Hoạt động nghiên cứu khoa học của viện Khoa học Lao động và xã hội - Số 14

Trong kinh tế hàng hóa, mà đỉnh

cao là kinh tế thị trường, sản xuất -

phân phối - trao đổi - tiêu dùng là

những bộ phận cấu thành không thể

tách rời của quá trình tái sản xuất xã

hội. Trong đó, sản xuất là điểm xuất

phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, phân

phối và trao đổi là khâu trung gian.

Giữa chúng có mối quan hệ, tác động

qua lại với nhau, nhưng sản xuất bao

giờ cũng là gốc, là khâu quyết định.

Phân phối bao gồm phân phối các

yếu tố sản xuất (các yếu tố đầu vào) và

phân phối kết quả của sản xuất (các kết

quả đầu ra). Với quan niệm này, phân

phối có nội hàm rất rộng. Xét về mặt

giá trị, các yếu tố đầu vào hình thành

chi phí sản xuất, trong đó có chi phí lao

động (bao gồm chi phí tiền lương, tiền

công và các chi phí khác). Còn kết quả

đầu ra thể hiện ở doanh thu, bao gồm cả

tiền lương, tiền công và thu nhập của

người lao động. Trong quan hệ phân

phối, với tư cách là phân phối các yếu

tố sản xuất thì tự bản thân nó đã thuộc

về sản xuất để đảm bảo cho quá trình

sản xuất diễn ra bình thường. Còn phân

phối, với tư cách là phân phối kết quả

của sản xuất (kết quả đầu ra), chính là

sự phân chia kết quả đó theo một tỷ lệ

cho các chủ thể kinh tế tham gia đóng

góp vào hình thành kết quả đó. Tức là,

doanh thu, sau khi thực hiện nghĩa vụ

với nhà nước, tích lũy tái sản xuất mở

rộng, được phân phối lần đầu (phân

phối sơ cấp) theo vốn và lao động; phần

nộp cho ngân sách nhà nước được dùng

để đầu tư phát triển và chi tiêu công,

một phần trong đó được phân phối lại

thông qua phúc lợi xã hội và chính sách

xã hội.

pdf 52 trang kimcuc 7600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hoạt động nghiên cứu khoa học của viện Khoa học Lao động và xã hội - Số 14", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động nghiên cứu khoa học của viện Khoa học Lao động và xã hội - Số 14

Hoạt động nghiên cứu khoa học của viện Khoa học Lao động và xã hội - Số 14
Ho¹t ®éng nghiªn cøu khoa häc 
cña viÖn Khoa häc Lao ®éng vµ x· héi 
Số 14 Tháng 12 năm 2007 
NỘI DUNG 
I. Trao đổi về phương pháp và công cụ nghiên cứu 
1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế phân phối phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập - 
 TS. Nguyễn Hữu Dũng tr.3 
2. Định hướng xây dựng và thực hiện chính sách đối với đối tượng yếu thế nhằm bảo đảm 
hài hòa quan hệ giữa công bằng xã hội với tăng trưởng kinh tế - Ths. Bùi Xuân Dự tr.9 
3. Từ vấn đề xác định hộ nghèo, xem xét lại cách tiếp cận xây dựng chuẩn nghèo – 
 Ths. Bùi Xuân Dự tr.16 
 II. Kết quả nghiên cứu 
1. Nâng cao hiệu quả của thị trường cho người nghèo tại Đắk Nông - Những phát hiện 
chính và kiến nghị - Trần Thị Tuy Hòa và Nhóm nghiên cứu tr.25 
2. Một số vấn đề tiền lương trong doanh nghiệp vừa và nhỏ - Trần Văn Hoan tr.31 
3. Tăng cường an sinh cho người nghèo ở nông thôn - Nguyễn Thị Thanh Hà tr.39 
 III. Thông tin về các Hội nghị, Hội thảo tr.46 
 IV. Tin ngoài nước 
 Chuyển lao động bán thời gian thành lực lượng lao động chính và các hoạt động thành lập 
nghiệp đoàn của Công đoàn Nhật Bản (Hoàng Anh Thư - Trích dịch) tr. 48 
V. Giới thiệu sách mới tr.50 
Scientific research of ilssa 
No. 14 December 2007 
Contents 
I. Discussion on methodology and instruments in scientific research 
1. Keep up improving distribution mechanism that should be suitable to market 
economy and the world integration - PhD. Nguyen Huu Dzung 
2. Orientation for setting up and implementing policies for vulnerable group aimed 
at ensuring the harmonious relation between social balance and economic growth - 
MA. Bui Xuan Du 
3. To take examination of the approach to setting up the poor criterion based on the 
poor household determination - MA. Bui Xuan Du 
 II. Research outputs 
1.Improving the impacts of market for the poor in Dak Nong- the main findings and 
recommendation - Tran Thi Tuy Hoa and research group - ILSSA 
 2.Some wage/salary issues of workers in small and medium sized enterprises - 
Tran van Hoan 
3. Improving social security for the poor in rural areas - Nguyen Thi Thanh Ha 
 III. Information on the Workshops 
IV. International news 
Shift of part-time workers to the mainstream workforce and Union Organizing 
Activities of Labor Unions in Japan ( Translation) 
Kazunari Honda - Associate professor, faculty of Economics, Kokugakuin 
University 
 V. Introduction of some new publications 
 Trao ®æi vÒ ph­¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 3 
TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÂN PHỐI PHÙ HỢP 
VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP 
TS. Nguyễn Hữu Dũng 
Phân phối là một trong những nội 
dung quan trọng của thể chế kinh tế thị 
trường. Do đó, hoàn thiện quan hệ phân 
phối sẽ góp phần to lớn hoàn thiện thể 
chế kinh tế thị trường định hướng 
XHCN. Tuy nhiên, quan hệ phân phối 
là vấn đề rất tổng hợp, có nhiều mối 
quan hệ kinh tế - xã hội tương tác chặt 
chẽ với nhau, liên quan đến vấn đề sở 
hữu, phân bố nguồn lực, quan hệ giữa 
tích lũy và tiêu dùng. Bài này chỉ giới 
hạn trong phạm vi phân phối tiền lương 
và thu nhập. 
1. Nhận thức về quan hệ phân 
phối trong nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN 
Trong kinh tế hàng hóa, mà đỉnh 
cao là kinh tế thị trường, sản xuất - 
phân phối - trao đổi - tiêu dùng là 
những bộ phận cấu thành không thể 
tách rời của quá trình tái sản xuất xã 
hội. Trong đó, sản xuất là điểm xuất 
phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, phân 
phối và trao đổi là khâu trung gian. 
Giữa chúng có mối quan hệ, tác động 
qua lại với nhau, nhưng sản xuất bao 
giờ cũng là gốc, là khâu quyết định. 
Phân phối bao gồm phân phối các 
yếu tố sản xuất (các yếu tố đầu vào) và 
phân phối kết quả của sản xuất (các kết 
quả đầu ra). Với quan niệm này, phân 
phối có nội hàm rất rộng. Xét về mặt 
giá trị, các yếu tố đầu vào hình thành 
chi phí sản xuất, trong đó có chi phí lao 
động (bao gồm chi phí tiền lương, tiền 
công và các chi phí khác). Còn kết quả 
đầu ra thể hiện ở doanh thu, bao gồm cả 
tiền lương, tiền công và thu nhập của 
người lao động. Trong quan hệ phân 
phối, với tư cách là phân phối các yếu 
tố sản xuất thì tự bản thân nó đã thuộc 
về sản xuất để đảm bảo cho quá trình 
sản xuất diễn ra bình thường. Còn phân 
phối, với tư cách là phân phối kết quả 
của sản xuất (kết quả đầu ra), chính là 
sự phân chia kết quả đó theo một tỷ lệ 
cho các chủ thể kinh tế tham gia đóng 
góp vào hình thành kết quả đó. Tức là, 
doanh thu, sau khi thực hiện nghĩa vụ 
với nhà nước, tích lũy tái sản xuất mở 
rộng, được phân phối lần đầu (phân 
phối sơ cấp) theo vốn và lao động; phần 
nộp cho ngân sách nhà nước được dùng 
để đầu tư phát triển và chi tiêu công, 
một phần trong đó được phân phối lại 
thông qua phúc lợi xã hội và chính sách 
xã hội. 
Trong kinh tế thị trường, mối quan 
hệ giữa cung và cầu hàng hóa và dịch 
vụ quyết định giá thành của kết quả sản 
xuất và việc sử dụng vốn và lao động, 
đồng thời cũng quyết định phân phối 
kết quả sản xuất theo vốn và lao động 
 Trao ®æi vÒ ph­¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 4 
của các chủ thể kinh tế. Ở đây, người 
lao động đóng góp sức lao động của 
mình vào quá trình tạo ra giá trị sản 
phẩm hàng hóa và dịch vụ thì được 
nhận một phần dưới hình thức tiền 
lương, tiền công. Người lao động nhận 
tiền lương, tiền công trong phân phối 
lần đầu (phân phối sơ cấp) phụ thuộc 
vào mức độ đóng góp của lao động vào 
kết quả đầu ra của sản xuất. Do đó, tiền 
lương, tiền công trả cho người lao 
động, như là một yếu tố quyết định của 
sản xuất, phải tương xứng với sự đóng 
góp của lao động (hay trả đúng giá trị 
của lao động) tùy theo (hay phụ thuộc 
vào) năng suất lao động của từng cá 
nhân (hay thành tích của từng cá nhân). 
Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc, 
là chuẩn mực cao nhất của phân phối 
trong kinh tế thị trường, cũng chính là 
sự công bằng trong phân phối. Tuy 
nhiên, để đảm bảo thỏa mãn nhu cầu 
của người lao động như là thành viên 
của xã hội, họ không chỉ được nhận 
phân phối lần đầu dưới hình thức tiền 
lương, tiền công, mà còn được nhận một 
phần từ kết quả sản xuất chung của xã 
hội dưới hình thức phúc lợi xã hội bằng 
chính sách phân phối lại (phân phối thứ 
cấp) của Nhà nước thông qua trao đổi. 
Xã hội càng phồn vinh thì phúc lợi xã 
hội càng đa dạng, phong phú và dồi dào, 
chất lượng đời sống của mọi người, kể 
cả người lao động, càng được nâng cao. 
Theo Einkommen, đó là biểu hiện khía 
cạnh “hữu nghị” của kinh tế thị trường. 
Tuy nhiên, khi đưa ra chính sách phân 
phối lại trong kinh tế thị trường nhằm 
nâng cao chất lượng cuộc sống và sự 
phồn vinh lâu dài thì nguyên tắc trả 
đúng giá trị lao động theo năng suất lao 
động (hay thành tích) cá nhân vẫn phải 
đứng ở vị trí số 1. 
Theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - 
LêNin, phân phối theo lao động là 
nguyên tắc và là một trong những đặc 
trưng quan trọng của CNXH. Nhưng 
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, những 
năm trước đây trong cơ chế kế hoạch 
hóa tập trung và bao cấp, chúng ta đã 
thực hiện một chính sách phân phối 
bình quân quá lâu nên đã làm hạn chế 
tăng trưởng và phát triển. 
Trong quá trình đổi mới, mô hình 
phát triển tổng quát được lựa chọn ở 
nước ta là phát triển nền kinh tế thị 
trường định hướng XHCN. Các đặc 
trưng kinh tế liên quan đến quan hệ 
phân phối có thể khái quát như sau: 
- Thừa nhận sự tồn tại khách quan, 
lâu dài của nền kinh tế đa hình thức sở 
hữu, đa thành phần kinh tế và đa hình 
thức phân phối ứng với hình thức sở 
hữu để tạo động lực cho phát triển cao 
và bền vững; 
- Thừa nhận sự chênh lệch về thu 
nhập và mức sống, thực chất là chấp 
nhận những nhóm xã hội vượt trội ở 
mức độ khác nhau trên cơ sở phát huy 
tiềm năng về vốn (tài sản), kiến thức 
làm ăn, kỹ năng nghề nghiệp, trình độ 
quản lý (trí tuệ) đóng góp và cống hiến 
vào các hoạt động kinh tế, xã hội, là 
một thực tế khách quan và tồn tại lâu 
dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH; 
- Vừa khuyến khích làm giàu hợp 
pháp vừa coi xóa đói giảm nghèo là 
những vấn đề có tính chiến lược quốc 
gia để khắc phục sự phân cực, phân hóa 
 Trao ®æi vÒ ph­¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 5 
xã hội không phù hợp với định hướng 
XHCN. 
Đặc trưng trên không cho phép 
chúng ta áp dụng hay vận dụng máy 
móc quan hệ phân phối và nguyên tắc 
phân phối theo kinh tế thị trường tự do, 
cũng không thể áp dụng ngay triệt để và 
duy nhất quan hệ phân phối và nguyên 
tắc phân phối dưới CNXH là phân phối 
theo lao động. Vấn đề đặt ra là phải xây 
dựng quan hệ và nguyên tắc phân phối 
phù hợp với kinh tế thị trường định 
hướng XHCN. 
Đại hội IX đã xác định: “Kinh tế thị 
trường định hướng XHCN thực hiện 
phân phối chủ yếu theo kết quả lao 
động và hiệu quả kinh tế, đồng thời 
phân phối theo mức đóng góp vốn và 
các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh 
doanh và thông qua phúc lợi xã hội”1. 
Nguyên tắc phân phối trên đây hiển 
nhiên chưa phải là nguyên tắc phân 
phối của CNXH, nhưng nó phù hợp với 
thực tiễn của thời kỳ quá độ đi lên 
CNXH và do vậy có thể coi đó là 
nguyên tắc phân phối của thời kỳ quá 
độ đi lên CNXH phù hợp với nền kinh 
tế thị trường định hướng XHCN. 
2. Đánh giá chung về kết quả và những 
thách thức trong lĩnh vực phân phối 
a. Kết quả: 
Phân phối là lĩnh vực rất phức tạp 
và nhạy cảm, liên quan đến toàn bộ 
quan hệ kinh tế - xã hội và cân đối vĩ 
mô, đến đời sống của hàng triệu người 
lao động. Tuy nhiên, trong những năm 
1 Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, 
tr.88 
qua vấn đề phân phối đã được Đảng và 
nhà nước ta đặc biệt quan tâm và thực 
hiện một chính sách phân phối phù hợp 
với kinh tế thị trường, đồng thời chú ý 
đến cải thiện đời sống người lao động 
trong điều kiện nền kinh tế cho phép, 
có thể đánh giá khái quát như sau: 
- Các chủ trương, quan điểm đổi 
mới của Đảng về phân phối đã từng 
bước được thể chế hóa bằng hệ thống 
pháp luật, cơ chế, chính sách, xây dựng 
các chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế 
hoạch dài hạn và hàng năm của nhà 
nước phù hợp với quá trình chuyển 
sang nền kinh tế thị trường định hướng 
XHCN. 
- Trong phân phối tiền lương, thu 
nhập đã bước đầu tách khu vực sản xuất 
kinh doanh ra khỏi khu vực hành chính 
sự nghiệp; doanh nghiệp được quyền tự 
chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc trả 
lương gắn với năng suất lao động, phù 
hợp với mặt bằng tiền công trên thị 
trường, khắc phục dần phân phối bình 
quân và chênh lệch quá lớn về tiền 
lương, thu nhập giữa các ngành, khu 
vực và vùng. 
- Bước đầu xác định phân phối tiền 
lương, thu nhập khu vực thị trường 
(doanh nghiệp) trên cơ sở thỏa thuận giữa 
người lao động và người sử dụng lao 
động thông qua ký kết hợp đồng lao động 
cá nhân và thỏa ước lao động tập thể. 
- Đảm bảo mối quan hệ kinh tế vĩ 
mô giữa tích lũy và tiêu dung, vừa đảm 
bảo đầu tư từ ngân sách cho phát triển 
vừa tăng thu nhập, cải thiện từng bước 
đời sống người lao động. Hàng năm, 
nguồn thu vào ngân sách nhà nước 
khoảng 21-22% GDP, trong đó đảm 
 Trao ®æi vÒ ph­¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 6 
bảo tỷ lệ 30% cho đầu tư phát triển và 
70% cho chi tiêu công. Mọi người dân 
kể cả nhóm người nghèo, nhóm yếu thế 
đều được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh 
tế thông qua các hình thức phân phối 
khác nhau (phân phối lần đầu, phân 
phối lại thông qua phúc lợi xã hội và 
chính sách xã hội). Đặc biệt, tiền lương 
tối thiểu chung từ năm 2003 đến nay đã 
3 lần điều chỉnh, tăng bình quân 
21%/năm; tốc độ tăng thu nhập của dân 
cư bình quân khoảng 17-20%/năm. 
- Từng bước thực hiện phân phối 
một cách công bằng với nhiều hình 
thức khác nhau: Phân phối theo lao 
động, phân phối theo các yếu tố đầu 
vào như vốn, tài năng, cống hiến và 
phân phối theo yêu cầu của chính sách 
xã hội, nhưng phân phối theo kết quả 
lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; 
đặc biệt, trong phân phối coi trọng 
nguyên tắc trả đúng giá trị lao động, 
chấp nhận có sự chênh lệch, khác biệt 
giữa các loại lao động, các tầng lớp dân 
cư, chống bình quân, bao cấp, cào bằng 
đã tạo động lực mới khuyến khích mọi 
người đầu tư tham gia sản xuất kinh 
doanh, phát huy tốt hơn yếu tố lao 
động, công nghệ, vốn, năng lực quản lý 
và mọi nguồn lực trong dân cư, thúc 
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - 
xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích và đồng 
thuận xã hội. 
- Trong khu vực nhà nước và khu 
vực sản xuất kinh doanh đã từng bước 
thực hiện phân phối theo kết quả lao 
động và hiệu quả kinh tế thông qua các 
lần cải cách chính sách tiền lương theo 
định hướng thị trường, khắc phục phân 
phối bình quân và xóa bỏ bao cấp; thực 
hiện tiền tệ hóa tiền lương; từng bước 
tính đúng, tính đủ tiền lương theo thị 
trường; gắn tiền lương, thu nhập với 
năng suất, chất lượng và hiệu quả. Kết 
quả tiền lương khu vực hành chính sự 
nghiệp bình quân tăng trên 20%/năm, 
khu vực sản xuất kinh doanh tăng 
10%/năm; mức lương trung bình của 
người lao động trong doanh nghiệp nhà 
nước năm 2006 tăng 5,5 lần so với năm 
1993, doanh nghiệp ngoài nhà nước 
tăng 4,2 lần và doanh nghiệp đầu tư 
nước ngoài tăng 3,8 lần, đời sống người 
lao động được cải thiện rõ rệt. 
b. Tồn tại và thách thức: 
- Chính sách tiền lương trong khu 
vực sản xuất kinh doanh chưa thống 
nhất và tạo sân chơi bình đẳng đối với 
các loại hình doanh nghiệp theo hình 
thức sở hữu và thành phần kinh tế. Mức 
lương tối thiểu và cơ chế tiền lương vẫn 
có sự khác nhau giữa doanh nghiệp nhà 
nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh 
nghiệp đầu tư nước ngoài. 
- Vai trò điều tiết của chính sách 
phân phối vĩ mô còn nhiêu hạn chế, 
chưa kiểm soát được phân phối và thu 
nhập, nhất là chưa điều tiết được yếu tố 
lợi thế về ngành, nghề, xóa độc quyền, 
xóa bảo hộ và bao cấp của nhà nước đối 
với doanh nghiệp nhà nước, làm giàu 
phi pháp. 
- Mức thu nhập của các tầng lớp 
dân cư có xu hướng tăng, nhưng nhìn 
chung mức sống còn thấp và thấp hơn 
các nước đang phát triển trong khu vực 
(năm 2005, chỉ bằng ½ Trung Quốc; 
bằng 1/3 Thái Lan; bằng 2/3 Philipin; 
bằng ¼ Malaysia). 
 Trao ®æi vÒ ph­¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 7 
- Trong khu vực nhà nước, chế độ 
tiền lương theo quy định vẫn là chế độ 
tiền lương thấp, chưa phản ánh đúng 
giá trị và giá cả tiền công trên thị 
trường, mức lương tối thiểu nhà nước 
quy định vẫn thấp hơn mức lương trả 
trên thị trường khoảng 20%; tiền lương 
chiếm tỷ lệ thấp trong thu nhập và mới 
đáp ứng được khoảng 60-65% so với 
nhu cầu, thể hiện rõ nhất trong việc trả 
lương cho những người tài, có những 
cống hiến thì tiền lương chênh lệch ít 
so với những người làm việc có hiệu 
quả thấp. Hiện nay, bình quân chênh 
lệch giữa người có tiền lương cao nhất 
và thấp nhất chỉ khoảng 5-6 lần, trong 
khi trên thị trường chênh lệch hàng 
chục lần, thậm chí có ngành dịch vụ 
chênh lệch đến 50 – 70 lần. Ngoài ra, 
một số chính sách khác có thể được thể 
hiện trong lương nhưng vẫn bao cấp 
như đất ở, nhà ở, xăng xe Vì vậy, 
tiền lương chưa tạo ra động lực đủ ... uốc tế Tây Ban Nha 
và Đại sứ quán Ai Len tại Việt Nam. 
Sau khi Viện Khoa học Lao động và 
Xã hội, chuyên gia tư vấn quốc tế trình 
bày kết quả nghiên cứu, Hội thảo đã 
thống nhất một số nội dung sau: (1) Đánh 
Th«ng tin vÒ c¸c Héi nghÞ, Héi th¶o 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 47
giá cao kết quả nghiên cứu và các đề xuất 
định hướng cho việc xây dựng phương án 
chuyển đổi Bảo hiểm xã hội Nông dân 
sang Bảo hiểm xã hội tự nguyện; (2) 
Viện tiếp tục hỗ trợ Nghệ An trong việc 
xin chủ trương, xây dựng và thực hiện 
phương án chuyển đổi. 
4 Trong khuôn khổ hợp tác nghiên 
cứu giữa Viện Khoa học Lao động và Xã 
hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ngân 
hàng thế giới, Viện đã chủ trì tổ chức 
Hội thảo “Giáo dục đại học và Kỹ năng 
cho phát triển” vào ngày 12/12/2007. 
Hội thảo đã xem xét những thay đổi của 
thị trường lao động Việt Nam và khuyến 
nghị sự phát triển của hệ thống giáo dục 
đại học đáp ứng yêu cầu phát triển kinh 
tế và hội nhập. Đại diện của nhiều tổ 
chức trong nước và quốc tế đã tham dự 
hội thảo. 
5. Trong khuôn khổ hợp tác nghiên 
cứu giữa Viện Khoa học Lao động và 
Xã hội và ILO, Viện đã tổ chức Hội 
thảo Dự báo các xu hướng thị trường 
lao động ở Việt Nam đến năm 2020 
vào ngày 14/12/2007. Đại diện các Vụ, 
Ban có liên quan của Bộ LĐTBXH, các 
nhà nghiên cứu, các giảng viên đại học 
đến từ các viện, trung tâm nghiên cứu 
và các trường đại học đã tham dự Hội 
thảo. Hội thảo tập trung vào 2 nội dung 
: (1) Xu hướng và dự báo cho các chỉ số 
về kinh tế và thị trường lao động, bao 
gồm: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP 
bình quân đầu người, nhân khẩu học, 
cung lao đông, việc làm-thất nghiệp, 
năng suất lao động, tiền lương tiền 
công, thời giờ làm việc, đói nghèo, lao 
động di cư quốc tế, lao động trẻ em, 
đàm thoại xã hội, v.v; và (2) Nhận 
dạng những định hướng thay đổi chính 
của thị trường lao động và những trở 
ngại về mặt chính sách. 
6. Trong khuôn khổ xây dựng Đề 
án "Phát triển hệ thống an sinh xã hội 
của Việt Nam đến năm 2020" dự kiến 
sẽ trình Chính phủ vào cuối năm 2008, 
Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã 
tổ chức Hội thảo "An sinh xã hội - 
Kinh nghiệm quốc tế và định hướng 
cho Việt Nam" tại Hà Nội vào ngày 
20/11/2007. Hội thảo do Chương trình 
Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và 
AECI tài trợ. Tham dự Hội thảo, về 
phía Việt Nam có đại diện các nhà 
hoạch định chính sách và nghiên cứu 
khoa học của Bộ LĐTBXH và các cơ 
quan, tổ chức liên quan; về phía quốc tế 
có đại diện của UNDP và AECI. Đại 
biểu tham dự tại Hội thảo đã thảo luận 
về các bài học kinh nghiệm quốc tế về 
an sinh xã hội và kế hoạch, nội dung 
nghiên cứu/xây dựng Đề án Phát triển 
hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam 
đến năm 2020./. 
Tin ngoµi n­íc 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 48
Chuyển lao động bán thời gian thành lực lượng lao động chính 
và các hoạt động thành lập nghiệp đoàn của Công đoàn ở Nhật Bản 
Kazunari Honda 
Phó giáo sư khoa Kinh tế, Đại học tổng hợp Kokogankuin 
1. Giới thiệu: 
 Một trong những đặc điểm của lao 
động bán thời gian được nhận thấy 
trong thời gian gần đây ở Nhật Bản đó 
là lao động bán thời gian đang có sự 
chuyển dịch tình trạng của họ từ chỗ là 
lực lượng lao động tạm thời sang lực 
lượng lao động chính (sự chuyển đổi 
thành lực lượng lao động chính). Thay 
cho việc chỉ xem xét việc thành lập 
nghiệp đoàn cho lao động bán thời 
gian, bài viết này còn tập trung vào mối 
liên hệ của nó tới việc chuyển đổi của 
lao động bán thời gian sang lực lượng 
lao động chính. Cùng với sự chuyển đổi 
này, đòi hỏi công đoàn cần phải thành 
lập nghiệp đoàn cho lao động bán thời 
gian, tuy nhiên không nhất thiết phải có 
sự tiến triển tốt. Điều này không phải là 
công đoàn không có vai trò đáng kể đối 
với nhóm người này. Ngược lại, công 
đoàn có một vai trò quan trọng đối với 
lao động bán thời gian. Bài viết này 
đánh giá vai trò của công đoàn trong 
việc làm bán thời gian và phân loại 
những vấn đề liên quan tới công đoàn. 
2. Việc chuyển lao động bán thời 
gian sang lực lượng lao động chính 
và tổ chức Công đoàn. 
(1) Việc chuyển lao động bán thời 
gian sang lực lượng lao động chính: 
Sự chuyển lao động bán thời gian 
sang lực lượng lao động chính có thể 
chia thành 2 loại khác nhau: Chuyển 
đổi về số lượng và chuyển đổi về chất 
lượng. Trước hết, hãy xem xét sự 
chuyển đổi về mặt số lượng. Ở Nhật 
Bản, do số lượng người lao động bán 
thời gian ngày một tăng lên, thuật ngữ “ 
lao động bán thời gian” đã trở nên phổ 
biến. Thí dụ, sự tăng lên về số lượng 
lao động bán thời gian được nhận thấy 
rất rõ trong ngành bán buôn, bán lẻ và 
dịch vụ ăn uống, đây là những ngành 
chủ yếu sử dụng lao động bán thời gian 
số lao động này chiếm tới 46,8% tổng 
số lao động, và chiếm 28.9% tổng số 
giờ làm việc của người lao động6. Sự 
chuyển dịch này của lao động bán thời 
gian trên cơ sở vĩ mô chỉ nói lên việc 
mở rộng về mặt số lượng, trong khi sự 
dịch chuyển về số lượng sang lực lượng 
lao động chủ chốt đề cập tới không chỉ 
về gia tăng số lượng mà còn cả về chất 
lượng, một vấn đề quan trọng của lao 
động mà lao động bán thời gian mang 
lại. Với sự tăng lên về lao động bán 
thời gian tại nơi làm việc hoặc với sự 
giảm bớt số lao động thường xuyên, lao 
động bán thời gian đang đóng một vai 
trò quan trọng hơn trong các tổ chức 
kinh tế. Khi chủ yếu dựa vào lực lượng 
lao động không trọn giờ các tổ chức 
kinh tế không thể tồn tại nếu thiếu lực 
lượng này. Chính vì vậy, ngày nay lao 
6 Honda (2004). Thông tin về số lượng việc làm 
dựa vào “Điều tra tình trạng việc làm do Bộ Quản 
lý công, Các vấn đề nội bộ, Bưu chính và Viễn 
thông công bố, thông tin về số giờ làm việc dựa 
trên “Cuộc điều tra lao động hàng tháng” do Bộ y 
tế, Lao động và Phúc lợi công bố. Cả hai đều từ 
số liệu thống kê năm 2002 
Tin ngoµi n­íc 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 49
động bán thời gian có thể được coi như 
lực lượng lao động chính. Thí dụ, hệ 
thống nhà hàng ăn uống thường không 
thể khởi nghiệp nếu không có sự 
chuyển dịch lao động bán thời gian 
sang lực lượng lao động chính do họ 
cần nhiều hoặc nhiều hơn nữa số lao 
động làm việc thường xuyên so với lao 
động bán thời gian, nhưng hiện nay, họ 
chỉ có một hoặc hai lao động làm việc 
thường xuyên tại mỗi của hàng, số còn 
lại chủ yếu là lao động bán thời gian. 
Do vậy, lao động bán thời gian đang 
đóng vai trò ngày một quan trọng hơn 
tại nơi làm việc của họ. 
Những cơ sở làm ăn kinh doanh 
không chỉ đẩy mạnh việc chuyển lao 
động bán thời gian sang lực lượng lao 
động chính, việc chuyển lao động bán 
thời gian sang còn mang ý nghĩa cả về 
mặt chất lượng. Sự chuyển dịch về mặt 
số lượng sang lực lượng lao động chính 
có nghĩa là nhiệm vụ của những người 
lao động bán thời gian và khả năng của 
họ trở nên gần hơn với những lao động 
làm việc thường xuyên. Thí dụ, tại cửa 
hàng, siêu thị, lao động bán thời gian 
ngày nay phải đảm nhiệm cả việc bán 
hàng trong quầy thức ăn tươi sống nơi 
mà trước đây chỉ có lao động thường 
xuyên mới được đứng bán Một số lao 
động bán thời gian cũng đang đảm 
nhiệm những công việc của lao động 
thường xuyên. Những hiện tượng này 
thường được nhận dạng với thuật ngữ 
là “ lực lượng chủ chốt”, và vì vậy, “sự 
chuyển dịch sang lực lượng chủ chốt” 
đôi khi được sử dụng chỉ để cho thấy sự 
chuyển dịch về số lượng lao động bán 
thời gian sang lực lượng lao động 
chính. Như đã mô tả ở trên, tuy nhiên 
lực lượng lao động chủ chốt cũng ngụ ý 
là sự chuyển về mặt số lượng tại nơi 
làm việc và do vậy sự chuyển dịch về 
số lượng và chất lượng cần phải hoà 
nhập là một. 
(2) Phản ứng của Công đoàn đối 
với sự dịch chuyển lao động bán thời 
gian sang lực lượng lao động chính: 
Công đoàn cần phải có hành động 
đối với sự dịch chuyển lao động bán 
thời gian sang lực lượng lao động chủ 
chốt. Giả sử rằng, sự chuyển dịch lao 
động bán thời gian sang nguồn lao động 
chính đang diễn ra ở một chỗ làm việc 
nhất định. Một lần nữa, chúng ta sẽ 
phân biệt sự chuyển dịch về mặt số 
lượng và chất lượng của lao động bán 
thời gian sang lực lượng lao động 
chính. Hiệu quả của sự chuyển dịch sẽ 
không chỉ cảm thấy trong phạm vi lực 
lượng lao động đó mà sẽ còn tiếp tục 
theo nó mãi sau này. Công đoàn cũng 
sẽ chịu tác động, ảnh hưởng của quá 
trình này. 
Với việc đi tới một thoả thuận về 
một chế độ thời gian làm việc được 
thay đổi, ngoài sự kiểm soát hoặc làm 
quá thời gian (bao gồm cả làm việc vào 
ngày nghỉ) hoặc với việc chuyển đổi 
điều kiện lao động thông qua việc thay 
đổi trong các nguyên tắc làm việc hoặc 
thoả ước lao động tập thể, một câu hỏi 
sẽ nảy sinh như : liệu quyền lợi của lao 
động bán thời gian có được quan tâm 
hay không. Công đoàn sẽ không thể 
phớt lờ bất cứ một biểu hiện bất bình 
đẳng có thể nảy sinh tại nơi làm việc, 
mặc dù các hoạt động của công đoàn 
thường không bao trùm đối với lao 
động bán thời gian. 
Giíi thiÖu s¸ch míi 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 50
Chúng ta hãy cùng xét xem sự 
chuyển dịch về mặt chất lượng đã tiến 
bộ như thế nào. Lao động bán thời gian 
sẽ phải đảm đương những công việc 
quan trọng của lao động thường xuyên. 
Do những tiến bộ này tiếp tục diễn ra, 
lực lượng lao động bán thời gian sẽ có 
tiềm năng đảm nhiệm công việc ở một 
mức độ nào đó. Sẽ có vấn đề nảy sinh 
là công đoàn có thể duy trì năng lực 
thoả thuận đối với giới chủ như thế nào. 
Thí dụ, khi công đoàn quyết định tiến 
hành đình công, lao động bán thời gian 
sẽ trở thành lực lượng then chốt trong 
việc quyết định liệu có hay không việc 
công đoàn sẽ có thể thể hiện năng lực 
thoả thuận của mình đối với giới chủ 
bằng cách doạ giảm năng suất thông 
qua việc hạn chế cung lao động. 
Do vậy, sự chuyển đổi những lao 
động bán thời gian sang lực lượng lao 
động chính sẽ làm cho cách xử lý của 
công đoàn trở nên khác đi so với trước 
đây, khi mà những hoạt động của họ 
chủ yếu do những lao động thường 
xuyên tham gia. Một trong những đòi 
hỏi trong hành động chủ yếu đối với 
công đoàn đó là đưa lao động bán thời 
gian trở thành những thành viên của 
công đoàn hay nói cách khác là thành 
lập nghiệp đoàn cho họ. 
(Hoàng Anh Thư - Trích dịch từ 
“Japan Labor Review” Tập 4, Số 1 
năm 2007) 
 
Giíi thiÖu s¸ch míi 
I. Sách thống kê 
1. Niên giám thống kê Hà Nội 
năm 2006 – Cục Thống kê thành phố 
Hà Nội, năm 2007 . 
Cuốn sách này bao gồm số liệu 
chính thức các năm 2000, 2003, 2004, 
2005 và số liệu ước tính năm 2006. 
Từ 1/1/2004 đơn vị hành chính của 
Hà Nội có thêm 2 quận Long Biên và 
Hoàng Mai hai quận này được thành 
lập từ một số xã phường vừa tách ra 
của huyện Gia Lâm, Thanh Trì và quận 
Hai Bà Trưng. Hy vọng cuốn sách sẽ 
đáp ứng các yêu cầu nghiên cứu về tình 
hình kinh tế- xã hội của thủ đô Hà Nội. 
2. Kết quả điều tra toàn bộ doanh 
nghiệp 2000- 2005 thành phố Hà Nội 
– Tổng cục Thống kê - Cục Thống kê 
thành phố Hà Nội, năm 2006. 
Nhằm góp phần tổng kết, đánh giá 
một cách đày đủ, chính xác và kịp thời 
sự phát triển của các doanh nghiệp trên 
địa bàn trong thời gian qua, Cục Thống 
kê thành phố Hà Nội biên soạn và xuất 
bản cuốn sách “Kết quả điều tra toàn 
bộ doanh nghiệp 2000- 2005 thành 
phố Hà Nội “. Cuốn sách gồm 2 phần: 
Giíi thiÖu s¸ch míi 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 51
- Phân tích và đánh giá thực trạng 
hoạt động sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp; 
- Số liệu tổng hợp về tình hình 
hoạt động của các doanh nghiệp. 
Những nhận xét đánh giá và số liệu 
sử dụng trong cuốn sách này là kết quả 
các cuộc điều tra doanh nghiệp hàng 
năm, từ năm 2000 dến năm 2005 do 
ngành thống kê thực hiện. Phạm vi tổng 
hợp số liệu bao gồm toàn bộ doanh 
nghiệp hạch toán độc lập đã đi vào hoạt 
động sản xuất kinh doanh trước thời 
điểm điều tra (1/1 hàng năm); không 
bao gồm các tổng công ty hạch toán 
toàn ngành có địa chỉ trụ sở chính tại 
Hà Nội (Tổng công ty điện lực, Tập 
đoàn than và khoáng sản, Tổng công ty 
dầu khí). Cuốn sách là tài liệu cần 
thiết giúp cho các nhà nghiên cứu và 
hoạch định chính sách trong công tác 
chuyên môn. 
II.Sách tham khảo kinh tế – xã hội 
1. Những biến đổi kinh tế- xã hội 
của hộ gia đình – Viện Khoa học xã 
hội Việt Nam - NXB Khoa học xã hội - 
Hà Nội 2007 . 
 Cuốn sách nêu tóm tắt những nội 
dung chính của cuộc điều tra kinh tế- xã 
hội ở các vùng trong cả nước do Viện 
Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện. 
Bố cục cuốn sách gồm 5 chương: 
- Chương I: Thực trạng phát triển 
kinh tế- xã hội của các hộ gia đình nông 
thôn. 
- Chương II: Thực trạng phát triển 
kinh tế- xã hội của các hộ gia đình đô thị. 
- Chương III: Thực trạng phân tầng 
mức sống. 
- Chương IV: Tình hình thực hiện 
các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế- 
xã hội đối với đồng bào các dân tộc 
thiểu số. 
- Chương V: Ý kiến đánh giá của 
người dân về tình hình phát triển kinh 
tế- xã hội và hoạt động của các cơ quan 
công quyền. 
Cuốn sách là tư liệu tham khảo có 
giá trị cho những ai quan tâm tới các 
vấn đề trên. 
2. Kinh tế Việt Nam năm 2006 - 
Chất lượng tăng trưởng và hội nhập 
kinh tế quốc tế - Bộ Giáo dục và Đào 
tạo – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 
- Chủ biên GS. TS. Nguyễn Văn 
Thường, GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn – 
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. 
Bố cục của quyển sách gồm các phần: 
1- Khái quát tình hình phát triển 
kinh tế năm 2006, xác định những sự 
kiện kinh tế tiêu biểu của năm và đưa ra 
một số khuyến nghị về giải pháp phát 
triển kinh tế năm 2007. 
2- Phân tích đánh giá những khía 
cạnh cơ bản về chất lượng tăng trưởng 
kinh tế năm 2006 có tính đến một số 
năm trước đó và đưa ra một số khuyến 
nghị cải thiện chất lượng tăng trưởng 
kinh tế. 
3- Đánh giá những sự kiện lớn về 
hội nhập kinh tế của Việt Nam năm 
2006 và đưa ra một số khuyến nghị để 
tranh thủ những cơ hội và vượt qua 
những thách thức trong hội nhập kinh tế 
quốc tế. 
Giíi thiÖu s¸ch míi 
Hoạt động nghiên cứu khoa học-Số 14/Tháng 12-2007 52
Hy vọng cuốn sách sẽ đóng góp 
những nội dung cần thiết trong việc giải 
quyết những vấn đề liên quan và đặc 
biệt là vấn đề kinh tế của đất nước. 
 3. Bàn về Chiến lược Phát triển 
Kinh tế- xã hội của Việt Nam trong 
thời kỳ mới – Bộ Kế hoạch và Đầu tư - 
Hà Nội 2007. 
Cuốn sách là tập hợp những đề 
xuất, những ý kiến đóng góp, những ý 
tưởng của các vị nguyên là lãnh đạo 
cấp cao, các nhà quản lý kinh tế, các 
chuyên gia trong nước và quốc tế. Các 
bài viết này nhằm phục vụ công tác 
nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát 
triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2011- 
2020 của Việt Nam Bố cục cuốn sách 
gồm có 3 phần: 
Phần I: Những vấn đề chung 
Phần II: Một số nội dung quan 
trọng của chiến lược phát triển kinh tế- 
xã hội 2011- 2020. 
Phần III: Chiến lược phát triển của 
Việt Nam nhìn từ bên ngoài. 
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn 
đọc những cuốn sách trên. 

Phụ trách : Viện trưởng: TS. Doãn Mậu Diệp 
 Thành viên : TS. Nguyễn Quang Huề 
Ths. Lưu Quang Tuấn 
Ths. Nguyễn Thị Lan 
CN. Hoàng Anh Thư 
CN. Đỗ Lan Anh 
CN. Võ Xuân Hằng 
Địa chỉ : Số 2, Đinh Lễ, Hoàn Kiếm, Hà Nội 
Telephone : 84-4-8240601 
Fax : 84-4-8269733 
Email : ilssavn@hn.vnn.vn 

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_nghien_cuu_khoa_hoc_cua_vien_khoa_hoc_lao_dong_va.pdf