cổng thành Tây 30m về phía Nam, 
khối đá có 2 rãnh đục chính cách nhau 42cm 
và một số nhát đục phụ.
140 x 65 16.TNH
.W.05-
06
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
11cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
11 x 7 x 5
b Rãnh đục 2 Hình thang cân, miệng ngoài đã bị sứt vỡ, 
đƣờng kính đo đƣợc còn lại bên trong rộng 
2,5cm.
10 x 7 x 45
c Vết đục phụ Có 20 vết đục phụ liền nhau, do rãnh đá đã 
bị nứt vỡ nên không đo đƣợc kích thƣớc.
2 x 2 x 1
III Tƣờng thành phía Bắc cổng Tây
1 Vị trí 1/ Khối 
đá 1
(Ảnh 04)
Cách cổng thành Tây 20m về phía Bắc, khối 
đá có 1 rãnh đục chính và một số vết nứt do 
tác động bên ngoài.
173 x 93 16.TNH
.W.07
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
13cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
13 x 7 x 5
b Vết đục phụ Không rõ nét do rãnh đá đã bị nứt vỡ nên 
không xác định cụ thể.
2 Vị trí 2/ Khối 
đá 2
(Ảnh 04)
Cách cổng thành Tây 21m về phía Bắc, khối 
đá có 2 rãnh đục chính nằm cách nhau 15cm 
và một số nhát đục phụ.
350 x 63 16.TNH
.W.08
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
13cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2cm.
13 x 9 x 9
b Rãnh đục 2 Hình thang cân, miệng ngoài đã bị sứt vỡ 
nửa phần trên, đƣờng kính đo đƣợc còn lại 
bên trong rộng 1cm.
10 x 4 x 8
c Vết đục phụ Có 20 vết đục phụ, do rãnh đá đã bị nứt vỡ 
nên không đo đƣợc kích thƣớc
2 x 2 x 1
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
94
3 Vị trí 3/ Khối 
đá 3
(Ảnh 05)
Cách cổng thành Tây 280m về phía Bắc, 2 
khối đá còn lƣu lại 2 rãnh đục chính sau khi 
đƣợc xếp xây tƣờng thành.
350 x 63 16.TNH
.W.09-
10
a Rãnh đục 1 Khối đá nằm ở phía trên có chiều dài 220cm 
x 77cm, còn 1 rãnh đục chính hình Thang 
cân, miệng ngoài đƣờng kính 7cm và nhỏ thu 
dần vào trong còn 3cm.
19 x 7 x 7
b Rãnh đục 2 Khối đá nằm bên dƣới có chiều dài 245cm x 
95cm, còn 1 rãnh đục chính hình Thang cân, 
miệng ngoài đƣờng kính 7cm và nhỏ thu dần 
vào trong (do bị vôi vữa bám nên không đo 
đƣợc đƣờng kính bên trong).
20 x 7 x 7
IV Tƣờng thành phía Nam cổng Đông
1 Vị trí 1/ Khối 
đá 1
(Ảnh 06)
Khối đá thứ nhất cách cổng Đông 350m về 
phía Nam, có chiều dài 220cm, cao 110cm. 
Khối đá này còn 4 rãnh đục chính, trong đó 3 
rãnh đục ngang và 1 rãnh đục dọc.
Khoảng cách giữa các rãnh đục không đều 
nhau, cách nhau 30cm và 12cm. Nhƣ vậy, 
nếu khối đá này đƣợc bóc tách xong sẽ có 
kích thƣớc chiều dài 128cm, rộng 110cm, 
sâu 130cm với khối lƣợng khoảng 5,03 tấn.
220 x 110 16.TNH
.E.11
a Rãnh đục 1 
(ngang)
Hình thang cân, miệng ngoài bị vỡ và nhỏ 
thu dần vào trong đƣờng kính đo đƣợc 2cm.
7 x 2 x 3
b Rãnh đục 2 
(ngang)
Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2cm.
10 x 7 x 8
c Rãnh đục 2 
(ngang)
Hình thang cân, miệng ngoài đã bị sứt vỡ 
nửa phần trên, đƣờng kính đo đƣợc còn lại 
bên trong rộng 1,5cm.
8 x 2 x 8
d Rãnh đục 3 
(rãnh đục dọc)
Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
7cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2cm.
19 x 7 x 8
e Vết đục phụ Có nhiều vết đục phụ, do rãnh đá đã bị nứt 
vỡ nên không đo đƣợc kích thƣớc.
2 Vị trí 2/ Khối 
đá 2
(Ảnh 06)
Khối đá thứ hai nằm ở tƣờng thành phía 
Nam cổng thành Đông (bên cạnh khối đá 1). 
Khối đá này có 1 rãnh đục chính và không có 
vết đục phụ.
116 x 110 16.TNH
.E.12
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
15cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2cm.
15 x 7 x 8
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
95
3 Vị trí 3/ Khối 
đá 3
(Ảnh 07)
Khối đá thứ ba ở tƣờng thành phía Nam của 
cổng Đông, cách cổng Đông 365m về phía 
Nam. Khối đá này còn 2 rãnh đục chính. 
Khoảng cách giữa hai rãnh đục đo đƣợc là 
23cm. Ngoài ra, có hàng chục nhát đục phụ 
hỗ trợ bóc tách nằm thẳng hàng hai bên, mỗi 
nhát đục có chiều dài 2cm. Điểm đặc biệt ở 
khối đá này là một ¼ khối đá sau khi đục bóc 
tách đƣợc tận dụng xây tƣờng thành đã bị 
bong vỡ tạo thành một mặt phẳng nhƣ ý đồ 
ban đầu của ngƣời thợ đá.
315 x 95
có chiều dài 
lần lƣợt là 
11cm và 9cm, 
chiều rộng 
7cm chiều sâu 
8cm
16.TNH
.E.13-14
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
9cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
9 x 7 x 9
b Rãnh đục 2 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2cm.
10 x 7 x 8
4 Vị trí 4/ Khối 
đá 4
(Ảnh 08)
Khối đá thứ tƣ ở tƣờng thành phía Nam của 
cổng Đông (cách khối đá thứ ba 1,2m). Khối 
đá này còn 2 rãnh đục dọc chính. Khoảng 
cách giữa hai rãnh đục đo đƣợc là 12cm. 
Ngoài ra, có hàng chục nhát đục phụ hỗ trợ 
bóc tách nằm thẳng hàng hai bên, mỗi nhát 
đục có chiều dài 2cm tuy nhiên đã bị nứt vỡ 
và bào mòn không thật sự rõ nét.
118 x 107 16.TNH
.E.15-16
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 1,5cm.
10 x 7 x 8
b Rãnh đục 2 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
13 x 8 x 8
c Vết đục phụ Có nhiều vết đục phụ, do rãnh đá đã bị nứt 
vỡ nên không đo đƣợc kích thƣớc.
5 Vị trí 5/ Khối 
đá 5 
(Ảnh 09)
Khối đá thứ năm ở tƣờng thành phía Nam 
của cổng Đông (cách khối đá thứ tƣ 5m). 
Khối đá này còn 3 rãnh đục chính, khoảng 
cách giữa hai rãnh đục đo đƣợc lần lƣợt là 
30cm và 53cm. Ngoài ra, có hàng chục nhát 
đục phụ hỗ trợ bóc tách nằm thẳng hàng hai 
bên, mỗi nhát đục có chiều dài 2cm.
209 x 47 x 110 16.TNH
.E.17-18
a Rãnh đục 1 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 1,5cm.
13 x 9 x 9
b Rãnh đục 2 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
10 x 7 x 8
c Rãnh đục 3 Hình thang cân, miệng ngoài đƣờng kính 
10cm và nhỏ thu dần vào trong còn 2,5cm.
10 x 9 x 6
d Vết đục phụ Có 28 vết đục phụ, kích thƣớc mỗi vết đục 
dài từ 1,5 đến 2,5cm.
2,5 x 1,5
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
96
Bản ảnh minh họa mô tả kỹ thuật khai thác, bóc tách, chế tác đá qua dấu tích 
tìm thấy trên các đoạn tƣờng xây Thành Nhà Hồ
(Nguồn ảnh/tác giả: Trương Hoài Nam, chụp tại di sản Thành Nhà Hồ, tháng 8 năm 2016)
Ảnh 1. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng 
thành phía Nam (16.TNH.S.01-02)
Ảnh 2. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng 
thành phía Tây (16.TNH.W.03-04)
Ảnh 3. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng thành 
phía Tây (16.TNH.W.05-06)
Ảnh 4. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng 
thành phía Tây (16.TNH.W.07-08)
Ảnh 5. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng thành 
phía Tây (16.TNH.W.09-10)
Ảnh 6. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng 
thành phía Đông (16.TNH.E.11-12)
Ảnh 7. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng thành 
phía Đông (16.TNH.E.13-14)
Ảnh 8. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng 
thành phía Đông (16.TNH.E.15-16)
Ảnh 9. Dấu vết bóc tách đá tại tƣờng thành phía Đông (16.TNH.E.17-18)
1 2 3 4
5 6 7 8
9 10 11 12
13 14 15 16
17 18
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
97
2.2. Một số nhận xét bƣớc đầu
Qua dấu tích còn lƣu lại trên các khối đá tại các vị trí trên tƣờng thành phía Nam, 
phía Tây và phía Đông kết hợp với các nghiên cứu trƣớc đó nhƣ nghiên cứu khai quật công 
trƣờng đá cổ núi An Tôn, nghiên cứu khai quật Hào thành phía Nam, phía Bắc, khảo sát 
khu vực núi Xuân Đài... tôi có một vài nhận xét:
Thứ nhất, những dấu tích rãnh đục, bóc tách, chế tác đá còn lƣu lại trên tƣờng thành 
có sự tƣơng đồng và giống các vết đục trên các khối đá còn lƣu lại ở các mỏ đá tại công 
trƣờng khai thác đá cổ thuộc các dãy núi đá quanh vùng nhƣ núi An Tôn, núi Xuân Đài mà 
qua tài liệu báo cáo khai quật núi An Tôn năm 2012 của Viện Khảo cổ học Việt Nam, qua 
tài liệu khảo sát nghiên cứu các khu vực núi đá quanh di sản của Trung tâm Bảo tồn di sản 
Thành Nhà Hồ thể hiện.
Thứ hai, nghiên cứu trên khẳng định thêm luận điểm có các công trƣờng “tinh chế” 
đá quanh chân tƣờng thành sau khi vận chuyển từ các công trƣờng khai thác đá, các mỏ đá 
về nhằm bóc tách, chế tác cho phù hợp với từng vị trí, đoạn tƣờng thành của các nhà khảo 
cổ học sau khi khai quật khu vực Hào thành phía Nam và phía Bắc là có cơ sở và tính 
thuyết phục.
Thứ ba, tại vị trí tƣờng thành phía Đông, tôi đã khảo sát và nghiên cứu cho thấy qua 
vết tích các rãnh đục còn lƣu lại có thể khẳng định nếu khối đá đƣợc bóc tách xong sẽ có 
kích thƣớc chiều dài 1,28m, rộng 1,1cm, sâu 1,3m với khối lƣợng khoảng 5,5 tấn (Ảnh 7).
Thứ tư, một số dấu tích có thể chỉ là những dấu vết kỹ thuật nhằm ghép đá tạo vẻ
đẹp cho tƣờng thành, vì đá sau khi bóc tách, vận chuyển không tránh khỏi sứt, vỡ nên cần 
ghép, vá tạo thẩm mỹ và kỹ thuật. 
Hiện nay, qua công tác nghiên cứu, khai quật đã phát hiện dƣới chân tƣờng thành 
phía Nam, phía Bắc có các bãi đá cổ là những công trƣờng tinh chế đá cuối cùng trƣớc khi 
đƣa lên xếp xây dựng thành. Khảo cổ đã phát hiện hàng chục nghìn mảnh dăm cổ trong các 
lớp dăm cổ dày từ 10cm đến 15cm. Ngoài ra, qua công tác khai quật năm 2015, năm 2016
đã phát hiện ra các loại đục đá có kích thƣớc và tiết diện bản lƣỡi đục từ 2cm đến 3cm 
(tƣơng đƣơng các vết đục phát hiện trên các khối đá tƣờng thành đã khảo sát). Việc nghiên 
cứu kỹ thuật khai thác, chế tác vận chuyển đá xây dựng kinh thành Tây Đô là vấn đề cần 
tiếp tục nghiên cứu, đòi hỏi cần có chiến lƣợc, có sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, 
các nhà nghiên cứu để dần làm sáng tỏ, rõ ràng trên cơ sở các tƣ liệu khoa học, có tính xác 
thực và sự kiểm chứng.
3. KẾT LUẬN
Cho đến nay, việc vận chuyển đá xây dựng kinh thành Tây Đô vẫn là một bí ẩn cần 
giải mã đối với các nhà nghiên cứu, nhà khoa học. 
Năm 2011, việc tìm ra và khẳng định công trƣờng khai thác đá xây dựng thành Tây 
Đô tại khu vực núi An Tôn, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc phần nào giải đáp câu hỏi đá 
xây Thành Nhà Hồ lấy từ đâu (?) thì việc nghiên cứu, tìm hiểu kỹ thuật chế tác, bóc tách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
98
đá còn lƣu lại trên tƣờng Thành Nhà Hồ đã góp phần quan trọng bổ sung tƣ liệu, từng bƣớc 
làm sáng tỏ nghệ thuật khai thác, chế tác đá thời nhà Hồ, góp phần bảo tồn, phục dựng và 
phát huy giá trị di sản thế giới Thành Nhà Hồ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đại Việt sử ký toàn thƣ (1998), dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), 
tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[2] Phạm Xuân Huyên (1992), Những tên gọi của Thành Nhà Hồ, Nghiên cứu lịch 
sử, số 5 (264) , tr.71-75.
[3] Lê Tạo (1992), Mấy ý kiến xung quanh việc xây dựng Tây Đô, Tạp chí Nghiên 
cứu lịch sử, số 5.
[4] Nguyễn Thị Thúy (2014), Thành Tây Đô - Di sản văn hóa thế giới, Nxb. Khoa 
học Xã hội, Hà Nội.
[5] Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2010), Hồ sơ khoa học di sản Thành Nhà Hồ
đề cử UNESCO, Tài liệu lƣu tại Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ.
INITIALLY IDENTIFYING THE TECHNIQUES OF STONE 
EXPLOITATION AND CRAFT THROUGH THE VESTIGES 
ON THE HO CITADEL’S WALL
Truong Hoai Nam 
ABSTRACT
The citadel of the Ho dynasty (the Ho citadel) is an unique stone architecture which is 
an unprecedented monument in Viet Nam. The exploitation, craft and transportation of stone 
to build the Tay Do citadel is a mystery that has given food for thoughts to researchers, 
scientists in the country and abroad. The heritage's value was recognized by UNESCO at the 
35th meeting of the World Heritage Committee held in Paris (French Republic) in 2011. 
Key words: The Ho citadel, exploitation, craft.

File đính kèm:

  • pdfnhan_dien_ky_thuat_khai_thac_che_tac_da_qua_dau_tich_tren_tu.pdf