Mối quan hệ giữa chất lượng Báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán

Mục tiêu nghiên cứu về chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) và chất lượng kiểm toán đều hướng về yếu

tố quyết định chất lượng và các nhà nghiên cứu ở cả hai lĩnh vực đã thực hiện, tập hợp các biến làm gia

tăng hoặc suy giảm chất lượng. Mục đích của bài báo nhằm tổng quan khái niệm về chất lượng BCTC, chất

lượng kiểm toán và cách thức đo lường cả hai khái niệm này. Tiếp đến, thảo luận về mối quan hệ tương hỗ

giữa chất lượng BCTC và chất lượng kiểm toán. Từ đó hiểu hơn mối tương quan giữa hai khái niệm, cũng

như cơ hội cho các nghiên cứu trong tương lai.

pdf 7 trang kimcuc 5940
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa chất lượng Báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa chất lượng Báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán

Mối quan hệ giữa chất lượng Báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 11Số 132 - tháng 10/2018
MoÁi Quan Heä giöÕa cHaÁt LöôÏng Baùo caùo 
taøi cHÍnH Vaø cHaÁt LöôÏng kieÅM toaùn
PGS.TS. MAI THị HOÀNG MINH*
ThS. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG*
* Trường Đại học Kinh tế TP.HCM; Khoa Kế toán-Kiểm toán_Trường Đại học Kinh tế-Luật
Mục tiêu nghiên cứu về chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) và chất lượng kiểm toán đều hướng về yếu 
tố quyết định chất lượng và các nhà nghiên cứu ở cả hai lĩnh vực đã thực hiện, tập hợp các biến làm gia 
tăng hoặc suy giảm chất lượng. Mục đích của bài báo nhằm tổng quan khái niệm về chất lượng BCTC, chất 
lượng kiểm toán và cách thức đo lường cả hai khái niệm này. Tiếp đến, thảo luận về mối quan hệ tương hỗ 
giữa chất lượng BCTC và chất lượng kiểm toán. Từ đó hiểu hơn mối tương quan giữa hai khái niệm, cũng 
như cơ hội cho các nghiên cứu trong tương lai.
Từ khóa: Chất lượng kiểm toán, chất lượng BCTC, biến đại diện chất lượng.
The relationship between the financial reporting quality of and audit quality of financial statements
The primary goal studies on the financial reporting quality and audit quality is to understand the 
determinants of quality and the researchers in both fields were identified, a set of variables increases or 
quality deterioration. The purpose of the paper to review the concept of financial reporting quality and 
audit quality and how to measure both concepts. Discuss the relationship between the financial reporting 
quality and audit quality. Finally, helps to understand the relationship between the two concepts, as well as 
opportunities for future research.
key words: Financial reporting quality; audit quality; quality proxies.
1. Giới thiệu
Chất lượng luôn là sự thách thức và là mối quan 
tâm hàng đầu mà bất kỳ tổ chức và doanh nghiệp 
nào đều phải đối mặt trong quá trình hoạt động của 
mình. Chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng 
kiểm toán có tầm quan trọng đối với cơ quan quản 
lý, do đó, đây là chủ đề rất được sự quan tâm bởi 
các nhà nghiên cứu hàn lâm. Vì vậy, trước khi phân 
tích mối liên hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính 
và chất lượng kiểm toán thì cần xác định khái niệm 
cho cả hai khái niệm này. Trong bài báo này, tác giả 
thông qua tổng quan về khái niệm chất lượng kiểm 
toán và chất lượng báo cáo tài chính nhằm thu hẹp 
dần khoảng cách từ hai khái niệm. Cả hai lĩnh vực 
đều cố gắng đưa ra các thành phần tạo nên “chất 
lượng cao” BCTC/ kiểm toán nhưng chưa đưa ra 
một khái niệm rộng rãi về chất lượng. Vì vậy, đầu 
tiên tác giả định nghĩa về chất lượng báo cáo tài 
chính và chất lượng kiểm toán dựa trên các nghiên 
cứu trước đây. Nói chung, “chất lượng” được định 
nghĩa là mức độ xuất sắc về một điều gì đó, được đo 
lường dựa trên việc so sánh với những việc tương 
tự (Từ điển Oxford, 2015). 
Cả về chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng 
kiểm toán chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động kinh 
tế tại doanh nghiệp, vì vậy, sự thay đổi về hoạt động 
tại doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chất lượng 
BCTC và chất lượng kiểm toán. Đây cũng là tiền 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN12 Số 132 - tháng 10/2018
đề của cả hai khái niệm. Do đó, tác giả tiếp tục đưa 
ra các biến đại diện nhằm đo lường hai khái niệm 
này. Từ đó, đưa ra mối tương quan giữa các biến đo 
lường nhằm tìm thấy mối quan hệ giữa chất lượng 
BCTC và chất lượng kiểm toán. 
2. khái niệm và đo lường chất lượng báo cáo 
tài chính
- Khái niệm chất lượng báo cáo tài chính
Hiện tại, chưa có định nghĩa về chất lượng báo 
cáo tài chính chung được chấp nhận rộng rãi trong 
các tài liệu học thuật (McDaniel, Martin và Maines, 
2002; Cohen, Krishnamoorthy và Wright, 2004). 
Tuy nhiên, khuôn mẫu lý thuyết về báo cáo Tài 
chính giúp xác định các thang đo phù hợp cho chất 
lượng báo cáo tài chính. Theo khuôn mẫu lý thuyết, 
các báo cáo tài chính cung cấp “thông tin về các 
nguồn lực kinh tế của tổ chức và các nghĩa vụ của 
tổ chức” và “thông tin về ảnh hưởng của giao dịch 
và các sự kiện khác làm thay đổi nguồn lực kinh tế 
và nghĩa vụ của tổ chức”(FASB, 2010). Do đó, mục 
tiêu của báo cáo tài chính là cung cấp các góc nhìn 
về công ty dựa trên các thông tin.
Luật Kế toán Việt Nam (2015) không có mục 
riêng để nêu các đặc tính có liên quan đến chất 
lượng thông tin BCTC, tuy nhiên khi so sánh nội 
dung trình bày trong chương “Những quy định 
chung” với phần khuôn khổ khái niệm của AAA, 
FASB, IASB, PCG, có thể thấy rằng những thuộc 
tính về được liệt kê tại mục “Yêu cầu KT” và tại 
chuẩn mực chung (Bộ Tài chính, 2002), theo đó, 
các thuộc tính thuộc về CLTT BCTC bao gồm: 
Trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, có thể 
hiểu được, có khả năng so sánh.
Dựa trên khuôn mẫu lý thuyết, có thể định 
nghĩa chất lượng báo cáo tài chính ở mức độ cao 
khi có mức độ cao hơn về tính đầy đủ, khách quan, 
không có sai sót và cung cấp thông tin có giá trị dự 
đoán hoặc xác thực hữu ích hơn về tình hình tài 
chính và hiệu quả kinh doanh của công ty.
- Đo lường chất lượng báo cáo tài chính
Các nghiên cứu hàn lâm đã sử dụng các biện 
pháp khác nhau để đo lường chất lượng báo cáo 
tài chính. Các biện pháp này có được những khía 
cạnh khác nhau về chất lượng được mô tả trong 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 13Số 132 - tháng 10/2018
khuôn mẫu lý thuyết. Ví dụ, một số nghiên cứu 
tập trung vào khía cạnh hoàn thiện của chất lượng 
báo cáo tài chính, đo lường chất lượng như mức 
độ công bố thông tin tự nguyện (Botosan, 1997; 
Botosan và Plumlee, 2002). Các nghiên cứu khác 
tập trung vào giá trị xác thực và giá trị dự đoán. Ví 
dụ: thước đo về chất lượng dồn tích được sử dụng 
rộng rãi do Dechow và Dichev (2002) phát triển, có 
thể thấy được biến dồn tích ngắn hạn trên báo cáo 
lưu chuyển tiền tệ trong quá khứ, hiện tại và tương 
lai. Nghiên cứu cũng đã sử dụng các thước đo về 
sự tồn tại của thu nhập và các khía cạnh của chất 
lượng báo cáo tài chính (Dechow và cộng sự, 2010) 
và cho thấy giá trị dự đoán của thu nhập phụ thuộc 
vào độ tin cậy của các phép đo (Bratten, Causholli 
và Khan, 2016).
Hướng nghiên cứu tiếp cận đo lường chất lượng 
báo cáo tài chính thông qua tính khách quan và 
không có sai sót. Một số trong những nghiên cứu 
này sử dụng những dấu hiệu về những sai sót trong 
báo cáo tài chính (ví dụ, Aier và cộng sự 2005; Cao 
và cộng sự, 2012). Các nghiên cứu khác thu thập các 
sai sót cố ý bằng cách đo lường khả năng thao túng 
thu nhập (Cheng và Warfield, 2005; Burgstahler 
và cộng sự, 2006; Dechow và cộng sự, 2010). Mặc 
dù, việc thao túng thu nhập không thể chấp nhận 
được, nhưng các nghiên cứu này lại nắm bắt được 
khả năng thao túng thông qua tổng dồn tích, các 
khoản thu nhập bất thường, ổn định thu nhập.
Một số nghiên cứu của McDaniel và cộng sự, 
2002; Clor-ProellProell và Warfield, 2014; Müller 
và Sellhorn, 2015 thay vì đo lường chất lượng báo 
cáo tài chính bằng sự khác biệt trong báo cáo tài 
chính thì đánh giá chất lượng báo cáo tài chính 
bằng cách kiểm tra mức độ hữu ích của thông tin 
trong báo cáo tài chính đến người sử dụng. Các 
nghiên cứu thực nghiệm đã kiểm tra chất lượng 
báo cáo tài chính được nhận thấy bằng cách trực 
tiếp yêu cầu những người tham gia thử nghiệm 
đánh giá chất lượng báo cáo tài chính (McDaniel và 
cộng sự, 2002). Trong các nghiên cứu tổng hợp, sự 
khác biệt về tính hữu ích của các báo cáo tài chính 
nhìn chung được đo bằng cách kiểm tra sự khác 
biệt về lợi nhuận bất thường xung quanh việc phát 
hành các báo cáo (ví dụ: hệ số chi trả thu nhập). Sự 
phụ thuộc vào báo cáo tài chính của thị trường có 
thể phản ánh những nhận thức của các nhà đầu tư 
về giá trị dự báo của các báo cáo, đó là một chức 
năng của cả sự thích hợp và trình bày trung thực 
của báo cáo tài chính.
Điều quan trọng cần lưu ý là những thước đo 
về chất lượng báo cáo tài chính này có được từ góc 
nhìn về những khía cạnh chất lượng được chấp 
nhận khác nhau. Ngoài ra, một số nghiên cứu 
sử dụng các thước đo về chất lượng báo cáo tài 
chính không có căn cứ trong khuôn mẫu lý thuyết. 
Nghiên cứu giải thích sự tổn thất trước đó như là 
một dấu hiệu chất lượng báo cáo tài chính cao hơn 
(Barth và cộng sự, 2008), mặc dù khuôn mẫu lý 
thuyết cho thấy chất lượng báo cáo tài chính liên 
quan đến tính trung lập. Nghiên cứu của Ahmed và 
cộng sự (2013) cho rằng ổn định thu nhập có khả 
năng dự đoán cao hơn nhưng xem xét mức độ ổn 
định thu nhập để trở thành chỉ số chất lượng báo 
cáo tài chính thấp hơn. Điều này cho thấy khi lựa 
chọn cách đo lường chất lượng báo cáo tài chính, 
các nhà nghiên cứu phải suy nghĩ cẩn thận về các 
khía cạnh của chất lượng báo cáo tài chính mà nhà 
nghiên cứu muốn đề cập để đảm bảo tính tin cậy 
cho nghiên cứu.
3. khái niệm và đo lường chất lượng kiểm toán
- Khái niệm chất lượng kiểm toán
Tương tự như chất lượng báo cáo tài chính, việc 
xác định và khái niệm hóa chất lượng kiểm toán là 
một thách thức đối với các nhà quản lý và các nhà 
nghiên cứu. Tuy nhiên, chất lượng kiểm toán gần 
đây đã nhận được sự quan tâm và nhấn mạnh khi 
Ủy ban giám sát công ty đại chúng Mỹ (PCAOB) 
vào năm 2013 đã thiết lập Dự án chỉ số chất lượng 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN14 Số 132 - tháng 10/2018
kiểm toán với mục đích phát triển các biện pháp đo 
lường chất lượng kiểm toán được sử sụng toàn cầu 
và ổn định theo thời gian (PCAOB, 2013). Trong dự 
án này, PCAOB xác định chất lượng kiểm toán là 
“việc đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư” để 
đáp ứng các cuộc kiểm toán độc lập và đáng tin cậy 
và “thông tin truyền thông của ủy ban kiểm toán 
tốt” về báo cáo tài chính, công bố, kiểm soát nội bộ 
và khả năng hoạt động liên tục. PCAOB đặc biệt lưu 
ý rằng định nghĩa này là phù hợp với khuôn mẫu lý 
thuyết số 8 với cách tiếp cận dựa trên “kết quả” và 
có trọng tâm “nhu cầu của khách hàng”.
Tuy nhiên, không giống như hầu hết các định 
nghĩa của chất lượng BCTC, PCAOB nói thêm rằng 
ngoài việc đánh giá kết quả, cần cân nhắc đến đầu 
vào và quy trình, vì tất cả đều là các yếu tố quyết 
định quan trọng cho chất lượng kiểm toán. Để hỗ 
trợ dự án PCAOB và các quan điểm khác nhau của 
các bên liên quan đến cuộc kiểm toán, Viện Chất 
lượng Kiểm toán (CAQ) cho biết định nghĩa chất 
lượng kiểm toán phải bao gồm vai trò của ủy ban 
kiểm toán, tuân thủ các quy định và chuẩn mực, hệ 
thống kiểm soát chất lượng của công ty kiểm toán, 
cũng như liên kết đến việc kiểm soát chất lượng 
của PCAOB và các chuẩn mực chuyên nghiệp (ví 
dụ như kiến thức, kinh nghiệm...). Phù hợp với 
khái niệm này, Hội đồng Chuẩn mực kiểm toán và 
dịch vụ đảm bảo quốc tế (IAASB) tập trung vào quy 
trình kiểm toán như một thước đo về chất lượng:
“Theo quan điểm của IAASB, chất lượng kiểm 
toán có thể đạt được khi ý kiến của kiểm toán viên 
về các báo cáo tài chính có thể dựa trên bằng chứng 
đầy đủ, phù hợp thu được bởi nhóm dịch vụ kiểm 
toán thực hiện (IAASB 2013, trang 10).”
Nghiên cứu hàn lâm về chất lượng kiểm toán 
đã chủ yếu sử dụng một định nghĩa dựa trên tiếp 
cận trên cơ sở kết quả về chất lượng kiểm toán của 
DeAngelo (1981): Chất lượng kiểm toán đánh giá 
bởi một kiểm toán viên sẽ phải đạt cả hai yêu cầu: 
khi khám phá ra một sự vi phạm trong hệ thống kế 
toán của khách hàng và báo cáo vi phạm. DeFond 
và Zhang (2014) mở rộng định nghĩa để kết hợp 
vai trò của kiểm toán viên trong việc đảm bảo chất 
lượng báo cáo tài chính và xác định chất lượng 
kiểm toán “cao hơn” như là cung cấp “sự đảm bảo 
lớn hơn cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung 
thực các nghiệp vụ kinh tế của công ty trên cơ sở hệ 
thống báo cáo tài chính và các đặc điểm của công 
ty”. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn không kết hợp 
các khía cạnh đầu vào và quy trình về chất lượng 
kiểm toán được coi là quan trọng với một số bên 
liên quan (Knechel và cộng sự, 2013).
Từ các quan điểm trên, các cơ quan ban hành và 
quản lý như PCAOB và IAASB đánh giá chất lượng 
kiểm toán dựa trên các yếu tố đầu vào và quá trình 
kiểm toán, cũng như các kết quả kiểm toán, xem 
một cuộc kiểm toán có chất lượng cao khi bằng 
chứng kiểm toán có đầy đủ và thích hợp. Theo quan 
điểm này, ngay cả khi một ý kiến kiểm toán thực tế 
là hợp lý, cuộc kiểm toán vẫn được xem là có chất 
lượng thấp nếu các thủ tục kiểm toán được áp dụng 
trong quá trình kiểm toán dùng làm cơ sở để xác 
định ý kiến kiểm toán là không đầy đủ. Các công 
ty kiểm toán có thể có các quan điểm khác nhau về 
chất lượng kiểm toán, xác định các cuộc kiểm toán 
có chất lượng cao hơn từ những việc đã hoàn thành 
theo các chính sách và thủ tục của công ty.
Cuối cùng, theo quan điểm của các nhà đầu tư 
và những người sử dụng báo cáo tài chính, chất 
lượng kiểm toán ở mức độ cao là cuộc kiểm toán 
mà kiểm toán viên cung cấp ý kiến kiểm toán có 
thông tin (DeFond và Zhang 2014). Các bên liên 
quan khác nhau có thể có quan điểm khác nhau về 
định nghĩa chính xác (và các thước đo tốt nhất) về 
chất lượng kiểm toán nhưng đều đồng nhất về việc 
tập trung vào yếu tố đầu vào, quá trình kiểm toán 
và kết quả đầu ra. Ngay cả các bên liên quan như 
các nhà đầu tư, những người dường như quan tâm 
nhiều hơn đến kết quả đầu ra, có thể hiểu rằng các 
kết quả đầu ra mang tính xác suất và yếu tố đầu vào 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 15Số 132 - tháng 10/2018
và quá trình kiểm toán sẽ làm tăng khả năng đạt 
được kết quả đầu ra. 
Do đó, định nghĩa về chất lượng kiểm toán của 
chúng tôi tập trung vào quan điểm này. Cụ thể, chất 
lượng kiểm toán ở mức độ cao là cuộc kiểm toán 
cung cấp mức bảo đảm cao hơn mà ở đó kiểm toán 
viên đã có đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để 
chứng minh rằng báo cáo tài chính được trình bày 
trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị.
- Đo lường chất lượng kiểm toán
Theo tổng quan các nghiên cứu trước đây, có 
nhiều cách thức đo lường về chất lượng kiểm toán 
đã được sử dụng (Francis, 2004). DeFond và Zhang 
(2014) dựa trên các nghiên cứu tổng hợp cho rằng 
đo lường chất lượng kiểm toán từ một trong hai 
quan điểm: đầu vào đến quá trình kiểm toán (ví dụ: 
quy mô công ty kiểm toán) và kết quả của quá trình 
kiểm toán (ví dụ như ý kiến kiểm toán). Hơn nữa, 
các nhà nghiên cứu phân loại cách tiếp cận yếu tố 
đầu vào thành các vấn đề liên quan đến đặc điểm 
của kiểm toán viên và các vấn đề liên quan đến hợp 
đồng của công ty kiểm toán - khách hàng. Cách đo 
lường dựa trên kết quả đầu ra được phân loại thành 
thay đổi báo cáo tài chính, gian lận, vấn đề truyền 
thông của kiểm toán viên, chất lượng báo cáo tài 
chính và nhận thức. Cách tiếp cận này sử dụng 
phương pháp thử nghiệm và xem các biến này là 
biến đại diện cho chất lượng kiểm toán. Mặc dù, 
do tính chất của việc thu thập dữ liệu, các nghiên 
cứu thử nghiệm có xu hướng tập trung nhiều hơn 
vào các biện pháp dựa trên quá trình kiểm toán (Ví 
dụ: các quyết định về kế hoạch kiểm toán, đánh 
giá bằng chứng, sử dụng chuyên gia...) (Knechel 
và cộng sự, 2013) và cách đo lường dựa trên nhận 
thức về kết quả đầu ra (ví dụ như nhận thức của các 
nhà đầu tư về chất lượng kiểm toán).
Các biến đại diện cho chất lượng kiểm toán có 
mức tương quan cao với nhau, chất lượng kiểm 
toán là khái niệm đa hướng, không có cách đo 
lường có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp 
nghiên cứu về chất lượng kiểm toán.
 Ngoài ra, một số biến đại diện cho chất lượng 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN16 Số 132 - tháng 10/2018
kiểm toán không phù hợp với các khái niệm về chất 
lượng kiểm toán và không thể khái quát hóa cho 
tất cả các công ty hoặc theo thời gian. Ví dụ, báo 
cáo kiểm tra PCAOB ghi nhận sự thiếu sót đôi khi 
được sử dụng như một thước đo chất lượng kiểm 
toán. Tuy nhiên, thay vì sử dụng một phương pháp 
lựa chọn thống kê, PCAOB sử dụng phương pháp 
tiếp cận dựa trên rủi ro
Do đó, khó có thể đưa ra các kết luận rõ ràng 
về chất lượng kiểm toán dựa trên kết quả kiểm tra. 
Tóm lại, vì chất lượng kiểm toán phụ thuộc vào 
quan điểm khác nhau của các bên liên quan, vì vậy, 
không có một thước đo phù hợp cho tất cả quan 
điểm. Do đó, các nhà nghiên cứu cần xác định 
khía cạnh, quan điểm về chất lượng kiểm toán để 
lựa chọn biến đại diện phù hợp. Hơn nữa, các nhà 
nghiên cứu nên xem xét việc sử dụng biến đại diện 
dựa trên yếu tố đầu vào, quá trình và kết quả đầu ra 
(Francis, 2011; Knechel và cộng sự, 2013; DeFond 
và Zhang, 2014).
4. Mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài 
chính và chất lượng kiểm toán
Từ các định nghĩa về chất lượng báo cáo tài 
chính và chất lượng kiểm toán là các khái niệm 
nghiên cứu khác nhau. Chất lượng báo cáo tài 
chính được hiểu là mức độ mà báo cáo tài chính 
phản ánh tình trạng “sức khỏe” của công ty, trong 
khi chất lượng kiểm toán đạt được khi mức độ đảm 
bảo rằng kiểm toán viên có đủ bằng chứng thích 
hợp rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và 
hợp lý tình trạng “sức khỏe” công ty. Mặc dù là các 
khái niệm nghiên cứu khác nhau, chất lượng báo 
cáo tài chính và chất lượng kiểm toán thường có 
mối liên hệ.
Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây lúng túng về 
sự phân biệt giữa chất lượng báo cáo tài chính và 
chất lượng kiểm toán và sử dụng cùng biến đại diện 
cho chất lượng báo cáo tài chính hoặc chất lượng 
kiểm toán. Ví dụ: gian lận, kiện tụng, chất lượng 
dồn tích, thao túng thu nhập. 
Thư hai, đo lường chất lượng báo cáo tài chính 
và chất lượng kiểm toán nói chung không thể tách 
rời khi sử dụng các kết quả đầu ra như là biến đại 
diện cho chất lượng. Vì vậy, mặc dù chất lượng 
kiểm toán và chất lượng báo cáo tài chính là những 
khái niệm riêng biệt, do đó, nên sử dụng các biến 
đại diện khác nhau. Chất lượng báo cáo tài chính 
trước kiểm toán so với chất lượng báo cáo tài chính 
sau kiểm toán nhìn chung không đáng lưu ý. Ví dụ, 
chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm 
toán không được chú ý một cách riêng biệt bằng 
cách đo lường mức độ thay đổi báo cáo, sai lệch báo 
cáo tài chính hoặc quản trị thu nhập như là biến 
đại diện cho chất lượng.
Thứ ba, cả chất lượng báo cáo tài chính và chất 
lượng kiểm toán đều bị ảnh hưởng mạnh bởi các 
nghiệp vụ kinh tế. Mặc dù, cách đo lường này có 
nhiều cách đo như các khoản thu nhập bất thường 
và chi phí kiểm toán bất thường. Điều này cho thấy 
rằng các thước đo về chất lượng báo cáo tài chính 
và chất lượng kiểm toán có thể thấp hơn do sự thay 
đổi hoặc không đồng đều giữa tiêu chuẩn ngành 
giữa các công ty. 
Cuối cùng, rất ít nghiên cứu đề cập các vấn đề 
liên quan đến đo lường chất lượng báo cáo tài chính 
và chất lượng kiểm toán thường là trường hợp nội 
sinh. Quan điểm cho rằng chất lượng kiểm toán 
là yếu tố quyết định chất lượng báo cáo tài chính 
sau kiểm toán được các nghiên cứu trước đây đồng 
thuận (DeFond và Zhang, 2014). Tuy nhiên, quan 
niệm cho rằng mối quan hệ giữa chất lượng báo 
cáo tài chính và chất lượng kiểm toán theo cách 
đo hồi quy lặp lại ít được xem xét. Ví dụ, nhiều khả 
năng kỳ vọng về chất lượng kiểm toán ảnh hưởng 
đến chất lượng báo cáo tài chính trước kiểm toán.
5. kết luận
Bài viết đưa ra các quan điểm nhìn nhận về chất 
lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 17Số 132 - tháng 10/2018
thông qua các nghiên cứu trước đây. Từ các quan 
điểm khác nhau, các biến đại diện cho cách thức 
đo lường hai khái niệm cũng được bàn luận. Từ 
đó, cung cấp góc nhìn toàn diện hơn về hai khái 
niệm và tạo tiền đề cho các nghiên cứu tương lai. 
Nghiên cứu trong tương lai về chất lượng báo cáo 
tài chính và chất lượng kiểm toán có thể cung cấp 
cái nhìn sâu hơn về các yếu tố quyết định và ảnh 
hưởng của chất lượng nếu xét đến những thay đổi 
và khác nhau về tình hình kinh tế có thể ảnh hưởng 
đến báo cáo tài chính và kết quả kiểm toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmed, A. S., M. Neel, and D. Wang. 2013. Does 
mandatory adoption of IFRS improve accounting 
quality? Preliminary evidence. Contemporary 
Accounting Research 30 (4): 1344-1372; 
2. Barth, M., W. Landsman, and M.H. Lang. 
2008. International accounting standards and 
accounting quality. Journal of Accounting 
Research 46 (3): 467-498;
3. Botosan, C. A. 1997. Disclosure level and the cost of 
equity capital. The Accounting Review.72 (3): 323-349;
4. Botosan, C. A. and M. A. Plumlee. 2002. A 
re-examination of disclosure level and the 
expected cost of equity capital. Journal of 
Accounting Research 40 (1): 21-40;
5. Brandon, D. M., A. D. Crabtree, and J. J. Maher. 
2004. Nonaudit fees, auditor independence, and 
bond ratings. Auditing: A Journal of Practice & 
Theory 23 (2): 89-103;
6. Bratten, B., L.M. Gaynor, L. McDaniel, N.R. 
Montague, and G. Sierra. 2013. The Audit of 
Fair Values and Other Estimates: The Effects of 
Underlying Environmental, Task, and Auditor- 
Specific Factors. Auditing: A Journal of Practice 
& Theory 32 (Supplement 1): 7-44;
7. Bratten, B., R. Jennings, and C. M. Schwab. 
2015. The effect of using a lattice model to 
estimate reported option values. Contemporary 
Accounting Research 32 (1): 192-222;
8. Bratten, B., M. Causholli, and U. Khan. 
2016a. Usefulness of fair values for predicting 
banks’ future earnings: Evidence from other 
comprehensive income and its components. 
Review of Accounting Studies 21 (1): 280-315; 
9. Brown-Liburd, H. L, J. Cohen, and G. Trompeter. 
2013. Effects of earnings forecasts and heightened 
professional skepticism on the outcomes of 
client-auditor negotiation. Journal ofBusiness 
Ethics 116 (2): 311-325;
10. Center for Audit Quality (CAQ). 2013. Audit 
quality indicators [Letter to the PCAOB];
11. Chen, Q., K. Kelly, and S. E. Salterio. 2012. Do 
changes in audit actions and attitudes consistent 
with increased auditor skepticism deter aggressive 
earnings management? An experimental 
investigation. Accounting, Organizations and 
Society 37 (2): 95-115;
12. Clor-Proell, S. M., C. A. Proell, and T. D. Warfield. 
2014. The effects of presentation salience and 
measurement subjectivity on nonprofessional 
investors’ fair value judgments. Contemporary 
Accounting Research 31 (1): 45-66.
13. DeAngelo, L. 1981. Auditor size and audit quality. 
Journal of Accounting and Economics 3 (3): 183–199;
14. Dechow, P. M. and I. D. Dichev. 2002. The quality of 
accruals and earnings: The role of accrual estimation 
errors. The Accounting Review 77 (s-1): 35-59; 
15. Dechow, P, W. Ge, and C. Schrand. 2010. 
Understanding earnings quality: A review 
of theproxies, their determinants and their 
consequences. Journal of Accounting and 
Economics 50 (2): 344-401;
16. DeFond, M. and J. Zhang. 2014. A review of 
archival auditing research. Journal of A ccounting 
and Economics 58 (2): 275-326;
17. Francis, J.R. 2011. A framework for understanding 
and researching audit quality. Auditing: AJournal 
of Practice & Theory 30 (2): 125–152;
18. International Auditing and Assurance Standards 
Board (IAASB). 2013. A Framework for Audit 
Quality (Consultation Paper, January 2013). New 
York: International Federation ofAccountants;
19. Knechel, R. W., G. V. Krishnan, M. Pevzner, L. B. Shefchik, 
and U.K. Velury. 2013. Auditing quality: Insights from 
the academic literature. Auditing: A Journal of Practice 
& Theory 32 (Supplement 1): 385-421;
20. Müller, M. A., E. J. Riedl, and T. Sellhorn. 2015. 
Recognition versus disclosure of fair values. The 
Accounting Review 90 (6): 2411-2447;
21. Public Company Accounting Oversight 
Board (PCAOB). 2015a. Concept Release on 
AuditQuality Indicators (Release No. 2015-005, 
July 1, 2015). Washington, DC: PCAOB.

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_va_chat_luong.pdf