Một số vấn đề về kết quả tính toán biến dạng lún cuối cùng trong thiết kế nền móng

Biến dạng lún của nền là sự phản ánh kết

quả tương tác giữa đất nền với tải trọng công

trình. Trong khi đó, đất nền có vô vàn các

thuộc tính và tải trọng thì đa dạng, nên từ các

bài toán liên quan đến tính toán biến dạng lún

đã có các cách mô phỏng khác nhau về các

đặc điểm đất nền và tải trọng. Theo đó, biến

dạng lún đã có nhiều phương pháp khác nhau

với kết quả tính không giống nhau. Ngoài ra,

nếu phân biệt các phương pháp bởi bản chất

thông tin của các số liệu đất nền, thì trong

cùng một diện tích lãnh thổ, các phương pháp

khác nhau luôn cho kết quả tính khác nhau. Sự

khác nhau đó chính là sự khác nhau về giá trị

sai số của kết quả tính mà phương pháp nào

cũng có. Do đó, để đánh giá sự khác nhau về

giá trị kết quả tính trong cùng một xác suất tin

cậy của lý thuyết xác suất thống kê, để khẳng

định phương pháp nào chính xác hơn là không

đủ cơ sở, nếu không có một giá trị lún thực tế.

Trong khi đó, giá trị lún cuối cùng của đất nền

dưới một tải trọng không đổi là kết quả của

một quá trình diễn biến theo thời gian, có khi

hàng chục năm. Ngoài sự khác nhau về mức

độ sai số, các phương pháp còn có những ưu

nhược điểm khác nhau về tính thực dụng. Đó

là các lý do mà trong tiêu chuẩn tính toán nền

móng đã hướng dẫn nhiều phương pháp tính

mà không quy định một phương pháp cụ thể

cho mọi trường hợp. Do đó, lựa chọn phương

pháp tính hợp lý trên cơ sở xem xét bản chất

của các yếu tố sai số trong mỗi phương pháp

là một vấn đề rất đáng bàn luận.

pdf 6 trang kimcuc 2760
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về kết quả tính toán biến dạng lún cuối cùng trong thiết kế nền móng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về kết quả tính toán biến dạng lún cuối cùng trong thiết kế nền móng

Một số vấn đề về kết quả tính toán biến dạng lún cuối cùng trong thiết kế nền móng
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2017 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KẾT QUẢ TÍNH TOÁN BIẾN DẠNG LÚN 
CUỐI CÙNG TRONG THIẾT KẾ NỀN MÓNG 
TRẦN THƯƠNG BÌNH* 
Some problems on calculation results of final settlement in the 
foundation design 
Abstract: The paper analyzes the error factors in the prediction method 
of final settlement, clarifies the practical meaning of the calculation 
results 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Biến dạng lún của nền là sự phản ánh kết 
quả tương tác giữa đất nền với tải trọng công 
trình. Trong khi đó, đất nền có vô vàn các 
thuộc tính và tải trọng thì đa dạng, nên từ các 
bài toán liên quan đến tính toán biến dạng lún 
đã có các cách mô phỏng khác nhau về các 
đặc điểm đất nền và tải trọng. Theo đó, biến 
dạng lún đã có nhiều phương pháp khác nhau 
với kết quả tính không giống nhau. Ngoài ra, 
nếu phân biệt các phương pháp bởi bản chất 
thông tin của các số liệu đất nền, thì trong 
cùng một diện tích lãnh thổ, các phương pháp 
khác nhau luôn cho kết quả tính khác nhau. Sự 
khác nhau đó chính là sự khác nhau về giá trị 
sai số của kết quả tính mà phương pháp nào 
cũng có. Do đó, để đánh giá sự khác nhau về 
giá trị kết quả tính trong cùng một xác suất tin 
cậy của lý thuyết xác suất thống kê, để khẳng 
định phương pháp nào chính xác hơn là không 
đủ cơ sở, nếu không có một giá trị lún thực tế. 
Trong khi đó, giá trị lún cuối cùng của đất nền 
dưới một tải trọng không đổi là kết quả của 
một quá trình diễn biến theo thời gian, có khi 
hàng chục năm. Ngoài sự khác nhau về mức 
* Đại học Kiến trúc Hà Nội 
 ĐC: Km 10, đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, 
TP. Hà Nội 
 ĐT: 0913537260 
độ sai số, các phương pháp còn có những ưu 
nhược điểm khác nhau về tính thực dụng. Đó 
là các lý do mà trong tiêu chuẩn tính toán nền 
móng đã hướng dẫn nhiều phương pháp tính 
mà không quy định một phương pháp cụ thể 
cho mọi trường hợp. Do đó, lựa chọn phương 
pháp tính hợp lý trên cơ sở xem xét bản chất 
của các yếu tố sai số trong mỗi phương pháp 
là một vấn đề rất đáng bàn luận. 
1. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 
BIẾN DẠNG LÚN CHO CÔNG TRÌNH 
Các phương pháp đánh giá biến dạng lún của 
nền, nếu phân biệt với nhau theo bản chất của 
thông tin sử dụng trong đánh giá thì có thể chia 
thành các nhóm: 
+ Quan trắc lún 
Các thông tin trong quan trắc là các giá trị 
lún thực tế đo được của một công trình với tải 
trọng xác định trên vị trí nền xác định. Như thế, 
kết quả quan trắc cho biết giá trị lún chính xác 
ứng với các điều kiện rất cụ thể của tải trọng tại 
chính đất nền đó. Mọi ứng xử của đất nền sẽ thể 
hiện khách quan và trực tiếp tổng hợp vào các 
phép đo chuyển vị lún hay nghiêng. Do đó, về 
nguyên tắc sử dụng thí nghiệm quan trắc để 
đánh giá cho công trình khác tương tự, đặt trên 
đất nền tương tự sẽ cho các ứng xử tương tự. 
Tuy nhiên, thực tế một nền đất tương tự là một 
khái niệm liên quan đến mức độ khác nhau của 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2017 10
các loại nền thông qua việc đánh giá các đặc 
điểm ứng xử của nền. Do đó, kết quả quan trắc 
là giá trị lún thực tế, nhưng luôn có tính bất định 
về không gian, tức là kết quả không đúng cho 
công trình có tải trọng như thế, nhưng đặt ở 
không gian khác. 
+ Tính toán theo kết quả thí nghiệm hiện 
trường 
Điểm chung của các thí nghiệm hiện trường 
có khả năng xác định biến dạng lún của nền là 
tạo ra biến dạng cho nền bằng một tác dụng của 
tải trọng tại hiện trường nơi đã, đang hoặc sẽ xảy 
ra các ứng xử với tải trọng công trình. Giá trị của 
kết quả thí nghiệm hiện trường là sự phản ánh 
khách quan các đặc điểm đất nền trong một phạm 
vi nào đó được nhận biết thông qua sự biến đổi 
trạng thái ứng suất nền bởi một tác động bên 
ngoài gây ra biến dạng cho nền. Cho nên, giá trị 
sử dụng của thông tin về đất nền mà thí nghiệm 
hiện trường mang lại, phụ thuộc vào phương thức 
gây ra dạng phản ứng của nền và cách thức thu 
nhận thông tin từ các phản ứng đó. Do đó, ý 
nghĩa của kết quả thí nghiệm hiện trường phụ 
thuộc vào việc khai thác và sử dụng nó. 
Hiện nay, kết quả thí nghiệm hiện trường 
trong tính toán biến dạng lún thường sử dụng hệ 
số nền của thí nghiệm nén tĩnh nền, giá trị 
kháng xuyên của thí nghiệm CPT. 
- Phương pháp nén tĩnh nền 
Cơ sở của phương pháp là đề xuất của 
Sleikhe-Polshin trong trường hợp nền đất một 
lớp đất với chiều dày vô hạn, thì biến dạng lún 
của nền dưới đế móng được xác định bởi 
C
PbS  
 S- độ lún trung bình của toàn bộ diện chịu tải 
b- chiều rộng hình chữ nhật hay bán kính 
hình tròn 
 hệ số tra bảng phụ thuộc vào hình dạng 
kích thước độ cứng của móng 
P- cường độ tải trọng phân bố đều 
C- hệ số nền , 21  
EC trong đó E modul 
đàn hồi. 
Thí nghiệm nén tĩnh nền khi gia tải các cấp 
khác nhau, cùng với việc sử dụng diện tích bàn 
nén khác nhau sẽ cho giá trị của kết quả với các 
ý nghĩa phản ánh ứng xử của nền khác nhau. 
Bởi vì, nếu diện tích hoặc tải trọng càng lớn thì 
chiều sâu vùng ảnh hưởng càng lớn, theo đó hệ 
số nền phản ánh ứng xử nén của nền đến chiều 
sâu lớn hơn. 
Do đó, để xác định độ cứng của nền chỉ nên 
áp dụng cho trường hợp nền đất đồng nhất hoặc 
nền có chiều dầy lớp đất chịu nén nằm trên đá 
gốc không lớn, trong trường hợp nền phân lớp 
thì sử dụng diện tích bàn nén và tải trọng nén 
bằng với diện tích đế móng và tải trọng công 
trình. Như thế, khi nén trên nền phân lớp, tải 
trọng thí nghiệm sẽ rất lớn nếu công trình có tải 
trọng lớn, đó là hạn chế phương pháp này khi 
triển khai vào thực tế. 
- Phương pháp dựa vào kết quả thí nghiệm 
xuyên tĩnh CPT 
Năm 1957, De Beer và Martens được bổ 
xung bởi Bogdanovich, Milovich 1963, phương 
pháp đánh giá biến dạng lún theo giá trị xuyên 
CPT như sau: 
2 ln
3
t m
i i i i zi
i
t i i i
z zS h
C z
  

  
Trong đó, izi - ứng suất bản thân ở độ sâu zi 
t- chiều sâu đáy móng 
m- chiều sâu giới hạn là chiều sâu có ứng 
suất bản thân bt = gl, 
zi - ứng suất hiệu quả do tải trong công trình 
gây ra (ứng suất gây lún) 
Ci - sức kháng xuyên mũi, tính trung bình 
cho lớp. 
So sánh sự hình thành phản lực nền lên đáy 
móng trong quá trình ứng xử,với phản lực nền 
lên mũi xuyên có sự khác nhau về phương của 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2017 11
phản lực nền và không giống nhau về chế độ 
chất tải. Ngoài ra, sự biến đổi mối quan hệ ứng 
suất biến dạng trong ứng xử của đất dưới đế 
móng với đất xung quanh mũi xuyên có những 
điểm khác biệt đã hạn chế ý nghĩa sử dụng kết 
quả thí nghiệm xuyên tĩnh trong tính toán biến 
dạng. Nhưng, với ưu điểm tiến hành đơn giản 
cho phép thu thập thông tin đất nền ở nhiều 
điểm và ở các độ sâu khác nhau, kết quả xuyên 
tĩnh có nhiều điều kiện để kết hợp với các thông 
tin khác trong đánh giá biến dạng lún. 
Tính toán biến dạng lún bằng thí nghiệm 
xuyên tĩnh còn được tiến hành thông qua các 
quan hệ tương quan giữa qc với E thể hiện dưới 
dạng bảng tra hoặc các hàm tương quan. Tuy 
nhiên, các hàm tương quan được xây dựng trên 
các số liệu của một khu vực giữa các cặp số 
liệu, nên chỉ có ý nghĩa khu vực với một sự 
chính xác nhất định. Ưu việt lớn nhất của 
phương pháp tính biến dạng lún bằng xuyên tĩnh 
là kết quả tính là không phụ thuộc vào việc phân 
chia chủ quan các lớp đất dưới nền. 
- Tính toán theo kết quả thí nghiệm trong phòng 
Các phương pháp tính toán này xem xét quy 
luật phân bố ứng suất gây lún giảm dần theo độ 
sâu, trên cơ sở sử dụng kết quả thí nghiệm nén 
không nở hông và tính toán độ lún của nền dưới 
tâm diện chịu tải. Theo mức độ xem xét khác 
nhau về quy luật phân bố ứng suất và vùng chịu 
nén, có các phương pháp sau 
Phương pháp sử dụng đường cong e-p. 
Đặc điểm của phương pháp xem xét biến 
dạng lún thông qua biến thiên từ lúc chưa chất 
tải đến khi kết thúc lún của quá trình chất tải của 
độ rỗng đất ở các độ sâu khác nhau, theo đó độ 
lún của nền sẽ là 
bt
i
z
i
S
i
T
i
n
i
i
ee
mS


 
 1
Trong đó, ei
T
,eis- hệ số rỗng của phân tố thứ i 
trước và sau khi gia tải 
i
z, ứng suất gây lún ở phân tố thứ i 
i
bt ứng suất bản thân ở phân tố thứ i 
m- chiều dày phân tố 
i- hệ số nở hông của phân tố thứ i 
Phương pháp dựa vào đường e-logp 
Đặc điểm của phương pháp là dựa vào đường 
cong bán loga để tìm ra giới hạn phân chia 2 
trạng thái của đát có bản chất cố kết khác nhau: 
- Với đất quá cố kết (c> vo) đất đã trải qua 
quá trình nén chặt 
'
'
1 0
lg.
1 pi
voi
i
n
i
ci
c
qh
e
CS

 
  
- Với đất thiếu cố kết 
)lglg(
1 '
'
1 0 pi
voi
voi
pi
si
n
i
i
c
qC
e
hS



 
  
trong đó, hi , Cci Csi, e0i- chiều cao, chỉ số nén, 
chỉ số nở và hệ số rỗng ban đầu của lớp đất thứ i 
voi áp lực thẳng đứng ban đầu của lớp đất 
thứ i bằng trọng lượng lớp nằm trên đến giữa 
lớp tính toán 
 q = I.H.- tải trọng gây lún lên lớp thứ i, 
trong đó I hệ số ảnh hưởng xác định theo toán 
đồ Oserberg 
Phương pháp lớp tương đương: 
Đặc điểm của phương pháp là tuyến tính hóa 
đường phân bố ứng suất bằng việc quy đổi vùng 
chịu nén theo chiều dày lớp tương đương như sau: 
hs chiều dày lớp tương đương hs=Ab với Alà 
hệ số tra bảng dựa vào kích thước độ cứng ở tâm 
hoặc góc móng và hệ số biến dạng ngang  
a0 – hệ số nén lún rút đổi bình quân; 
0
0 1 e
aa
 với eo hệ số rỗng của đất và a hệ số 
nén lún của đất. 
h- độ sâu vùng chịu nén được xác định theo 
biểu thức: 
p
P
h
Pj
jhh ct
s
s
2
12 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2017 12
Trong đó, Pct độ bền cấu trúc của đất; 
j- Grandien thủy lực. 
xem độ lún của nền dưới một diện chịu tải, 
được xác định bởi biểu thức 
sPhaS 0 
+ Phương pháp phân tầng lấy tổng 
Đặc điểm của phương pháp là chia nền đất ra 
nhiều phân tố để xác lập trạng thái ứng suất cho 
các phân tố, trong đó độ lún của nền là tổng 
biến dạng của các phân tố theo công thức: 
ii
i
i
n
i
n
i
i mE
SS 
11
trong đó, Si - giá trị lún của một lớp phân tố 
trong vùng chịu nén 
mi – chiều dầy phân tố thứ i 
Ei – modul tổng biến dạng của phân tố thứ i nhận 
được từ tính toán kết quả thí nghiệm trong phòng 
i - hệ số nở hông của phân tố thứ i nhận được 
từ bảng tra hoặc tính theo công thức 
n - số phân tố trong vùng chịu nén z. Z là 
chiều sâu tính từ đáy diện chịu tải đến độ sâu có 
ứng suất gây lún z nhỏ hơn 5 lần ứng suất bản 
thân bt 
Các phương pháp liên quan đến kết quả thí 
nghiệm trong phòng chứa đựng nhiều yếu tồ sai 
số, bao gồm: 
- Kết quả thí nghiệm trong phòng là sản 
phẩm của nhiều công đoạn lấy mẫu, vận 
chuyển, bảo quan, gia công và kết quả thí 
nghiệm phụ thuộc vào kỹ năng thao tác, sự 
chính xác của thiết bị. 
- Các mô phỏng về trạng thái của mẫu đất 
trong phòng thí nghiệm không thể đúng với 
trạng thái tồn tại của nó và điều kiện để nó ứng 
xử đúng với thực tế. Trong khi, một sai số nhỏ 
của thí nghiệm thông qua các phép cộng sẽ trở 
thành lớn của kết quả tính. 
- Tính lún bằng kết quả thí nghiệm trong 
phòng còn phụ thuộc vào sự xác lập chiều dày 
các lớp đất. 
Nhưng các phương pháp tính lún bằng kết 
quả thí nghiệm trong phòng đều tính ở tâm diện 
chịu tải, nơi phân bố ứng suất theo chiều sâu là 
lớn nhất, cùng với sự chỉnh lý thống kê kết quả 
thí nghiệm và các phép tuyến tính trong bài 
toán. Do đó, thay vì các sai số của kết quả tính 
dao động xung quanh giá trị thực đã được dồn 
về một phía để đảm bảo kết quả tính toán là giá 
trị có độ tin cậy cao nhất cho ổn định công trình. 
Chính vì thế, cùng với các ưu điểm khác, 
phương pháp tính toán dựa vào kết thi nghiệm 
trong phòng đã trở thành truyền thống và phổ 
biến trong thiết kế tiền định. 
Tóm lại mỗi phương pháp đêu có những ưu và 
nhược điểm khác nhau, không phương pháp nào 
ưu việt trong mọi hoàn cảnh. Do đó, kết hợp giữa 
các phương pháp thí nghiệm hiện trường và quan 
tắc với tính toán bằng thí nghiệm trọng phòng sẽ 
cho giá trị sát thực nhất, vấn đề là kết hợp như 
thế nào để có kết quả đánh giá hợp lý nhất. 
2. Mục đích của tính toán biến dạng và ý 
nghĩa cúa các kết quả 
Ngoài các sai số kết quả của các phương 
pháp tính, thì kết quả tính còn phụ thuộc vào 
việc xác định tải trọng, trong khi tải trọng công 
trình là kết quả của tổ hợp theo các kịch bản. 
Như vậy, tải trọng tác dụng xuống nền đất thông 
qua móng không phải là giá trị thực, nên kết quả 
tính toán biến dạng lún cho một công trình cụ 
thể cũng là không thực, cho dù kết quả từ các 
phương pháp tính là chính xác. 
Hơn thế, biến dạng lún của đất nền luôn kèm 
theo sự biến đổi cấu trúc của đất để hình thành 
một cấu trúc khác. Khi biến dạng còn nằm trong 
giới hạn phát triển của biến dạng trượt thì sự 
biến đổi cấu trúc có xu hướng làm tăng bền và 
giảm khả năng biến dạng. Như thế, biến dạng 
lún của công trình còn phụ thuộc vào phương 
thức chất tải nhanh hay chậm, trong khi các 
phương pháp tính chưa tường minh sự ảnh 
hưởng này. 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2017 13
Tóm lại có rất nhiều vấn đề chỉ ra rằng, kểt 
quả tính toán lún cuối cùng của đất nền dưới tải 
trọng công trình là giá trị không thực. Vậy, 
chúng có ý nghĩa gì trong thiết kế nền móng, khi 
mà theo thời gian chịu tải trọng công trình, đất 
nền chỉ biến đổi theo chiều hướng tăng bền, 
giảm tốc độ lún và tắt dần đã được khẳng định 
chăc chắn bằng sự thỏa mãn điều kiện chịu tải 
của đất nền. 
Để tường minh về ý nghĩa thực tiễn của kết 
quả tính toán, trước hết phải tường minh về bản 
chất biến dạng lún của công trình. 
Biến dạng lún của công trình là sự chuyển vị 
thẳng đứng lũy tiến theo thời gian của công 
trình đó. Nếu xét chuyển vị bằng sự biến đổi 
theo thời gian khối tâm của công trình thì sẽ có 
sự phân biệt biến dạng lún giữa công trình có 
khối tâm không đổi là công trình có kết cấu 
cứng hoặc đặt trên diện chịu tải cứng với công 
trình kết cấu mềm như nền đường, nền đê v.v... 
Giữa chúng luôn có yêu cầu khác nhau về sử 
dụng kết quả tính biến dạng lún 
- Đối với công trình kết cấu cứng, khi chuyển 
vị thẳng đứng, mọi điểm trên công trình đều 
dịch chuyển theo quỹ đạo thẳng đứng và khi 
chuyển vị xoay, mọi điểm đều dịch chuyển theo 
quỹ đạo tròn, chung một trục nhưng khác bán 
kính, sự phân bố tải trọng công trình xuống đất 
nền là không giống nhau giữa các điểm, nên 
biến dạng lún ở một điểm trong nền không phải 
biến dạng lún cho công trình, nhưng sẽ làm thay 
đổi nội lực của kết cấu. Vì thế với công trình kết 
cấu cứng, mục đích tính biến dạng là xác định 
sự lún lệch với quan niệm rằng, sai số xảy ra thì 
cùng sai số như nhau, chênh lún giữa các điểm 
không bị ảnh hưởng. 
Trong thiết kế tiền định, tính toán biến dạng 
nhằm khẳng định giải pháp móng được lựa chọn 
thỏa mãn về điều kiện biến dạng, với yêu cầu 
kết quả tính nhỏ hơn trị giới hạn cho phép về 
biến dạng tuyệt đối và độ lún lệch, còn nhỏ hơn 
bao nhiêu không cần xem xét. 
Trong TCVN 9362 và TCVN 10304 quy 
định: nhà khung bê tông cốt thép không có 
tường chèn, giá trị lún tuyệt đối giới hạn 
Sgh=8cm và độ lún lệch giữa hai móng liền kề 
 S/L= 0.002 là thỏa mãn, không cần xem xét 
đến sai số của kết quả tính. Việc không xét đến 
sai số của kết quả tính, đã dẫn đến những sai 
lầm tiềm ẩn nguy cơ hoặc thể hiện ra bên ngoài 
bằng sự phá hủy kết cấu. 
Ví dụ, lún của đài A là S= 5cm và đài B có 
S=4,2 cm khoảng cách 2 đài L=5 mét, khi đó độ 
lún lệch giữa hai đài là 0.0016<0.002 và được 
đánh giá là thỏa mãn cả hai giới hạn. Nhưng, 
nếu xem xét sai số của kết quả tính với giá trị 
thực vẫn có thể xảy ra khả năng: tại A độ lún S= 
4mm, tại B độ lún S= 2,5mm, khi đó độ lún lệch 
 S/L=0.003, tức là không thỏa mãn giá trị cho 
phép. Ngược lại sẽ có trường hợp kết quả tính 
không thỏa mãn, nhưng vì sai số nên giá trị thực 
vẫn thỏa mãn. 
- Đối với công trình có kết cấu mềm từ thân 
đến móng, những vấn đề chuyển vị và phân bố 
tải trọng công trình xuống nền khác với kết cấu 
cứng. Trong đó, với công trình kết cấu mềm, tải 
trọng công trình truyền xuống các điểm dưới 
nền là như nhau. Vì thế, lún lệch không phải là 
vấn đề chính yếu mà giá trị độ lún tuyệt đối mới 
cần có sự yêu cầu chính xác. 
Trong tính toán nền đường đắp trên đất yếu 
thì độ lún rất lớn, vì vậy sai số sẽ rất lớn, nếu bỏ 
qua sai số, tính toán chỉ xét theo độ tin cậy sẽ 
làm tăng khối lượng so với thực tế vốn có. Đặc 
biệt với nền đất yếu, lún là quá trình lâu dài phụ 
thuộc vào điều kiện cố kết. Vì thế, thời gian lún 
hay thời gian cố kết mới là điều quan tâm. 
Như vậy, muốn có một giá trị lún thực tế thì 
mọi phương pháp tính toán đều không đáp ứng 
được, ngoài phương pháp quan trắc. Nhưng, 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2017 14
phương pháp quan trắc lại có tính bất định không 
gian. Do đó, kết hợp chúng lại là nguyên tắc cơ 
bản trong thiết kế nền móng để lựa chọn hợp lý 
kết quả tính. Nguyên tắc đó là: căn cứ vào độ lệch 
của các kết quả tính so với kết quả quan trắc để 
làm cơ sở lựa chọn. Tuy nhiên, thực hiện theo 
nguyên tắc đó đòi hòi một quy trình phức tạp, nhất 
là với nhà cao tầng giải pháp móng sâu. 
Đối với công trình nhà kết cấu cứng, luôn có 
yêu cầu về độ tin cậy của lún lệch, nhất là 
trường hợp dưới móng công trình có nhiều 
thành tạo cùng ở một độ sâu nhưng có tốc độ 
lún khác nhau sẽ xảy ra sự chênh lún tức thời, 
trước khi đạt giá trị cuối cùng. Cho nên, để đảm 
bảo sai số nhỏ hơn của giá thực so với kết quả 
tính sẽ có cách giải quyết đơn giản như sau: 
Giá trị giới hạn về điều kiện lún cho một loại 
công trình, bao gồm: Giá trị lún tuyệt đối xem như 
điều kiện cần là S <Scgh, giá trị độ lún lệch là điều 
kiện đủ, xác định theo đẳng thức Sgh = L. sgh, khi 
đó điều kiện cần và đủ sẽ là: S <Scgh = L. sgh 
Trong đó, Scgh - độ lún tuyệt đối giới hạn phụ 
thuộc vào loại công trình 
 L - khoảng cách giữa 2 điểm của móng gần 
nhất được tính toán lún 
 sgh - độ lún lệch giới hạn quy định theo kết 
cấu loại công trình, 
Ví dụ, nhà khung bê tông cốt thép không có 
tường chèn quy định S< Scgh=8cm đồng thời 
 s< sgh= 0.002 thì đề xuất điều kiện cần S < 
8cm điều kiện đủ S< Sgh
 = 0.002L 
Theo đề xuất này, kết quả kiểm tra điều kiện 
biến dạng lún sẽ loại bỏ tất cả các khả năng lún 
lệch giữa các móng vượt quá giới hạn cho phép. 
So với với cách kiểm tra điều kiện biến dạng 
của giải pháp móng truyền thống S< Scgh và s< 
 sgh, phương pháp đề xuất áp dụng cho giải 
pháp móng sâu không ảnh hưởng nhiều, vì độ 
lún tuyệt đối của móng sâu rất nhỏ, nhưng áp 
dụng với móng nông trong nhiều trường hợp sẽ 
phải thay đổi đáng kể kích thước móng để có 
được sự thỏa mãn. Trong những trường hợp với 
móng nông, nên sử dụng kết quả nén tĩnh nền, 
hoặc sử dụng hệ số an toàn do đề xuất 
Statements (1967). 
Kết luận: 
Lựa chọn hợp lý kết quả tính toán biến dạng 
trong thiết kế nền móng công trình có vai trò 
quyết định đến lựa chọn giải pháp móng hợp lý, 
nếu lựa chọn kết quả không hợp lý sẽ có giải 
pháp móng không hợp lý .Để lựa chọn hợp lý 
kết quả tính toán lún đòi hỏi phải tường minh tổ 
hợp tải trọng, kết cấu công trình, đặc biệt là quá 
trình xác lập các thông số đất nền xây dựng các 
phương án làm cơ sở lựa chọn. 
Ngoài những vấn đề được trình bày xung 
quanh kết quả tính toán và lựa chọn hợp lý kết 
quả tính, để sáng tỏ vấn đề biến dạng lún của 
đất nền còn nhiều vấn đề khác phải xem xét, 
trong đó vấn đề sử dụng lý thuyết xác suất thống 
kế làm công cụ để giải quyết các biến dạng của 
nền không đồng nhất về thành phần và bất đẳng 
hướng về cấu tạo và tính chất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. E.D Sukina (1985), “Cơ lý hoá hệ phân 
tán tự nhiên”, NXB Matxcova, 
2. N.A Xưtovich.(1983), “Cơ học đất”, bản 
dịch tiếng Nga Nhà xuất bản Nông nghiệp 
3.Shamsher Prakash- Hary D.Sharma 
(1999),“Móng cọc trong thực tế xây dựng“ 
,NXB XD – HN 
4. R. Whitlow (1997), “Cơ học đất”, NXB 
Giáo dục. 
5.K.Széchy, L. Varga (1978), “ Foundation 
engineering”, Akadémiai Kiadó Budapest, 
Người phản biện: PGS.TS ĐOÀN THẾ TƯỜNG 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_ket_qua_tinh_toan_bien_dang_lun_cuoi_cung_t.pdf