Đề mở và chấm bài tập làm văn theo đề mở ở cấp Tiểu học

Chưa có một định nghĩa rõ ràng về đề mở trong dạy học tập làm văn. Tuy nhiên, theo quan

niệm chung đề mở là đề cho phép học sinh khi làm bài có thể bày tỏ ý kiến của riêng mình về các

vấn đề cần bàn luận, giải thích, chứng minh do đề bài nêu ra, bày tỏ cách nhìn của riêng mình

trong việc lựa chọn đối tượng và cách thức miêu tả, kể chuyện về đối tượng đó. Trong phạm vi bài

này, chúng tôi chỉ tập trung bàn về đề mở trong dạy học tập làm văn ở cấp tiểu học. Dạy tập làm

văn theo hướng phát triển năng lực chính là chúng ta đang muốn hướng tới khuyến khích học sinh

bộc lộ sự suy nghĩ, cảm xúc riêng, cách nhìn, cách tả, cách kể của cá nhân các em trước một đề

bài. Có rất nhiều vấn đề đặt ra khi viết hướng dẫn và chấm bài theo hướng mở nhưng quan trọng

nhất khi chấm bài cần tôn trọng mọi cách nghĩ, cách cảm, cách tả, cách kể của bất kì học sinh.

pdf 8 trang thom 06/01/2024 680
Bạn đang xem tài liệu "Đề mở và chấm bài tập làm văn theo đề mở ở cấp Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề mở và chấm bài tập làm văn theo đề mở ở cấp Tiểu học

Đề mở và chấm bài tập làm văn theo đề mở ở cấp Tiểu học
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 57 
ĐỀ MỞ VÀ CHẤM BÀI TẬP LÀM VĂN THEO ĐỀ MỞ Ở CẤP TIỂU HỌC 
Open exam question and marking literature composition exercise based on open exam 
question in primary education 
 PGS. TS. Nguyễn Trí* 
TÓM TẮT 
Chưa có một định nghĩa rõ ràng về đề mở trong dạy học tập làm văn. Tuy nhiên, theo quan 
niệm chung đề mở là đề cho phép học sinh khi làm bài có thể bày tỏ ý kiến của riêng mình về các 
vấn đề cần bàn luận, giải thích, chứng minh do đề bài nêu ra, bày tỏ cách nhìn của riêng mình 
trong việc lựa chọn đối tượng và cách thức miêu tả, kể chuyện về đối tượng đó. Trong phạm vi bài 
này, chúng tôi chỉ tập trung bàn về đề mở trong dạy học tập làm văn ở cấp tiểu học. Dạy tập làm 
văn theo hướng phát triển năng lực chính là chúng ta đang muốn hướng tới khuyến khích học sinh 
bộc lộ sự suy nghĩ, cảm xúc riêng, cách nhìn, cách tả, cách kể của cá nhân các em trước một đề 
bài. Có rất nhiều vấn đề đặt ra khi viết hướng dẫn và chấm bài theo hướng mở nhưng quan trọng 
nhất khi chấm bài cần tôn trọng mọi cách nghĩ, cách cảm, cách tả, cách kể của bất kì học sinh. 
Từ khoá: Đề mở, chấm bài tập làm văn theo đề mở, học sinh tiểu học, bàn luận, giải 
thích, chứng minh. 
ABSTRACT 
There have not any clear definitions about open exam question in teaching literature 
composition. However, following general understanding, when taking exam, open exam question 
allows students to express their own ideas about issues which need to be discussed, explained, and 
demonstrated due to requirements of questions, and to express their own understandings in 
lelecting subjects and strategy of describing and narrating about these subjects. In the scope of this 
paper, we only focus on the issue of open exam question in teaching literature composition in 
primary education. Teaching literature composition based on competency means that we are 
expecting and encouraging students to expose their own understandings, thoughts, ways of 
describing, ways of evaluating in each exam topic. There are lots of concerns when proposing the 
method of marking literature composition based on open questions, but the most important aspect 
when marking is to respect all of thouthts, feelings, expressing and understandings of each student. 
Keywords: Open exam question, marking literature composition exercise based on open exam 
question, primaryon, students, evaluation, explanation, demonstration. 
1.Quan niệm về đề mở trong dạy học tập làm văn 
1.1. Đề mở là gì? 
Chưa có một định nghĩa rõ ràng về đề mở trong dạy học tập làm văn. Tuy nhiên, theo quan 
niệm chung đề mở là đề cho phép học sinh khi làm bài có thể bày tỏ ý kiến của riêng mình về các 
vấn đề cần bàn luận, giải thích, chứng minh do đề bài nêu ra, bày tỏ cách nhìn của riêng mình trong 
việc lựa chọn đối tượng và cách thức miêu tả, kể chuyện về đối tượng đó. 
* Trưởng Ban điều hành dự án phát triển giáo viên tiểu học - Bộ GD & ĐT 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 58 
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ tập trung bàn về đề mở trong dạy học tập làm văn ở cấp 
Tiểu học. Theo chương trình hiện hành, miêu tả và kể chuyện là hai loại văn chủ yếu trong dạy học 
tập làm văn. Vậy đề mở trong dạy học văn miêu tả và kể chuyện là đề như thế nào? 
Hãy xem xét một nhóm các đề bài sau xem đề bài nào cho người làm bài quyền tự do rộng rãi 
khi lựa chọn đối tượng hay hoàn cảnh miêu tả, đề bài nào trói buộc người làm bài phải hướng tới 
một đối tượng miêu tả đã được quy định trước? 
a. Em hãy tả một con lợn 
b. Nhà em nuôi một con lợn hay ăn chóng lớn. Hãy tả con lợn đó 
c. Em hãy tả một con lợn còi 
d. Em hãy tả một con lợn sề đang nuôi đàn con 
Trong bốn đề trên, đề cho phép người làm bài tự do lựa chọn con lợn để miêu tả lại là đề a. 
Khi làm đề bài này, một học sinh có thể tả một con lợn hay ăn chóng lớn, một con lợn còi, hay một 
con lợn sề đang nuôi con hay một con lợn có xoáy âm dương trong tranh làng Hồ Tóm lại học 
sinh có thể chọn bất kỳ một con lợn nào đó em thích để tả. 
Ngược lại ba đề b, c, d lại hạn định và bó buộc người làm bài phải lựa chọn một loại lợn cụ 
thể do đề bài quy định. Nếu học sinh làm đề bài b nhưng lại tả thành con lợn sề đang nuôi con thì 
lạc đề. Ngược lại nếu học sinh làm đề bài d lại tả con lợn còi cọc cũng mắc lỗi như trên. Xét kĩ, ta 
thấy ba đề b, c, d chỉ là các trường hợp được cụ thể hóa từ đề a. 
Vậy trong bốn đề trên, đề nào là đề mở? Phải chăng là đề a? 
Hãy xét thêm nhóm đề bài tả người sau: 
a. Hãy tả một nghệ sĩ mà em yêu thích? 
b. Hãy tả một nghệ sĩ hài mà em yêu thích? 
Trong hai đề trên, đề bài nào cho phép học sinh được quyền lựa chọn một cách rộng rãi người 
mà em sẽ tả. Rõ ràng, đó là đề a. Nghệ sĩ hài chỉ là một nhóm trong các nghệ sĩ nói chung. Do đó nó 
hạn định khá nhiều việc lựa chọn đối tượng miêu tả. 
Từ các quan sát trên có thể đi đến một kết luận: đề miêu tả càng ra khái quát về đối tượng 
miêu tả thì từng em học sinh sẽ có quyền tự do rộng rãi để lựa chọn đối tượng cụ thể trong nhóm 
đối tượng do đề bài quy định để miêu tả. Đề bài càng ra cụ thể, chi tiết thì càng tạo nên nhiều hạn 
định bó buộc học sinh khi làm bài miêu tả nếu các em muốn làm đúng yêu cầu của đề bài. Có thể 
nói đề bài mang tính khái quát cao có độ mở lớn hơn, rộng hơn đề bài đưa ra các hạn định về đối 
tượng miêu tả. Điều này trái với quan niệm nhiều người thường nêu ra: nên ra đề bài miêu tả một 
cách chi tiết, cụ thể về đối tượng miêu tả. 
Xét trên phương diện này, đa số các đề bài miêu tả trong sách Tiếng Việt lớp 3, 4, 5 là đề có 
độ mở rất rộng. 
Đối với đề kể chuyện cũng vậy. Hãy so sánh các đề kể chuyện dưới đây để chọn ra một đề có 
độ mở rộng nhất cho phép học sinh lựa chọn được câu chuyện thích hợp với đề bài và với vốn sống, 
vốn hiểu biết của mình. 
a. Kể lại câu chuyện một bạn nhỏ giúp đỡ một người đi đường. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 59 
b. Trên đường đi học về, em gặp một phụ nữ vừa bế con vừa mang nhiều đồ đạc. Em đã giúp 
cô ấy xách đồ đi một quãng đường. Hãy kể lại câu chuyện đó. 
Trong hai đề trên, đề a cho học sinh quyền tạo ra nhiều cốt truyện khác nhau để lựa chọn làm 
bài (ví dụ: em học sinh có thể kể chuyện một bạn nhỏ giúp đỡ một bà cụ mắt kém đi ngang qua 
đường phố nơi có nhiều xe cộ qua lại; kể chuyện một bạn nhỏ giúp đỡ một người tàn tật vừa từ trên 
xe, trên tàu xuống bến xe hay sân ga; một bạn nhỏ giúp một em bé bị lạc đường). Trong trường 
hợp này, đề b chỉ là một lựa chọn cụ thể trong nhiều lựa chọn có thể đặt ra từ đề a. Rõ ràng đề a có 
độ mở rộng hơn đề b vì nó cho phép người làm bài có thể tạo ra nhiều tình huống khác nhau khi xây 
dựng câu chuyện để kể. 
Có người cho rằng đề b sẽ tạo cho học sinh điều kiện làm bài dễ hơn đề a. Đây lại là một vấn 
đề khác sẽ đề cập tới trong mục sau liền ngay dưới đây. Còn trong mục này, chúng ta chỉ bàn tới 
vấn đề: Đề bài nào có độ mở rộng hơn, tạo quyền cho học sinh khi làm bài có thể lựa chọn một cách 
tự do hơn đối tượng miêu tả hay cốt chuyện để kể. 
1.2. Từ đề mở chung của cả lớp đến đề bài riêng của từng học sinh 
Như phần trên đã phân tích, từ một đề bài chung giáo viên ra cho cả lớp, ở các đề mở mỗi em 
lại có thể làm bài theo ý muốn của mình, do mình lựa chọn và quyết định. Cùng tả con lợn, có em tả 
con lợn sề đang nuôi con, có em tả con lợn hay ăn chóng lớn, có em tả con lợn lai, có em tả con lợn 
trong tranh Đông Hồ, có em tả con lợn trong một bức ảnh Đối với đề kể chuyện một bạn nhỏ 
giúp đỡ một người đi đường cũng thế. Ở phần trên đã kể sơ sơ bốn năm cốt chuyện tùy từng em có 
thể chọn để kể khi làm bài 
Làm thế nào để mỗi học sinh lại có một bài tả hay kể khác nhau dựa trên một đề bài cô giáo 
hay thầy giáo ra chung cho cả lớp? Câu trả lời là: Mỗi học sinh cần thực hiện quá trình cá thể hóa 
đề bài chung của lớp thành đề bài của riêng mình. Khâu cá thể hóa đề bài này hiện nay nhà trường 
chưa đề cập đến tức chưa dạy cho học sinh. Ở các bài làm tả hay kể hấp dẫn, ít nhiều có tính độc 
đáo thì các em học sinh khi làm bài đã tự phát thực hiện quá trình cá thể hóa đề bài bài tập làm văn. 
Khi chấm các bài đó, thầy cô giáo khen bài tả, kể tốt, cho điểm cao là mặc nhiên thầy cô giáo đã 
khẳng định kết quả tích cực của con đường cá thể hóa đề bài. 
Cá thể hóa đề bài tập làm văn là quá trình mỗi em học sinh, từ đề bài chung của cả lớp tự đặt 
ra các hạn định cho đối tượng miêu tả hay cho cốt truyện các em định kể dựa trên sự trải nghiệm 
bản thân, vốn hiểu biết cuộc sống của bản thân và phù hợp với yêu cầu của đề bài. Kết quả của quá 
trình cá thể hóa đề bài là mỗi học sinh có một đề bài riêng để làm bài. Khi ấy không bài làm nào 
giống bài làm nào. Mỗi bài sẽ có những đặc sắc riêng vì đối tượng miêu tả hoặc cốt truyện đã được 
hạn định nên chúng sẽ khác hẳn nhau không còn tình trạng chép văn mẫu. Sau khi đọc xong bài làm 
của mỗi học sinh có thể thực hiện một quá trình ngược là từ đó rút ra đề bài riêng của các em phù 
hợp với bài làm. 
Sau khi cá thể hóa đề bài, mỗi học sinh sẽ có một đề bài hạn định cho riêng mình. Lúc ấy các em 
sẽ có sự thuận lợi như nhau khi làm bài do các đề hạn định đưa ra các gợi ý chi tiết về đối tượng miêu 
tả, về cốt truyện. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 60 
Tóm lại, nếu thực hiện thêm một bước nữa trong quá trình dạy tập làm văn: bước cá thể hóa 
đề bài, chuyển từ đề bài chung của cả lớp thành đề bài riêng của từng em, chúng ta sẽ khai thác 
được ưu thế của đề mở (tạo sự tự do lựa chọn đối tượng miêu tả hay cốt truyện), hướng dẫn học 
sinh các thao tác để xác định được đối tượng miêu tả, câu chuyện định kể, khuyến khích sự sáng tạo 
(tuy còn nhỏ bé) của học sinh, chống bệnh sao chép văn mẫu. 
Đối với đề bài tập làm văn của các cấp trung học, chúng ta cũng sẽ thấy cần khai thác cách dạy 
các đề mở theo hướng cá thể hóa nêu trên. Chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn trong một bài viết khác. 
2. Chấm bài tập làm văn theo đề mở ở cấp tiểu học 
2.1. Xây dựng thái độ tôn trọng sự suy nghĩ, cảm xúc riêng, cách nhìn, cách tả, cách kể 
của cá nhân học sinh khi làm bài tập làm văn 
Dạy tập làm văn theo hướng phát triển năng lực chính là chúng ta đang muốn hướng tới 
khuyến khích học sinh bộc lộ sự suy nghĩ, cảm xúc riêng, cách nhìn, cách tả, cách kể của cá nhân 
các em trước một đề bài. 
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã viết một truyện ngắn hay vừa có ý nghĩa xã hội, vừa có ý 
nghĩa sư phạm đó là: Truyện ngắn “Bài văn bị điểm không” (Tiếng Việt 4, tập 1, trang 21). Nội 
dung câu chuyện là cuộc đối thoại giữa hai bố con về một bài văn bất thường. Khi làm đề bài “tả bố 
em đang đọc báo”, một em học sinh đã nộp một tờ giấy làm văn trắng, không có bài làm và về cô 
giáo đã cho điểm 0 (không) to tướng. Trong khi đó có học sinh bố em đó không đọc báo nhưng rồi 
em bịa ra, cũng được điểm 6. Cô giáo giận em học sinh nộp giấy trắng có hỏi em “sao trò không 
chịu làm bài?”. Mãi em mới nói “thưa cô, em không có ba” vì ba em đã hi sinh ngoài chiến trường 
khi em mới sinh. Ra về một bạn hỏi em “Sao mày không tả ba của đứa khác”. Em chỉ cúi đầu khóc. 
Tác giả kết luận “chuyện về cậu học trò có bài văn bị điểm không đã để lại trong tôi một nỗi đau, 
nhưng cũng để lại một bài học về lòng trung thực.” Câu chuyện ngắn mà cảm động. Câu kết của 
chuyện thật sâu sắc, đầy tính triết lý về nhân sinh, về đạo đức của con người. Nhưng tôi muốn nhìn ở 
đây một bài học khác, bài học về phương diện sư phạm: Thái độ và cách xử lý của người giáo viên 
trước những bài làm khác thường của học sinh; phương pháp ra đề và chấm bài tập làm văn của người 
giáo viên. 
Cô giáo trong câu chuyện trên đã trượt theo nếp làm việc thông thường khi nhận được bài văn 
là một tờ giấy trắng. Bài văn lạc đề, thậm chí có thể đó còn là một sự phản kháng ngầm của em học 
sinh nên em không chịu làm bài. Theo vết trượt ấy, cô cho điểm không là bình thường. Đó là cách 
nghĩ và cách làm của các giáo viên thiếu sự tận tâm, thiếu việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới bài 
văn nêu trên trước khi đưa ra cách đánh giá cuối cùng với bài văn. Về phương diện sư phạm, cô 
giáo đã không lường trước các tình huống gia đình của mấy chục em trong lớp. Khi ra đề bài tả bố 
em đang đọc báo thực ra không phải em nào cũng có ba và không phải ba em nào cũng đọc báo. Đó 
là bài học của việc ra đề tập làm văn sao cho khái quát để mọi học sinh có thể tìm cho mình một 
con đường cá thể hóa đề bài từ đó làm được bài. Đó còn là bài học của việc chấm bài tập làm văn. 
Khi chấm bài cần tôn trọng mọi cách nghĩ, cách cảm, cách tả, cách kể của bất kì học sinh nào trước 
đề bài thầy cô ra. Nếu có được tinh thần ấy, chắc chắn cô giáo trong câu chuyện không vội vàng hạ 
điểm 0 cho bài làm của học sinh nộp giấy trắng. Cô sẽ tìm hiểu nguyên nhân vì sao em không làm 
bài. Hiểu rõ hoàn cảnh của em học sinh (bố em đã hi sinh) thì cách xử trí đúng nhất của cô giáo là: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 61 
một mặt cô giáo khen em có thái độ trung thực khi làm bài, mặt khác yêu cầu em làm bù một bài 
văn theo đề bài khác phù hợp với hoàn cảnh sống, với hiểu biết của em và phù hợp yêu cầu của 
chương trình. 
Tóm lại, để khắc phục các khuynh hướng lệch lạc trong chấm bài hiện nay (như yêu cầu học 
sinh làm theo mẫu thầy cô cho hoặc có trong các sách tham khảo, làm bài dập khuôn theo hướng 
nghĩ, hướng cảm, hướng tả, hưởng kể của thầy cô) cần xây dựng một thái độ tôn trọng trong sự 
suy nghĩ, cảm xúc riêng, cách nhìn, cách tả, cách kể của từng cá nhân học sinh, khi làm bài miêu tả, 
kể chuyện. Để nếp nghĩ, cách làm nêu trên trở thành phổ biến, trở thành nếp nghĩ, cách làm thường 
trực của mỗi giáo viên chắc chắn chúng ta phải kiên trì vận động, cổ vũ trong thời gian dài. 
2.2. Học tập cách xây dựng hướng dẫn chấm bài, cách chấm bài thực sự tôn trọng cách 
nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách tả, cách kể của từng cá nhân học sinh. 
Nếu đề bài có loại đề bài mở, có loại đề bài hạn định thì việc xây dựng hướng dẫn chấm bài 
văn cũng vậy. Có hướng dẫn mở và hướng dẫn theo một hướng. Hai loại hướng dẫn chấm bài sẽ 
hướng tới hai cách chấm bài khác nhau, định ra hai cách học và làm bài khác nhau. 
Hướng dẫn chấm bài là văn bản quy định cách chấm từng phần của bài văn. Ở mỗi phần của 
bài văn, hướng dẫn chấm ghi rõ cách chấm về nội dung và về cách hành văn cũng như cách sắp xếp 
ý. Sự khác nhau giữa hướng dẫn chấm mở và hướng dẫn chấm một hướng là các hướng dẫn chấm 
mở thường nêu ra nhiều hướng triển khai nội dung của từng phần, yêu cầu người chấm chấp nhận 
nhiều cách cảm, cách nghĩ, cách tả, cách kể khác nhau miễn là các cách đó được trình bày một cách 
logic, hướng tới một chủ đích phù hợp với đề bài đã được học sinh cá thể hóa. Trong khi đó hướng 
dẫn chấm theo một hướng thường nêu ra các yêu cầu cảm, nghĩ, kể, tả theo định kiến của người ra 
đề, người soạn hướng dẫn chấm. Hướng dẫn chấm theo một hướng có hình thức một dàn bài duy 
nhất cho đề bài tập làm văn kèm theo mức điểm từng phần. Vì thế nó rất cứng nhắc. Tất cả bài văn 
của học sinh có nội dung khác với cách cảm, nghĩ, kể, tả đã ghi trong hướng dẫn chấm đều bị trừ 
điểm thậm chí không được chấm điểm kèm theo những nhận xét hết sức nghiêm khắc như lạc đề, xa 
đề, hay sai 
Để có kỹ năng ra đề mở, nhất là kỹ năng viết hướng dẫn và chấm bài theo hướng mở cần có 
sự luyện tập, rèn luyện cho giáo viên. 
Có rất nhiều vấn đề đặt ra khi viết hướng dẫn và chấm bài theo hướng mở. Có vấn đề ở mức 
tổng quát đối với một bài làm văn nhằm giải đáp câu hỏi tả cái gì? Kể theo cốt truyện nào? Trở lại 
với bài văn làm theo đề “tả bố em đang đọc báo” đã được nhà văn Nguyễn Quang Sáng nêu ra trong 
truyện ngắn Bài văn bị điểm không. Vấn đề tổng quát ở đây là nếu ba em không có thói quen đọc 
báo thì tả ai đọc báo, nếu em không còn ba thì tả ai đọc báo? 
Xin nêu một ví dụ khác. Một học sinh làm đề bài “tả một người bạn thân của em” đã hỏi ông 
của em “ông ơi, cháu tả con thú bông Chó Chảo có được không?”. Chó Chảo là tên con thú bông 
em được thưởng khuyến mại trong lần cùng mẹ đi siêu thị. Em rất thích chú chó này và đặt tên là 
Chó Chảo. Với em, đây là người bạn thân, khi ăn, khi ngủ em đều đặt cạnh. Đi chơi đâu em cũng 
mang theo. Em coi nó là người bạn thân nên mới hỏi ông như vậy. Nếu là ông em bé, chúng ta sẽ 
trả lời em thế nào? Khuyên em cứ làm theo mong muốn, suy nghĩ của em, một sự suy nghĩ rất hồn 
nhiên, ngây thơ về khái niệm “người bạn thân của em”. Điều ấy sẽ là sự cổ vũ rất lớn với em. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 62 
Nhưng nếu cô giáo không nghĩ như thế thì sao? Có thể lại thêm một điểm không to tướng vì cô cho 
rằng không ai lại coi một chú thú bông là một người bạn thân. Lúc ấy sẽ là một cú sốc lớn với em 
học sinh hồn nhiên, ngây thơ kia. Còn khuyên em hãy từ bỏ ý nghĩ hồn nhiên đó, đi tìm một 
“người” bạn thân để tả thì sẽ trả lời sao nếu em hỏi “ông ơi, vì sao chú Chó Chảo của cháu lại 
không là bạn thân của cháu?” 
Ở các cấp độ thấp hơn, ở cấp độ đoạn (đoạn mở bài, đoạn kết bài, các đoạn ý trong thân bài); 
cấp độ chi tiết miêu tả (chi tiết tả ngoại hình, chi tiết tả tính tình hay hoạt động ) của người bạn 
thân cũng có thể có những cách tả, cách kể, cách cảm, cách nghĩ khác với quan niệm của cô giáo thì 
sao? Cách giải quyết đúng đắn nhất là mỗi giáo viên hãy mở lòng để chấp nhận mọi cách kể, cách tả 
khác với suy nghĩ, quan niệm của mình sau khi cân nhắc đến tính hợp lý, hợp lẽ tự nhiên, hợp với 
yêu cầu của đề bài ở mức độ rộng mở nhất. Chỉ có trên tinh thần ấy, khi chấm bài, người giáo viên 
mới có được sự đánh giá độ lượng, công tâm với mọi cách làm bài của học sinh, mới đánh giá đúng 
năng lực thật của các em và tạo sự khuyến khích các em giữ được sự tự tin, hồn nhiên, ngây thơ, có 
cách cảm, cách nghĩ, cách kể, cách tả của riêng mình 
HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI THEO HƯỚNG MỞ 
Đề bài: Viết bài văn kể lại các hoạt động của em trong một kì nghỉ 
(ví dụ: nghỉ hè, nghỉ Tết,) 
Tổng điểm: 20 điểm 
Dự kiến điểm cho các phần như sau: 
Mức điểm Nội dung 
đánh giá 3 điểm 2 điểm 1 điểm 0 điểm 
Nội dung mở bài 
(Tối đa: 2 điểm) 
 Giới thiệu về kì nghỉ 
một cách tự nhiên, có 
sáng tạo 
Nêu (sơ lược) 
cảm nghĩ về kì 
nghỉ 
Không làm 
hoặc làm sai 
yêu cầu 
Ý 1 
Kể được khá sinh 
động cụ, thể một 
số hoạt động, 
trong kì nghỉ; lời 
kể sinh động, có 
cảm xúc 
Kể được một số hoạt 
động trong kì nghỉ 
song chưa thật sinh 
động, cụ thể; lời kể ít 
nhiều có cảm xúc 
Kể sơ lược một 
hoặc một số 
hoạt động, lời kể 
chưa có cảm 
xúc 
Không kể 
được trọn 
vẹn 1 hoạt 
động 
Ý 2 
Có giới thiệu và 
kể về một vài 
người cùng tham 
gia hoặc có liên 
quan các hoạt 
động trong kì 
nghỉ; lời kể có 
bộc tình cảm 
Có giới thiệu và kể 
sơ lược về một vài 
người cùng tham gia 
hoặc có liên quan các 
hoạt động trong kì 
nghỉ; lời kể ít nhiều 
có cảm xúc 
Có nhắc đến một 
cách sơ sài về 
những người 
cùng tham gia 
hoặc có liên 
quan, chưa bộc 
lộ cảm xúc trong 
lời kể về họ 
Không nhắc 
đến ai cùng 
tham gia 
hoặc có liên 
quan 
Nội dung thân bài 
(Tối đa: 9 điểm) 
Ý 3 
Nêu được nhận 
xét và bày tỏ suy 
nghĩ riêng về hoạt 
động, về con 
người, cảnh vật 
Nêu được nhận xét 
sơ lược về hoạt động, 
về con người, cảnh 
vật 
Chỉ nêu nhận 
xét sơ lược về 
hoạt động 
Không nêu 
nhận xét 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 63 
Nội dung kết bài 
(Tối đa: 2 điểm) 
 Nêu được cảm nghĩ 
riêng về kì nghỉ, có 
sự liên kết với mở 
bài, thân bài 
Nêu (sơ lược) 
cảm nghĩ về kì 
nghỉ 
Không làm 
hoặc làm sai 
yêu cầu 
Kĩ năng dùng từ 
(Tối đa: 1 điểm) 
Dùng từ đúng 
ngữ cảnh 
Dùng một 
số từ sai 
ngữ cảnh 
Kĩ năng viết câu 
(Tối đa: 1 điểm) 
Viết câu đúng Viết sai ngữ 
pháp một số 
câu 
Kĩ năng viết đoạn 
(Tối đa: 1 điểm) 
Có kĩ năng viết 
đoạn văn, sắp 
xếp ý trong 
đoạn theo 
trình tự hợp lí 
Ý lộn xộn 
Chính tả 
(Tối đa: 2 điểm) 
 Không sai quá 3 lỗi 
chính tả 
Sai quá 5 lỗi 
chính tả 
Hơn 5 lỗi 
Sáng tạo 
(Tối đa: 2 điểm) 
 Sáng tạo trong 
dùng từ, viết câu; 
sắp xếp ý mạch lạc) 
Nêu rõ mức độ 
yêu cầu 
Nt 
Tổng điểm 20 
Đề bài: Viết bài văn tả một người bạn mà em yêu quý. 
Tổng điểm: 20 điểm 
Dự kiến điểm cho các phần như sau: 
Mức điểm Nội dung 
đánh giá 3 điểm 2 điểm 1 điểm 0 điểm 
Nội dung mở bài 
(Tối đa: 2 điểm) 
Giới thiệu về 
người được tả 
một cách tự 
nhiên, có sáng tạo 
Giới thiệu sơ lược 
về người được tả 
Không làm 
hoặc làm sai 
yêu cầu 
Ý 1 
Chọn tả được 3 – 
4 chi tiết đặc sắc 
về ngoại hình 
người được tả; 
biết phát triển ý 
thành câu văn có 
hình ảnh, cảm 
xúc. 
Chọn tả được 2 – 
3 chi tiết đặc sắc 
về ngoại hình 
người được tả; 
biết phát triển ý 
thành câu văn 
bước đầu có hình 
ảnh, cảm xúc. 
Chọn tả được 2 – 3 
chi tiết đặc sắc về 
ngoại hình người 
được tả; song câu 
văn chưa có hình 
ảnh, cảm xúc.. 
Không tả 
được chi tiết 
nào về ngoại 
hình người 
được tả, hoặc 
viết chưa 
thành câu. 
Nội dung 
thân bài 
(Tối đa: 9 
điểm) 
Ý 2 
Chọn tả được 3 – 
4 chi tiết về hoạt 
động hoặc tính 
tình người được 
tả; biết phát triển 
ý thành câu văn 
có hình ảnh, cảm 
xúc. 
Chọn tả được 2 – 
3 chi tiết về hoạt 
động hoặc tính 
tình người được 
tả; biết phát triển 
ý thành câu văn 
bước đầu có hình 
ảnh, cảm xúc. 
Chọn tả được 2 – 3 
chi tiết về hoạt 
động hoặc tính tình 
người được tả; 
song câu văn chưa 
có hình ảnh, cảm 
xúc.. 
Không tả 
được chi tiết 
nào về hoạt 
động hoặc 
tính tình người 
được tả, hoặc 
viết chưa 
thành câu. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 64 
Ý 3 
Có ít nhất 3 câu 
văn nêu nhận xét 
và bày tỏ cảm 
xúc, suy nghĩ 
riêng về người 
được tả. 
Có 2 câu văn nêu 
nhận xét và bày tỏ 
cảm xúc, suy nghĩ 
riêng về người 
được tả. 
Có 1 câu văn nêu 
nhận xét và bày tỏ 
cảm xúc, suy nghĩ 
riêng về người 
được tả. 
Không có 
câu văn nêu 
nhận xét và 
bày tỏ cảm 
xúc, suy nghĩ 
riêng về 
người được 
tả. 
Nội dung kết bài 
(Tối đa: 2 điểm) 
Kết bài nêu được 
tình cảm, suy 
nghĩ về người 
được tả 
Kết bài nêu sơ lược 
tình cảm, suy nghĩ 
về người được tả 
Không làm 
hoặc làm sai 
yêu cầu 
Kĩ năng dùng từ 
(Tối đa: 1 điểm) 
Dùng từ đúng ngữ 
cảnh 
Dùng một số 
từ sai ngữ 
cảnh 
Kĩ năng viết câu 
(Tối đa: 1 điểm) Viết câu đúng 
Viết sai ngữ 
pháp một số 
câu 
Kĩ năng viết đoạn 
(Tối đa: 1 điểm) 
Có kỹ năng viết 
đoạn văn, sắp xếp ý 
trong đoạn theo 
trình tự hợp lí 
Ý lộn xộn 
Chính tả 
(Tối đa: 2 điểm) 
Không sai quá 3 
lỗi chính tả 
Sai quá 5 lỗi chính 
tả 
Hơn 5 lỗi 
Sáng tạo 
(Tối đa: 2 điểm) 
Sáng tạo trong 
dùng từ, viết câu; 
sắp xếp ý mạch 
lạc) 
Nêu rõ mức độ yêu 
cầu 
Nt 
Tổng điểm 20 

File đính kèm:

  • pdfde_mo_va_cham_bai_tap_lam_van_theo_de_mo_o_cap_tieu_hoc.pdf