Các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của các

công ty niêm yết tại Việt Nam. Dựa trên số liệu của 176 công ty niêm yết tại Việt Nam trong

giai đoạn 2013-2016, kết quả phân tích hồi quy với dữ liệu nhóm cho thấy độ trễ kiểm toán

của các công ty niêm yết tại Việt Nam được quyết định bởi bốn nhân tố: chất lượng công ty

kiểm toán, mức độ sinh lời của doanh nghiệp, lượng hàng trong kho và các khoản phải thu,

và lượng kế toán dồn tích của doanh nghiệp. Cụ thể, mức độ sinh lời của công ty có tác động

nghịch biến lên độ trễ của báo cáo tài chính kiểm toán. Khối lượng hàng hóa trong kho và

các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán

của doanh nghiệp. Trái với kết quả nghiên cứu ở các nước khác, tại Việt Nam, các doanh

nghiệp được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán chất lượng cao thường có độ trễ báo cáo

dài hơn; và các công ty có tổng lượng kế toán dồn tích lớn lại có độ trễ kiểm toán thấp hơn

các công ty khác. Kiểm định tăng cường bằng mô hình hồi quy dữ liệu bảng với hiệu ứng

ngẫu nhiên cũng xác nhận lại kết quả này.

pdf 17 trang kimcuc 15840
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

Các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 8, Số 1S, 2018 3–19 
 3 
CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐỘ TRỄ KIỂM TOÁN CỦA CÁC 
DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM 
Nguyễn Thanh Hồng Âna*, Hoàng Mai Phươnga 
aKhoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam 
*Tác giả liên hệ: Email: annth@dlu.edu.vn 
Lịch sử bài báo 
Nhận ngày 24 tháng 10 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 09 tháng 11 năm 2017 | Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 11 năm 2017 
Tóm tắt 
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của các 
công ty niêm yết tại Việt Nam. Dựa trên số liệu của 176 công ty niêm yết tại Việt Nam trong 
giai đoạn 2013-2016, kết quả phân tích hồi quy với dữ liệu nhóm cho thấy độ trễ kiểm toán 
của các công ty niêm yết tại Việt Nam được quyết định bởi bốn nhân tố: chất lượng công ty 
kiểm toán, mức độ sinh lời của doanh nghiệp, lượng hàng trong kho và các khoản phải thu, 
và lượng kế toán dồn tích của doanh nghiệp. Cụ thể, mức độ sinh lời của công ty có tác động 
nghịch biến lên độ trễ của báo cáo tài chính kiểm toán. Khối lượng hàng hóa trong kho và 
các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán 
của doanh nghiệp. Trái với kết quả nghiên cứu ở các nước khác, tại Việt Nam, các doanh 
nghiệp được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán chất lượng cao thường có độ trễ báo cáo 
dài hơn; và các công ty có tổng lượng kế toán dồn tích lớn lại có độ trễ kiểm toán thấp hơn 
các công ty khác. Kiểm định tăng cường bằng mô hình hồi quy dữ liệu bảng với hiệu ứng 
ngẫu nhiên cũng xác nhận lại kết quả này. 
Từ khóa: Báo cáo tài chính kiểm toán; Doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam; Độ trễ kiểm 
toán; Nhân tố quyết định; Tính kịp thời. 
Mã số định danh bài báo:  
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt 
Bản quyền © 2018 (Các) Tác giả. 
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC-ND 4.0 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ] 
 4 
DETERMINANTS OF AUDIT REPORT LAG 
OF VIETNAMESE LISTED FIRMS 
Nguyen Thanh Hong Ana*, Hoang Mai Phuonga 
aThe Faculty of Economics and Business Administration, Dalat University, Lamdong, Vietnam 
*Corresponding author: Email: annth@dlu.edu.vn 
Article history 
Received: October 24th, 2017 
Received in revised form: November 09th, 2017 | Accepted: November 15th, 2017 
Abstract 
The purpose of this research is to identify the determinants of audit report lag of the 
Vietnamese listed firms. Using a dataset of 176 firms listed on the Hochiminh Stock Exchange 
from 2013 to 2016, the ordinary least square pooled data model regression results show that 
the audit report lag of the Vietnamese firms is determined by four factors: The quality of the 
auditors, the profitability of the firms, the amount of inventory and account receivable, and 
the total amount of accrual of the listed firms. In particular, the firms’ profitability negatively 
affects the firms’ audit report lag, while the amount of inventory and account receivable 
positively affects the firms’ audit report lag. Contrary to previous literature, the Vietnamese 
listed firms which are audited by high-quality auditors usually have longer audit report lag, 
while the firms with large amount of total accruals generally have shorter audit report lag. 
A robust test is performed, where the regression equation is re-estimated using panel data 
estimation techniques with random effect model, and the results confirm the above 
conclusions. 
Keywords: Audit report lag; Audited financial reports; Determinants; Timeliness; 
Vietnamese listed companies. 
Article identifier:  
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article 
Copyright © 2018 The author(s). 
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC-ND 4.0 
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương 
 5 
1. GIỚI THIỆU 
Để đảm bảo tính hữu dụng đối với các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý, báo cáo 
tài chính cần phải đảm bảo được tính kịp thời (IASB, 2008; Quốc hội, 2015; Vuko & 
Cular, 2014). Các báo cáo tài chính kiểm toán của một công ty sẽ không giúp ích gì cho 
những người sử dụng nếu chúng được công bố quá chậm. Do tầm quan trọng của tính kịp 
thời của báo cáo tài chính, những nhân tố nào tác động đến sự kịp thời của báo cáo tài 
chính kiểm toán của các công ty niêm yết đã thu hút được sự chú ý và nghiên cứu của rất 
nhiều học giả. 
Dù đã được nghiên cứu ở nhiều nơi trên thế giới, chủ đề về sự kịp thời của báo 
cáo tài chính kiểm toán của các công ty niêm yết vẫn chưa được nghiên cứu tại Việt Nam, 
theo khảo cứu của tác giả cho đến thời điểm thực hiện nghiên cứu này. Do vậy, tiếp nối 
các nghiên cứu đi trước ở các nước, mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố 
tác động đến độ trễ của việc công bố báo cáo tài chính kiểm toán của các công ty niêm 
yết tại Việt Nam. Với bối cảnh nghiên cứu là các doanh nghiệp niêm yết tại một nền kinh 
tế mới nổi và đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nghiên cứu này được kỳ vọng 
sẽ bổ sung những phát hiện khác biệt vào kho tàng nghiên cứu về tính kịp thời của báo 
cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên khắp thế giới. Đồng thời, kết quả nghiên 
cứu cũng đưa ra một số hàm ý quan trọng về những nhân tố tác động đến hành vi báo cáo 
tài chính của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, có thể được dùng làm thông tin đầu 
vào cho quá trình soạn thảo chính sách của các cơ quan quản lý thị trường cũng như quá 
trình ra quyết định của nhà đầu tư. 
Dựa trên số liệu của 176 công ty niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2013-
2016, nhóm tác giả phát hiện ra rằng độ trễ kiểm toán của các công ty niêm yết được 
quyết định bởi bốn nhân tố, bao gồm: Chất lượng công ty kiểm toán, tình hình tài chính 
của doanh nghiệp, lượng hàng trong kho và các khoản phải thu, và lượng kế toán dồn tích 
của doanh nghiệp. Cụ thể, kết quả phân tích của nghiên cứu này chỉ ra rằng mức độ sinh 
lời của công ty (ROA) có tác động nghịch biến lên độ trễ của báo cáo tài chính kiểm toán, 
trong khi khối lượng hàng hóa trong kho và các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp 
có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp. Trái với kết quả nghiên cứu 
ở các nước khác, các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam được kiểm toán bởi các công 
ty kiểm toán chất lượng (nằm trong nhóm Big 4) lại thường có độ trễ báo cáo dài hơn các 
doanh nghiệp được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán ít chất lượng hơn. Tương tự, 
trong khi các nghiên cứu ở các nước khác cho thấy tổng các khoản kế toán dồn tích thường 
có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán, chứng cứ từ các doanh nghiệp niêm yết tại 
Việt Nam cho thấy các công ty có tổng lượng kế toán dồn tích lớn thì lại có độ trễ công 
bố báo cáo kiểm toán thấp hơn các công ty khác. 
Phần nội dung của nghiên cứu sẽ được trình bày theo cấu trúc như sau. Phần tổng 
quan các nghiên cứu đi trước và các giả thuyết sẽ được trình bày ở Mục 2. Mục 3 sẽ trình 
bày phương pháp nghiên cứu. Mục 4 mô tả về phương pháp thu thập và thông tin mô tả 
về tập dữ liệu và trình bày kết quả phân tích dữ liệu và thảo luận. Mục 5 sẽ tổng hợp kết 
quả và kết luận về toàn bộ nghiên cứu này. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ] 
 6 
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT 
2.1. Khuôn khổ pháp lý và khái niệm 
Cũng như tại các nước khác, việc công bố báo cáo kiểm toán của các công ty đại 
chúng tại Việt Nam là bắt buộc và được quy định trong nhiều văn bản luật pháp khác 
nhau, như Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2010 và Luật Doanh nghiệp 2014. Cụ thể, 
trong Thông tư 155-2015-TTBTC, Bộ Tài chính có hướng dẫn rằng các công ty đại chúng 
bắt buộc phải công bố báo cáo tài chính kiểm toán hằng năm trong thời hạn không quá 90 
ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính (Bộ Tài chính, 2015). 
Để thực hiện yêu cầu công bố thông tin này, các công ty niêm yết thường thuê 
một công ty kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính trước khi nộp. Quá trình từ 
khi kết thúc năm tài chính đến khi công ty nộp báo cáo tài chính đã kiểm toán thường kéo 
dài một thời gian và được giới học thuật gọi là độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán. Như 
vậy, độ trễ báo cáo kiểm toán được phân chia ra thành hai khoảng thời gian thành phần: 
(1) Khoảng thời gian các công ty kiểm toán hoàn tất báo cáo kiểm toán (mà sau đây được 
gọi là độ trễ kiểm toán); và (2) Khoảng thời gian sau khi công ty nhận được báo cáo tài 
chính kiểm toán đến khi họ quyết định công bố. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi định nghĩa độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán 
bằng khoảng thời gian sau khi kết thúc năm tài chính đến ngày công ty kiểm toán chính 
thức hoàn thành việc kiểm toán, tức là tương đương với độ trễ kiểm toán. Cách định nghĩa 
của chúng tôi cũng thống nhất với đa số các nghiên cứu khác thực hiện về chủ đề này. 
2.2. Lược sử nghiên cứu và phát triển giả thuyết 
Các nghiên cứu về các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm 
yết đã được thực hiện từ lâu ở các nền kinh tế phát triển, như Mỹ (Ashton, Willingham & 
Elliott, 1987; Bamber, Bamber, & Schoderbek, 1993; Garsombke, 1981), Canada 
(Ashton, Graul, & Newton, 1989), Australia (Davies & Whittred, 1980; Dyer & McHugh, 
1975), New Zealand (Carslaw & Kaplan, 1991; Courtis, 1976; Gilling, 1977), Hong Kong 
(Jaggi & Tsui, 1999; Ng & Tai, 1994). Gần đây, một loạt các nghiên cứu khác cũng được 
thực hiện ở các nền kinh tế đang phát triển, ví dụ như Bahrain (Abdulla, 1996), Zimbabwe 
(Owusu-Ansah, 2000), Malaysia (Che-Ahmad & Abidin, 2009), Hy Lạp (Owusu-Ansah 
& Leventis, 2006), Thổ Nhĩ Kỳ (Türel, 2010), và Croatia (Vuko & Cular, 2014). Dựa trên 
các nghiên cứu trước ở các nước khác, chúng tôi tóm lược các kết quả chính và đưa ra 
các giả thuyết nghiên cứu như sau cho các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam như sau. 
2.2.1. Quy mô công ty được kiểm toán 
Quy mô của công ty được kiểm toán, thường được đo bằng tổng tài sản, là nhân 
tố được xem xét trong hầu hết các nghiên cứu trước đây về độ trễ kiểm toán (Abdulla, 
1996; Ashton & ctg., 1989; Carslaw & Kaplan, 1991; Courtis, 1976; Davies & Whittred, 
1980; Gilling, 1977; Vuko & Cular, 2014). Các nghiên cứu trước đều chỉ ra rằng có mối 
quan hệ nghịch biến giữa quy mô công ty được kiểm toán và độ trễ kiểm toán. Lý do cho 
việc này có thể là do các công ty lớn thường chịu áp lực phải công bố thông tin nhanh 
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương 
 7 
chóng và họ cũng có khả năng gây áp lực lên các công ty kiểm toán, buộc các công ty 
kiểm toán phải hoàn thành công việc của mình càng nhanh càng tốt (Bamber & ctg., 1993; 
Carslaw & Kaplan, 1991). Dựa trên lý thuyết và các kết quả nghiên cứu thực chứng từ 
các quốc gia khác, tác giả kỳ vọng mối quan hệ này cũng tồn tại trong bối cảnh Việt Nam. 
Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết như sau: 
 H1: Tại Việt Nam, công ty niêm yết có quy mô lớn hơn thường có độ trễ 
kiểm toán ngắn hơn, các yếu tố khác như nhau. 
2.2.2. Chất lượng của công ty kiểm toán 
Theo lý luận thông thường, các công ty kiểm toán quy mô hoạt động lớn thường 
được coi là có nhiều nguồn lực chất lượng và có công nghệ kiểm toán cao hơn các công 
ty kiểm toán nhỏ. Do vậy, một số các nghiên cứu trong lĩnh vực này thường dùng quy mô 
của công ty kiểm toán để làm đại diện cho chất lượng của dịch vụ kiểm toán mà công ty 
kiểm toán đó thực hiện. Trong giới kiểm toán, người ta thường coi 4 công ty kiểm toán 
lớn nhất (Big 4) là các công ty có chất lượng dịch vụ cao hơn các công ty kiểm toán còn 
lại. Theo đó, các công ty kiểm toán trong nhóm Big 4 được kỳ vọng là sẽ thực hiện công 
tác kiểm toán nhanh hơn (Vuko & Cular, 2014). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu về nhân 
tố này là chưa thống nhất. Trong khi Gilling (1977) phát hiện ra mối quan hệ đồng biến 
giữa độ trễ kiểm toán và quy mô của công ty kiểm toán. Garsombke (1981); Carslaw và 
Kaplan (1991); Davies và Whittred (1980); và Vuko và Cular (2014) lại không phát hiện 
ra mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa hai biến này. Ngược lại, một số nhà nghiên 
cứu lại phát hiện có mối quan hệ nghịch biến giữa quy mô công ty kiểm toán và độ trễ 
kiểm toán (Ashton, Willingham, & Elliott, 1987; Owusu-Ansah & Leventis, 2006). Trong 
bối cảnh các công ty niêm yết tại Việt Nam, tác giả đưa ra giả thuyết như sau: 
 H2: Tại Việt Nam, công ty kiểm toán có chất lượng cao hơn thường thực hiện 
công việc kiểm toán nhanh hơn, tức là có mối quan hệ nghịch biến giữa chất 
lượng công ty kiểm toán và độ trễ kiểm toán, các yếu tố khác như nhau. 
2.2.3. Chất lượng giám sát nội bộ của công ty được kiểm toán 
Nhiệm vụ của ban kiểm soát là giám sát quy trình báo cáo tài chính, hệ thống kiểm 
soát nội bộ, quy trình kiểm soát rủi ro, và quy trình kiểm toán nội bộ cũng như kiểm toán 
độc lập (Vuko & Cular, 2014). Các nhà nghiên cứu lập luận rằng các công ty có ban kiểm 
soát nội bộ thường có hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ được tổ chức quy củ và hoạt 
động mạnh hơn, theo đó làm giảm khả năng công ty mắc sai sót trong quá trình báo cáo 
tài chính và có thể phối hợp tốt hơn với công ty kiểm toán độc lập. Điều này giúp giảm 
lượng công việc và mức độ khó khăn khi thực hiện công việc của công ty kiểm toán độc 
lập, từ đó giúp giảm độ trễ kiểm toán (Carslaw & Kaplan, 1991). Dựa trên lập luận trên 
và các kết quả nghiên cứu tại các nước khác, tác giả kỳ vọng mối quan hệ này cũng tồn 
tại trong bối cảnh Việt Nam. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết như sau: 
 H3: Tại Việt Nam, các công ty niêm yết có ủy ban kiểm soát nội bộ thường 
có độ trễ kiểm toán ngắn hơn các công ty không có ủy ban kiểm soát nội bộ, 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ] 
 8 
các yếu tố khác như nhau. 
2.2.4. Tình hình tài chính của công ty niêm yết 
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng có mối quan hệ nghịch biến giữa độ trễ 
kiểm toán và tình hình tài chính của công ty (Ashton & ctg., 1987; Bamber & ctg., 1993; 
Carslaw & Kaplan, 1991; Vuko & Cular, 2014). Bamber và ctg. (1993) cho rằng các công 
ty có tình hình tài chính tiêu cực thường có rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính cao hơn. 
Với các công ty này, công ty kiểm toán thường phải thực hiện công việc của mình kỹ 
càng hơn, do đó kéo dài thời gian hoàn thành báo cáo kiểm toán. Ngược lại, những công 
ty có tình hình tài chính tích cực thường coi đây là “tin tốt” và có động cơ hợp tác và thúc 
đẩy việc hoàn thành báo cáo kiểm toán càng sớm càng tốt (Ashton & ctg., 1989; Carslaw 
& Kaplan, 1991). Dựa trên lý thuyết và chứng cứ từ các nghiên cứu từ các nước khác, tác 
giả kỳ vọng mối quan hệ giữa tình hình tài chính với độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán 
của doanh nghiệp cũng tồn tại trong bối cảnh Việt Nam. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết 
như sau: 
 H4: Tại Việt Nam, các công ty niêm yết có tình hình tài chính tích cực thường 
công bố báo cáo tài chính nhanh hơn các công ty có tình hình tài chính tiêu 
cực, các yếu tố khác như nhau. 
2.2.5. Dạng ý kiến kiểm toán được ban hành 
Nhiều nhà nghiên cứu (Ashton & ctg., 1987; Carslaw & Kaplan, 1991; Davies & 
Whittred, 1980; Vuko & Cular, 2014) cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa loại ý kiến 
kiểm toán (ý kiến thông qua hay ý kiến ngoại trừ) và độ trễ kiểm toán và phát hiện ra mối 
quan hệ nghịch biến giữa hai yếu tố này. Ý  ... , tức là chất lượng công ty kiểm toán càng cao và sự hiện diện của ban kiểm 
soát nội bộ sẽ giúp giảm được độ trễ kiểm toán. Tuy nhiên, chứng cứ thực tế lại cho thấy 
rằng chất lượng công ty kiểm toán càng cao và sự hiện diện của ban kiểm soát nội bộ làm 
cho độ trễ kiểm toán gia tăng. Với các biến còn lại, chiều hướng tác động lên độ trễ kiểm 
toán là giống như kỳ vọng. Cụ thể, các công ty có tình hình tài chính tốt hơn thường có 
độ trễ kiểm toán ngắn hơn; Các công ty có ý kiến kiểm toán là ngoại trừ thường có độ trễ 
kiểm toán lâu hơn; Các công ty có nhiều công ty con hơn thường có độ trể kiểm toán lâu 
hơn; và Các công ty có tổng hàng hóa trong kho và các khoản phải thu nhiều hơn thường 
có độ trễ kế toán dài hơn. Do chiều hướng của mối quan hệ không hoàn toàn thống nhất 
với kỳ vọng, ta cần phải xem xét thêm các phép kiểm định tăng cường trước khi đi đến 
kết luận cuối cùng. Như vậy, kết quả hồi quy mô hình (1) cho ta thấy các biến Chất lượng 
kiểm toán (BIG4); Tình hình tài chính (ROA); Sự hiện diện của Ban kiểm soát (AC); 
Dạng ý kiến kiểm toán (AUDITOP); Số lượng công ty con (SUBS); và Lượng hàng tồn 
kho và khoản phải thu (INVREC) có tác động lên độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp 
niêm yết tại Việt Nam. Các nhân tố Quy mô (LNSIZE); Tỉ lệ đòn bẩy (LEV); và Tổng 
khoản kế toán dồn tích (TA) dường như không tác động đến độ trễ kiểm toán tại Việt 
Nam. Các kết quả trên đều hoặc chưa nhất quán với lý thuyết hoặc chưa nhất quán qua 
thời gian. Do vậy, ta cần phải thực hiện kiểm định tăng cường trước khi đi đến kết luận 
cuối cùng. 
4.3. Kiểm định tăng cường 
Để thực hiện kiểm định tăng cường, tác giả ước lượng lại các mối quan hệ trên, 
dùng mô hình dạng bảng. Trước tiên, tác giả ước lượng mô hình (2) theo ba cách: Hồi 
quy hiệu ứng cố định, hồi quy hiệu ứng ngẫu nhiên, và hồi quy dữ liệu nhóm. Kết quả sau 
khi thực hiện hai phép kiểm định lựa chọn định dạng mô hình Hausman (1978) và LM 
(Breusch & Pagan, 1980) cho ta kết quả là mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên là mô hình hiệu 
quả nhất và được chọn làm mô hình để kiểm định độ vững của các kết luận trong Mục 
4.2. Kết quả ước lượng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên được trình bày trong Bảng 5. 
Kết quả kiểm định tăng cường cho thấy hệ số hồi quy của các biến LNSIZE, AC, 
AUDITOPI, SUBS, và LEV đều không có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là Quy 
mô của công ty; Việc tồn tại của ban kiểm soát; Dạng ý kiến kiểm toán; Số lượng công 
ty con; và Tỉ lệ đòn bẩy tài chính không có ảnh hưởng đến độ trễ kiểm toán của các công 
ty niêm yết tại Việt Nam. Kết quả này không giống với kỳ vọng thông thường và chứng 
cứ từ một số nghiên cứu đi trước, như Bamber và ctg. (1993); Vuko và Cular (2014); 
Ashton và ctg. (1987); và Carslaw và Kaplan (1991). 
Bảng 4. Kết quả hồi quy theo năm và cho cả giai đoạn 2013-2016 
Biến Dấu kỳ 
vọng 
2013 2014 2015 2016 2013-2016 
Hệ số hồi quy 
(1) 
t Hệ số hồi quy 
(2) 
t Hệ số hồi quy 
(3) 
t Hệ số hồi quy 
(4) 
t Hệ số hồi quy 
(5) 
t 
Giao điểm 3.7815*** 4.56 4.8451*** 7.23 4.5151*** 8.82 3.8150*** 7.49 4.1878*** 12.04 
LNSIZE + 0.02132 0.50 -0.02971 -0.91 -0.01315 -0.52 0.02033 0.82 0.00110 0.06 
BIG4 - 0.03796 0.76 0.09507** 2.22 0.05926 1.18 0.05187 1.22 0.0738*** 3.12 
AC - 0.03897 0.65 -0.04649 -0.70 0.08852 1.48 0.14319** 2.21 0.06403* 1.89 
ROA - -0.00502*** -4.47 -0.00086 0.85 -0.00648** -2.1 -0.01166** -2.42 -0.00567*** -4.88 
AUDITOPI + 0.08800 1.62 0.10582 0.85 0.27007* 1.88 0.14683*** 3.50 0.1257214** 2.46 
LEV + 0.00008 0.05 0.00127 0.74 -0.00070 -0.51 -0.00125 -1.10 -0.00008 -0.11 
SUBS + 0.00417 0.84 0.00852** 2.20 0.00376 1.55 0.00203 0.76 0.00397** 2.31 
INVREC + 0.00167 1.40 0.00162 1.21 0.00135 1.38 0.00153* 1.70 0.00145** 2.45 
TA + -0.23605 -0.44 -1.242** -2.37 -0.04051 -0.15 0.23141 1.60 -0.16236 -0.76 
N 176 176 176 176 704 
R2 0.1662 0.1536 0.1626 0.2169 0.1180 
F 4.04 2.05 2.48 4.37 7.53 
Chỉ số p 0.0001 0.0368 0.0110 0.0000 0.0000 
Ghi chú: Bảng trên trình bày kết quả ước lượng cho mô hình sau đây: 
itit
LEV
it
TA
it
INVREC
it
SUBS
it
AUDITOPI
it
ROA
it
AC
it
BIG
it
LNSIZE
it
LNARL  
10987654
4
321
*, **, ***: thể hiện mức ý nghĩa thống kê tương ứng là 10%, 5%, và 1%. 
1
5
N
g
u
y
ễn
 T
h
an
h
 H
ồ
n
g
 Â
n
 v
à 
H
o
àn
g
 M
ai
 P
h
ư
ơ
n
g
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ] 
 16 
Kết quả phân tích trình bày trong Bảng 5 cũng cho thấy có bốn nhân tố có tác 
động lên độ trễ kiểm toán tại Việt Nam, là: Chất lượng của công ty kiểm toán (BIG4); 
Tình hình tài chính của doanh nghiệp (ROA); Khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải 
thu (INVREC); và Tổng các khoản kế toán dồn tích (TA). Trong bốn nhân tố tác động 
đến độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, có hai nhân tố, là Tình 
hình tài chính của doanh nghiệp; và Lượng hàng trong kho và các khoản phải thu, có tác 
động lên độ trễ kiểm toán theo hướng trùng hợp với các nghiên cứu ở các nước khác, như 
Ashton và ctg. (1987); Carslaw và Kaplan (1991); Bamber và ctg. (1993); và Vuko và 
Cular (2014). Theo đó, trong bối cảnh Việt Nam, tình hình tài chính doanh nghiệp càng 
khả quan thì độ trễ kiểm toán càng ngắn; và khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải 
thu càng lớn thì độ trễ kiểm toán càng dài. 
Bảng 5. Kết quả ước lượng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên 
Biến Dấu kỳ vọng Hệ số hồi quy Chỉ số z Chỉ số p Kết luận 
Giao điểm 4.297449*** 12.49 0.000 
LNSIZE + -0.004502 -0.26 0.792 
BIG4 - 0.0906582** 2.46 0.014 + 
AC - 0.0400313 1.23 0.220 
ROA - -0.0054327*** -5.76 0.000 - 
AUDITOPI + 0.0678027 1.41 0.158 
SUBS + 0.0040778 1.49 0.135 
INVREC + 0.0017119** 2.53 0.011 + 
TA + -0.1870384* -1.84 0.065 - 
LEV + 0.0002131 0.26 0.793 
N 704 
R2 0.1139 
Wald Chi-sq 68.50 
Chỉ số p 0.0000 
Ghi chú: Bảng trên trình bày kết quả ước lượng cho mô hình sau đây: 
itiit10it9
it8it7it6it5it4it3it21it
uLEVTA
INVRECSUBSAUDITOPIROAAC4BIGLNSIZELNARL
  
         
Kiểm định Hausman (1978) và kiểm định Breusch-Pagan (1980) được thực hiện và cho ra chỉ số kiểm 
định tương ứng là chỉ số Wald Chi-square = 6.53 (p-value=0.6858) và Wald Chi-square = 163.53 (p-
value=0.0000). Kết quả kiểm định cho thấy định dạng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên là định dạng hiệu quả 
nhất và được chọn làm mô hình nghiên cứu chính cho nghiên cứu này. *, **, ***: Thể hiện mức ý nghĩa 
thống kê tương ứng là 10%, 5%, và 1%; +, - : Tương ứng có nghĩa là có mối quan hệ đồng biến, và có 
mối quan hệ nghịch biến với ý nghĩa thống kê từ 5% trở lên. 
Tuy nhiên, hai nhân tố là Chất lượng của công ty kiểm toán và Lượng kế toán dồn 
tích lại có tác động đến độ trễ kiểm toán không giống như quan sát được ở các nước khác. 
Cụ thể, tại Việt Nam, các công ty kiểm toán được coi là có chất lượng cao (nằm trong 
nhóm Big 4) lại có độ trễ kiểm toán lâu hơn các công ty kiểm toán khác, trong khi các 
 Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương 
 17 
nghiên cứu ở các nước phát triển lại không tìm ra chứng cứ về mối quan hệ này (Carslaw 
& Kaplan, 1991; Davies & Whittred, 1980; Garsombke, 1981; Vuko & Cular, 2014), hoặc 
cho thấy điều ngược lại (Gilling, 1977). Tương tự, trong khi chứng cứ ở các nước khác 
cho thấy các công ty có tổng các khoản kế toán dồn tích càng lớn thì càng mất nhiều thời 
gian để thực hiện kiểm toán, chứng cứ tại Việt Nam lại cho thấy các công ty có các khoản 
kế toán dồn tích cao thì lại được kiểm toán nhanh hơn. 
Hai khác biệt giữa hành vi báo cáo tài chính của doanh nghiệp Việt Nam và doanh 
nghiệp ở các nước khác được phỏng đoán là do có sự khác biệt trong công nghệ kiểm 
toán giữa các công ty kiểm toán. Các công ty kiểm toán có chất lượng cao và có uy tín 
thường có quy trình kiểm toán khắt khe để bảo vệ uy tín của mình, trong khi các công ty 
kiểm toán nhỏ có thể có quy trình kiểm toán đơn giản hơn, do nguồn lực bị hạn chế. Có 
thể vì lý do này mà thời gian kiểm toán của các công ty thuộc nhóm Big 4 tại Việt Nam 
lại lâu hơn các công ty kiểm toán nhỏ khác tại địa phương. Ngoài ra, các khoản kế toán 
dồn tích được coi là khu vực có thể xảy ra các hoạt động quản trị số liệu lợi nhuận. Do 
vậy, các công ty kiểm toán thường phải dành nhiều thời gian hơn để kiểm tra các công ty 
có khoản kế toán dồn tích cao để tránh trường hợp số liệu báo cáo bị điều chỉnh (dù hợp 
pháp) và không phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Việc quan 
sát được mối quan hệ ngược lại tại thị trường Việt Nam có thể là một tín hiệu không tốt 
về chất lượng hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Những điểm khác biệt này có thể mang 
hàm ý rất quan trọng đối với các nhà làm chính sách và các nhà đầu tư tại Việt Nam. Để 
có câu trả lời chính xác, hai nhân tố khác biệt này cần được nghiên cứu kỹ hơn và với số 
liệu chi tiết hơn trong một nghiên cứu riêng biệt. 
5. KẾT LUẬN 
Dựa trên kết quả phân tích, nghiên cứu này chỉ ra bốn nhân tố có tác động lên độ 
trễ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, bao gồm: Chất lượng 
của công ty kiểm toán (BIG4); Tình hình tài chính của doanh nghiệp (ROA); Khối lượng 
hàng tồn kho và các khoản phải thu (INVREC); và Tổng các khoản kế toán dồn tích (TA). 
Trong bốn nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, 
có hai nhân tố, là Tình hình tài chính của doanh nghiệp và Lượng hàng trong kho và các 
khoản phải thu, có tác động lên độ trễ kiểm toán theo hướng trùng hợp với các nghiên 
cứu ở các nước khác. Theo đó, trong bối cảnh Việt Nam, tình hình tài chính doanh nghiệp 
càng khả quan thì độ trễ kiểm toán càng ngắn và khối lượng hàng tồn kho và các khoản 
phải thu càng lớn thì độ trễ kiểm toán càng dài. Tuy nhiên, hai nhân tố còn lại là Chất 
lượng của công ty kiểm toán và Lượng kế toán dồn tích lại có tác động đến độ trễ kiểm 
toán không giống như quan sát được ở các nước khác. Cụ thể, tại Việt Nam, các công ty 
kiểm toán được coi là có chất lượng cao (nằm trong nhóm Big 4) lại có độ trễ kiểm toán 
lâu hơn các công ty kiểm toán khác. Tương tự, chứng cứ ở các nước khác cho thấy doanh 
nghiệp có giao dịch kế toán dồn tích càng cao thường có độ trễ báo cáo tài chính kiểm 
toán càng dài. 
Dù đã đưa ra được một số kết quả nghiên cứu có ý nghĩa, đóng góp vào kho tàng 
nghiên cứu về chủ đề độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán nói chung, nghiên cứu này cũng 
không tránh khỏi một số hạn chế. Thứ nhất, nghiên cứu này thực hiện dựa trên một tập 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ] 
 18 
dữ liệu không lớn, với chỉ 176 công ty, được khảo sát trong 4 năm, từ 2013-2016. Các 
nghiên cứu tương lai có thể mở rộng nghiên cứu này bằng cách thu thập thêm dữ liệu từ 
nhiều công ty và trong một giai đoạn dài hơn để gia tăng sức mạnh của các phép kiểm 
định giả thuyết, từ đó làm tăng sự tin cậy của các kết luận. Thứ hai, mô hình nghiên cứu 
sử dụng trong nghiên cứu này chỉ giới hạn sử dụng một số biến hạn chế và khá thông 
dụng trong ngành. Các nghiên cứu trong tương lai có thể bổ sung vào mô hình các biến 
khác, ví dụ các biến về chất lượng hội đồng quản trị, để mở rộng phạm vi nghiên cứu và 
gia tăng khả năng giải thích của mô hình. Cuối cùng, nghiên cứu này chỉ giới hạn ở việc 
xác định các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt 
Nam mà không đưa ra các lý giải cho các kết quả. Các nghiên cứu tương lai có thể mở 
rộng nghiên cứu này bằng cách đưa ra các lý giải cho các kết quả phân tích trong nghiên 
cứu này, đặc biệt là cho hai nhân tố khác biệt được chỉ ra trong nghiên cứu này: giải thích 
lý do tại sao công ty kiểm toán chất lượng cao lại có thời gian kiểm toán lâu hơn và các 
công ty có khoản kế toán dồn tích cao lại được kiểm toán nhanh hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Abdulla, J. (1996). The timeliness of Bahraini annual reports. Advances in International 
Accounting, 9, 73-88. 
Ashton, R., Willingham, J., & Elliott, R. (1987). An empirical analysis of audit delay. 
Journal of Accounting Research, 25, 275-292. 
Ashton, R. H., Graul, P. R., & Newton, J. D. (1989). Audit delay and the timeliness of 
corporate reporting. Contemporary Accounting Research, 5, 657-673. 
Bamber, E. M., Bamber, L. S., & Schoderbek, M. P. (1993). Audit structure and other 
determinants of audit report lag: An empirical analysis. Auditing: A Journal of 
Practice & Theory, 12(1), 1-23. 
Bộ Tài chính. (2015). Thông tư 155/2015/TT-BTC: Hướng dẫn công bố thông tin trên 
Thị trường chứng khoán. Hà Nội, Việt Nam: Bộ Tài chính. Được truy lục từ 
D=30653 
Breusch, T., & Pagan, A. (1980). The Lagrange Multiplier Test and its application to 
model specification in econometrics. Review of Economic Studies, 47, 239-254. 
Carslaw, C. A. P. N., & Kaplan, S. E. (1991). An examination of audit delay: Further 
evidence from New Zealand. Accounting & Business Research, 22, 21-32. 
Che-Ahmad, A., & Abidin, S. (2009). Audit delay of listed companies: A case of 
Malaysia. International Business Research, 1, 32-39. 
Courtis, J. (1976). Relationships between timeliness in corporate reporting and corporate 
attributes. Accounting and Business Research, 6, 46-56. 
Davies, B., & Whittred, G. (1980). The association between selected corporate attributes 
and timeliness in corporate reporting: Further analysis. ABACUS, 16, 48-60. 
Dyer, J. C., & McHugh, A. J. (1975). The timeless of the Australian annual report. 
Journal of Accounting Research, 13, 204-219. 
 Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương 
 19 
Garsombke, H. (1981). The timeliness of corporate financial disclosure. In J. K. Courtis 
(Ed.), Communications via annual reports, AFM Exploratory Series No. 11 (pp. 
204-218). Armidale, Australia: University of New England. 
Gilling, D. (1977). Timeliness in corporate reporting: Some further comment. Accounting 
and Business Research, 7, 34-36. 
Hausman, J. A. (1978). Specification tests in econometrics. Econometrica, 46, 1251-
1272. 
IASB. (2008). Exposure draft of an improved conceptual framework for financial 
reporting. London, England: IASB. 
Jaggi, B., & Tsui, J. (1999). Determinants of audit report lag: Further evidence from Hong 
Kong. Accounting and Business Research, 30(1), 17-28. 
Ng, P. P. H., & Tai, B. Y. K. (1994). An empirical examination of the determinants of 
audit delay in Hong Kong. British Accounting Review, 26(1), 43-59. 
Owusu-Ansah, S. (2000). Timeliness of corporate financial reporting in emerging capital 
markets: Empirical evidence from the Zimbabwe Stock Exchange. Accounting 
and Business Research, 30, 241-254. 
Owusu-Ansah, S., & Leventis, S. (2006). Timeliness of corporate annual financial 
reporting in Greece. European Accounting Review, 15, 273-287. 
Quốc hội. (2015). Luật Kế toán số 88/2015/QH13. Hà Nội, Việt Nam: Văn phòng Quốc 
hội. 
Türel, A. (2010). Timeliness of financial reporting in emerging capital markets: Evidence 
from Turkey. Istanbul University Journal of the School of Business 
Administration, 39(2), 227-240. 
Vuko, T., & Cular, M. (2014). Finding determinants of audit delay by pooled OLS 
regression analysis. Croatian Operational Research Review, 15, 81-91. 
Wooldridge, J. M. (2002). Introductory Econometrics: A modern approach. 
Massachusetts, USA: Cengage Learning Press. 

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_quyet_dinh_do_tre_kiem_toan_cua_cac_doanh_nghiep.pdf