Yếu tố tác động và hướng giải quyết cho khả năng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin điện tử

Nguồn tài nguyên điện tử đã và đang

trở thành nguồn thông tin chủ lực của các

trường đại học trên thế giới. Đối với những

người tham gia công tác nghiên cứu, giảng

dạy và học tập tại các nước tiên tiến, nguồn

thông tin này trở nên không thể thiếu cho

công việc hàng ngày của họ. Chỉ cần xem

qua website thư viện của các trường đại

học châu Âu, Bắc Mỹ, ASEAN, chúng ta có

thể thấy nhiều trường có tới hàng chục cơ

sở dữ liệu trực tuyến, được tổ chức tra cứu

và cung cấp truy cập theo nhiều cách thức

khác nhau (theo chủ đề, nhan đề ấn phẩm,

tác giả ).

Tài nguyên điện tử của các trường đại

học hiện nay bao gồm rất nhiều nguồn.

Trước tiên là những cơ sở dữ liệu trực

tuyến được chọn mua từ các tập đoàn xuất

bản và các nhà cung cấp danh tiếng, như:

Elsevier, Springer, Taylor & Francis. Bên

cạnh đó là những nguồn không tốn phí

thuê bao, ví dụ như nguồn học liệu mở của

tổ chức INASP1, của các tập đoàn xuất bản

Springer2, Wiley3. Ngoài ra, còn có nguồn

tài liệu nội sinh truy cập mở của nhiều tổ

chức, trường đại học, như là Monash4.

pdf 8 trang kimcuc 5180
Bạn đang xem tài liệu "Yếu tố tác động và hướng giải quyết cho khả năng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin điện tử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Yếu tố tác động và hướng giải quyết cho khả năng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin điện tử

Yếu tố tác động và hướng giải quyết cho khả năng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin điện tử
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016 | 3
Đặt vấn đề 
Nguồn tài nguyên điện tử đã và đang 
trở thành nguồn thông tin chủ lực của các 
trường đại học trên thế giới. Đối với những 
người tham gia công tác nghiên cứu, giảng 
dạy và học tập tại các nước tiên tiến, nguồn 
thông tin này trở nên không thể thiếu cho 
công việc hàng ngày của họ. Chỉ cần xem 
qua website thư viện của các trường đại 
học châu Âu, Bắc Mỹ, ASEAN, chúng ta có 
thể thấy nhiều trường có tới hàng chục cơ 
sở dữ liệu trực tuyến, được tổ chức tra cứu 
và cung cấp truy cập theo nhiều cách thức 
khác nhau (theo chủ đề, nhan đề ấn phẩm, 
tác giả). 
Tài nguyên điện tử của các trường đại 
học hiện nay bao gồm rất nhiều nguồn. 
Trước tiên là những cơ sở dữ liệu trực 
tuyến được chọn mua từ các tập đoàn xuất 
bản và các nhà cung cấp danh tiếng, như: 
Elsevier, Springer, Taylor & Francis. Bên 
cạnh đó là những nguồn không tốn phí 
thuê bao, ví dụ như nguồn học liệu mở của 
tổ chức INASP1, của các tập đoàn xuất bản 
Springer2, Wiley3. Ngoài ra, còn có nguồn 
tài liệu nội sinh truy cập mở của nhiều tổ 
chức, trường đại học, như là Monash4. Để 
duy trì và phát triển hiệu quả nguồn tài 
nguyên điện tử, đòi hỏi sự đầu tư lớn và 
ổn định cho nhiều hạng mục bao gồm: chi 
Tóm tắt: Xác định và phân tích các yếu tố tác động đến nguồn tài nguyên thông tin 
điện tử: sự hiểu biết của cán bộ quản lý, tầm nhìn của nhà trường, năng lực của đội ngũ 
cán bộ thư viện, hạ tầng công nghệ, nội dung thông tin, hướng dẫn và hỗ trợ sử dụng. 
Đưa ra các hướng giải pháp gia tăng khả năng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên 
thông tin điện tử.
Từ khoá: Tài nguyên thông tin điện tử; yếu tố tác động; hiệu quả sử dụng.
Factors aff ecting and solutions for effi cient use of e-resources
Abstract: Th e paper identifi es and analyses factors aff ecting e-resources usage: 
knowledge of managers, vision of the university, capacity of librarians, information 
technology infrastructure, information content, guidelines and instructions. It also 
introduces some solutions for better e-resources usage.
Keywords: E-resources; factors aff ecting; effi cient use.
YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT CHO 
KHẢ NĂNG SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN TÀI NGUYÊN
 THÔNG TIN ĐIỆN TỬ
(1) 
(2) 
(3) 
(4) 
TS Nguyễn Hồng Sinh
Trường Đại học KHXH&NV- ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh
4 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
phí cho thuê bao quyền truy cập, cho hạ 
tầng kỹ thuật và trang thiết bị, cho nhân sự 
quản lý và vận hành. Việc các thư viện đại 
học tiên tiến đã không ngừng duy trì mức 
đầu tư lớn, ổn định, thường xuyên cho tài 
nguyên điện tử chứng tỏ giá trị mang lại 
của nguồn thông tin này đối với giới học 
thuật và người học là vô cùng to lớn.
Tại Việt Nam, điều kiện tiếp cận cũng 
như thói quen sử dụng thông tin của người 
dùng tin chưa tương đồng với các nước tiên 
tiến. Tuy nhiên, khuynh hướng hội nhập, 
chủ trương tiến gần hơn đến các chuẩn 
quốc tế trong giáo dục và nghiên cứu, cùng 
với nhu cầu sử dụng tài liệu điện tử đang 
hình thành và phát triển trong cộng đồng 
đại học đã khiến cho nhiều trường đại học 
Việt Nam phải quan tâm phát triển nguồn 
tài nguyên điện tử. Các nỗ lực đầu tư cho 
việc này được bắt đầu từ các trường có dự 
án tài trợ nước ngoài, từ các trường được 
chính phủ ưu tiên đầu tư, và hiện nay là từ 
nhiều trường ngoài công lập. Có thể thấy, 
việc đầu tư kinh phí đã là một nỗ lực lớn 
nhưng để đảm bảo hiệu quả sự đầu tư này 
đòi hỏi những nỗ lực còn lớn hơn. Đúng 
là, ở đâu có cung cấp nguồn tài nguyên 
điện tử, ở đó đã ít nhiều có những nỗ lực 
đưa ra các giải pháp đảm bảo tính hiệu 
quả [1, 2]. Tuy nhiên, để các giải pháp 
đạt đến các giá trị thực sự bền vững vẫn là 
một thách thức đang đặt ra đối với các thư 
viện đại học Việt Nam. Rõ ràng, khi người 
dùng tin chưa khai thác hiệu quả nguồn tài 
nguyên điện tử thì các chi phí đầu tư sẽ bị 
coi là lãng phí. Hơn thế, điều này khiến cho 
thư viện đại học không khẳng định được 
năng lực trong việc cung cấp nguồn thông 
tin học thuật cập nhật và chất lượng cao 
cho người dùng tin của mình, không tham 
dự được vào quá trình hội nhập của cộng 
đồng các trường đại học.
Có thể thấy, việc sử dụng hiệu quả tài 
nguyên điện tử phụ thuộc vào rất nhiều 
yếu tố, bao gồm những yếu tố tác động và 
những yếu tố đảm bảo cho việc truy cập, 
khai thác và sử dụng. Do đó, cần bắt đầu 
bằng việc nhận biết chính xác nội hàm 
của tất cả yếu tố liên quan này; từ đó xác 
định những nền tảng phải thiết lập cho 
quá trình cung cấp tài nguyên điện tử. Tiếp 
đến là xác định và triển khai các giải pháp 
cụ thể dựa trên điều kiện và khả năng của 
từng đơn vị. 
1. Các yếu tố tác động đến khả năng sử 
dụng nguồn tài nguyên thông tin điện tử
Việc người dùng tin sử dụng được nguồn 
tài nguyên điện tử một cách hiệu quả phụ 
thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có các 
yếu tố tự thân của họ như: thói quen dùng 
tin, tính chất công việc, môi trường làm 
việc. Tuy nhiên, phần lớn các yếu tố lại liên 
quan đến điều kiện của thư viện. Những 
yếu tố này có thể chia thành hai nhóm: 
những yếu tác động toàn cục (gồm năng 
lực nhân sự và tầm nhìn của cơ quan), và 
những yếu tố trực tiếp đảm bảo cho việc sử 
dụng nguồn tài nguyên điện tử (gồm nội 
dung thông tin, hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ). 
Dưới đây là những phân tích về hai nhóm 
yếu tố này.
Sự hiểu biết của cán bộ quản lý
Đầu tiên là sự hiểu biết của cán bộ quản 
lý thư viện về khả năng trang bị nguồn tài 
nguyên điện tử cho đơn vị mình. Sự hiểu 
biết này bao gồm kiến thức về các đặc 
điểm và yêu cầu đối với việc quản lý và 
khai thác nguồn tài nguyên điện tử, đồng 
thời là những hiểu biết về khả năng đầu tư 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016 | 5
của nhà trường. Chúng ta cần ý thức rằng 
các phương thức và mức kinh phí đầu tư 
cho quá trình bổ sung, tổ chức, quản lý và 
phục vụ nguồn tài nguyên điện tử đòi hỏi 
sự ổn định lâu dài và có khuynh hướng gia 
tăng liên tục, nếu không những gì đã đầu 
tư sẽ không tiếp tục sử dụng được [3]. Ở 
đây, không tập trung phân tích tính phức 
tạp của chi phí cho tài liệu điện tử mà nhấn 
mạnh rằng, chỉ khi nào cán bộ quản lý am 
hiểu thấu đáo về tài nguyên điện tử thì mới 
có thể đưa ra đề xuất thuyết phục với lãnh 
đạo nhà trường trong việc đầu tư, xác định 
chính xác những việc cần làm, lường trước 
những bất trắc, đặt ra lộ trình hay thứ tự 
ưu tiên cho các đầu việc, tính toán mức độ 
khả thi cho các giải pháp bao gồm cả giải 
pháp công nghệ và tài chính. Hiểu biết và 
năng lực của cán bộ quản lý sẽ tác động 
đáng kể đến sự tin tưởng và quyết định đầu 
tư của lãnh đạo nhà trường. 
Tầm nhìn của nhà trường 
Tầm nhìn, hay nói một cách đơn giản hơn 
là chiến lược của nhà trường đối với hoạt 
động thư viện và các công tác liên quan 
đến hoạt động thư viện bao gồm: nghiên 
cứu khoa học, chất lượng đào tạo, kiểm 
định, xếp hạng đại học. Tầm nhìn cho thấy 
dự định về mức độ đầu tư của nhà trường 
đối thư viện nói chung, đối với nguồn tài 
nguyên điện tử nói riêng trong thời gian 
hiện tại và sắp tới; từ đó thư viện có thể 
xác định một kế hoạch cụ thể đáp ứng tầm 
nhìn của nhà trường, ví dụ như: trong 5 
năm hay 10 năm tới, thư viện tập trung cho 
những nhiệm vụ và hạng mục đầu tư nào 
liên quan đến tài nguyên điện tử, đầu tư ở 
mức duy trì hay nâng cấp tính hiệu quả của 
nguồn tài nguyên. 
Như vậy, cùng với hiểu biết của cán bộ 
quản lý thư viện, tầm nhìn của nhà trường 
sẽ tác động đến kế hoạch và việc ưu tiên 
hoá các biện pháp cho quá trình đầu tư 
và thúc đẩy hiệu quả sử dụng nguồn tài 
nguyên điện tử. Tầm nhìn cũng tác động 
đến mức độ quyết tâm của nhà trường 
và thư viện trong việc không ngừng thúc 
đẩy hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên 
điện tử.
Năng lực của cán bộ thư viện
Quản lý và cung cấp dịch vụ cho quá 
trình sử dụng tài nguyên điện tử cần đội 
ngũ chuyên viên bao gồm nhiều thành 
phần với những năng lực chuyên môn 
khác nhau. Cụ thể, thư viện cần có chuyên 
viên về mảng công nghệ thông tin và 
truyền thông, mảng lựa chọn thuê bao và 
tạo dựng nội dung các cơ sở dữ liệu, mảng 
nghiên cứu và phục vụ người dùng tin, 
mảng pháp lý bao gồm các luật định liên 
quan đến bản quyền, truy cập, thuê bao, 
tài chính, thương thảo hợp đồng. Mỗi vị 
trí công tác cụ thể đòi hỏi cán bộ thư viện 
phải có kiến thức và kỹ năng tương thích. 
Năng lực của họ sẽ tác động đáng kể đến 
tính tiêu chuẩn, hợp lệ, ổn định và thông 
suốt cho quá trình quản lý và phục vụ 
nguồn tài nguyên điện tử. 
Hạ tầng công nghệ thông tin
Hạ tầng công nghệ thông tin bao gồm 
máy chủ, mạng máy tính, phần mềm quản 
lý và các hỗ trợ sử dụng, đường truyền 
Internet. Đây là điều kiện phải có để quản 
lý và sử dụng tài nguyên điện tử. Hơn thế 
nữa, để người dùng có thể thường xuyên 
sử dụng được nguồn tài nguyên điện tử 
đòi hỏi các điều kiện công nghệ và kỹ 
thuật phải ổn định và dễ sử dụng. Cụ thể, 
các phần mềm và giao diện tương tác phải 
dễ hiểu, dễ dùng và thu hút người dùng, 
Internet được kết nối nhanh và ổn định, 
6 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
máy chủ hoạt động liên tục và ổn định, cho 
phép truy cập và sử dụng tài liệu từ xa 24/7. 
Những yêu cầu này là rất cơ bản và sẽ tác 
động trực tiếp đến khả năng sử dụng tài 
nguyên điện tử. 
Nội dung của nguồn tài nguyên điện tử
Người dùng tin chỉ quan tâm sử dụng khi 
nội dung của các nguồn tin được cập nhật, 
phù hợp và hữu ích cho công việc và cho 
học tập của họ. Những nguồn tin dù là có 
chất lượng cao nhưng không phù hợp với 
trình độ và lĩnh vực mà người dùng quan 
tâm thì vẫn không được thường xuyên sử 
dụng. Do vậy, ngoài chất lượng của nội 
dung, tính phù hợp và tính cập nhật sẽ có 
tác động lớn đến việc sử dụng.
Quy định, hướng dẫn và dịch vụ hỗ trợ 
Để sử dụng tài nguyên điện tử, người 
dùng tin cần có khá nhiều kỹ năng thông 
tin. Bên cạnh các kỹ năng sử dụng máy 
tính, Internet, các phần mềm liên quan, 
người dùng cần có hiểu biết và quen thuộc 
với cách tổ chức tra cứu và sắp xếp thông 
tin của các cơ sở dữ liệu, cách tìm kiếm, 
đánh giá, cũng như tận dụng các tính 
năng, tiện ích của cơ sở dữ liệu, cách lưu 
giữ và sử dụng thông tin. Các đơn vị tạo 
dựng và cung cấp các nguồn tài nguyên 
thường thực hiện việc nâng cấp, cập nhật, 
và thay đổi chính sách sử dụng cho các sản 
phẩm của họ, do đó các kỹ năng thông tin 
của người dùng cũng cần được cập nhật, 
bổ sung, điều chỉnh thường xuyên. Như 
vậy, khả năng cung cấp rõ ràng, đầy đủ các 
quy định, các hướng dẫn liên quan, và nhất 
là việc kịp thời hỗ trợ, tư vấn người dùng 
tin về các vấn đề liên quan đến công nghệ, 
kỹ thuật, tìm kiếm, lưu giữ và sử dụng là 
những yêu cầu để đảm bảo việc sử dụng 
hiệu quả nguồn tài nguyên điện tử.
2. Các hướng giải pháp cho khả năng sử 
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông 
tin điện tử
Th eo những phân tích vừa nêu, có thể 
nhận thấy rằng, năng lực của cán bộ thư 
viện, hạ tầng công nghệ và kỹ thuật, khả 
năng phục vụ người dùng tin là ba nền 
tảng mà thư viện phải có khi cung cấp 
tài nguyên điện tử. Như vậy, đảm bảo và 
không ngừng phát triển ba nền tảng này 
chính là các hướng giải pháp cho sử dụng 
hiệu quả tài nguyên điện tử.
Nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực
Trước hết là giải pháp nâng cao năng 
lực của cán bộ quản lý và chuyên viên tác 
nghiệp. Như đã thấy, năng lực của cán bộ 
quản lý thư viện bao gồm: sự hiểu biết, tầm 
nhìn, khả năng lập kế hoạch, tìm nguồn tài 
chính, thuyết phục, điều phối. Các yếu tố 
này sẽ giúp tạo ra sự tin tưởng, ủng hộ của 
các bên liên quan (lãnh đạo nhà trường, 
cán bộ thư viện, người dùng tin bao gồm 
giảng viên, nhà nghiên cứu, người học) 
trong việc đầu tư, vận hành và sử dụng tài 
nguyên thông tin. 
Năng lực của cán bộ quản lý còn bao gồm 
khả năng liên tục tự trang bị và cập nhật 
các hiểu biết về cả hiện trạng và xu hướng 
của công nghệ, của việc sử dụng thông 
tin, việc phát triển và giá cả tài nguyên 
điện tử. Các hiểu biết này sẽ giúp cán bộ 
quản lý có được quyết định khôn ngoan 
trong việc đầu tư công nghệ, lựa chọn các 
gói sản phẩm và đơn vị cung cấp. Th ực tế 
cho thấy, việc không lường được những 
biến đổi của: công nghệ, nguồn tài chính, 
nguồn nhân lực đều có thể dẫn đến việc 
mất khả năng tiếp tục cung cấp tài nguyên 
điện tử. Rõ ràng là, có được các hiểu biết 
cần thiết sẽ giúp đảm bảo tính bền vững 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016 | 7
của quá trình duy trì và phát triển nguồn 
tài nguyên điện tử. 
Do đó, cán bộ quản lý cần trau dồi năng 
lực bằng mọi cách bao gồm tự học và học 
qua việc tham dự vào các hoạt động chuyên 
môn như: hội thảo, tập huấn, sinh hoạt 
chuyên đề. Có thể thấy, cơ hội và phương 
tiện tự học ngày càng phong phú và dễ tiếp 
cận, cụ thể là học qua tài liệu, các khoá đào 
tạo ngắn hạn trực tiếp hoặc trực tuyến, 
trao đổi với đồng nghiệp, chuyên gia trong 
và ngoài nước một cách trực tiếp hoặc qua 
các kênh truyền thông (email, facebook, 
forum). 
Đối với chuyên viên tác nghiệp, tùy từng 
vị trí công tác, họ sẽ cần năng lực chuyên 
sâu như là lựa chọn nguồn tài nguyên và 
làm việc với các nhà cung cấp, thành thạo 
việc tra cứu, tìm tin trực tuyến, tổ chức và 
thực hiện các dịch vụ hỗ trợ người dùng, 
nghiên cứu và tập huấn người dùng tin, 
quản lý và sử dụng công nghệ thông tin và 
truyền thông. Sự thành thạo, tính chuyên 
nghiệp của chuyên viên không thể có sẵn 
từ quá trình đào tạo đại học, mà đòi hỏi sự 
tích lũy, rèn luyện từ các phương thức học 
qua công việc, các phương thức học tập 
suốt đời của họ. Ngoài nỗ lực của bản thân, 
quá trình chuyên nghiệp hoá của chuyên 
viên cần có sự định hướng và đầu tư chi 
phí đào tạo từ lãnh đạo thư viện. Cụ thể, 
chuyên viên phải được lãnh đạo phân công 
trách nhiệm rõ ràng, được gửi đi đào tạo 
dưới các hình thức phù hợp (dài hạn, ngắn 
hạn), được khuyến khích và tạo cơ hội tiếp 
cận với các kênh cung cấp kiến thức và kỹ 
năng chuyên môn. Lãnh đạo thư viện cần 
phối hợp với các đơn vị liên quan như các 
hiệp hội nghề nghiệp, các khoa đào tạo, 
các thư viện đầu tàu để thiết lập và thúc 
đẩy một cơ chế đào tạo tiếp tục cho cán bộ 
thư viện. Sự phối hợp này có thể bắt đầu 
từ việc đơn giản như các thư viện đề xuất 
nội dung cần đào tạo để các đơn vị nghiên 
cứu, tổ chức đào tạo, đến việc mang tính vĩ 
mô như xây dựng chuẩn năng lực cho từng 
vị trí công tác của cán bộ thư viện để làm 
cơ sở cho từng cá nhân và thư viện có kế 
hoạch, biện pháp và lộ trình nâng cao năng 
lực của đội ngũ nhân sự. 
Không ngừng cải tiến hạ tầng công nghệ 
và các tính năng hỗ trợ sử dụng
Như đã xác định, hiệu quả sử dụng tài 
nguyên thông tin điện tử gắn liền với các 
điều kiện của công nghệ. Do hạn chế về tài 
chính và nhân lực, khi bắt đầu triển khai 
phục vụ tài nguyên điện tử, các thư viện 
thường chỉ đảm bảo những điều kiện cơ 
bản chứ không thể trang bị hạ tầng cũng 
như triển khai các ứng dụng tiện ích hỗ trợ 
sử dụng một cách hoàn chỉnh. Th êm vào 
đó, công nghệ luôn thay đổi, các tính năng 
hỗ trợ quản lý và sử dụng tài nguyên điện 
tử luôn được đổi mới. Vì vậy, từ đầu tư ban 
đầu các thư viện cần tìm cách dần hoàn 
thiện hạ tầng công nghệ và kỹ thuật bằng 
cách điều chỉnh, bổ sung, làm mới, nâng 
cấp sao cho việc tra cứu, truy cập, tương 
tác và sử dụng tài liệu được đơn giản, dễ 
hiểu, dễ thao tác, tiện lợi và hấp dẫn đối với 
người dùng tin. 
Th ực hiện được việc này, một lần nữa có 
thể thấy, tầm nhìn và năng lực của đội ngũ 
nhân sự là cơ sở để tìm ra các giải pháp. 
Với khả năng của mình, cán bộ quản lý 
cần nỗ lực tìm kiếm các nguồn tài chính 
từ nhiều nguồn (cơ quan chủ quản cấp, tài 
trợ, xã hội hoá) và dự tính được mức độ 
đầu tư cho các hạng mục theo một lộ trình 
phù hợp. Chuyên viên thư viện, thông qua 
quá trình sử dụng để phục vụ người dùng 
tin, quan sát và tiếp nhận các phản hồi của 
8 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
người dùng, cần xác định được những hạn 
chế, cản trở liên quan đến hạ tầng kỹ thuật, 
từ đó có phản hồi và đề xuất cho bộ phận 
công nghệ. Chuyên viên công nghệ cần 
không ngừng nỗ lực chăm sóc, bảo trì và 
tận dụng tối ưu những hạng mục đã được 
đầu tư, đồng thời tận dụng các điều kiện 
sẵn có từ bên ngoài như các phần mềm mã 
nguồn mở, để cải tiến, thêm mới các tiện 
ích cho người dùng của đơn vị mình. Kinh 
nghiệm từ nhiều thư viện mạnh trên thế 
giới cho thấy, người ta rất thành công trong 
việc tận dụng các phần mềm mã nguồn mở 
D-Space và Koha. Một yêu cầu quan trọng 
nữa đối với chuyên viên công nghệ là cần 
chủ động nghiên cứu và tìm hiểu kinh 
nghiệm từ bên ngoài để tư vấn cho cán bộ 
quản lý trong quá trình cải tiến, nâng cấp 
hạ tầng kỹ thuật.
Không ngừng hoàn thiện các dịch vụ hỗ 
trợ và thúc đẩy sử dụng
Để thực hiện được các dịch vụ hỗ trợ và 
thúc đẩy việc sử dụng nguồn tài nguyên 
điện tử đòi hỏi triển khai được ít nhất bốn 
mảng công tác: nghiên cứu người dùng tin, 
tổ chức dịch vụ, quảng bá, và đánh giá.
Nghiên cứu người dùng tin
Các nguồn tài nguyên của thư viện chỉ 
trở nên hữu ích khi được người dùng biết 
đến, thấy phù hợp và sử dụng. Điều này đã 
được cộng đồng thư viện thấu hiểu và trở 
thành nguyên tắc hoạt động của các thư 
viện hiện nay - đó là thư viện phải nghiên 
cứu nhằm đáp ứng cho người dùng chứ 
không chỉ cung cấp những gì thư viện có 
[4]. Do đó, trong quá trình phát triển và 
phục vụ nguồn tài nguyên điện tử, các thư 
viện cần thực hiện nghiên cứu người dùng 
tin một cách định kỳ, có chủ đích và nhất 
là sử dụng hợp lý kết quả nghiên cứu cho 
việc điều chỉnh, bổ sung, đổi mới các công 
tác liên quan đến nguồn tài nguyên điện 
tử. Tùy vào điều kiện, việc nghiên cứu có 
thể được triển khai dưới nhiều hình thức 
(phỏng vấn, phiếu điều tra số liệu thống kê, 
bảng hỏi, quan sát, sổ góp ý, trao đổi nhanh 
với người dùng), nhiều kênh (trực tiếp, 
trực tuyến, điện thoại, email, facebook), 
nhiều phạm vi (về công nghệ, kỹ thuật, nội 
dung nguồn tài liệu, dịch vụ hỗ trợ, năng 
lực cán bộ), với nhiều mức độ tuỳ vào mục 
tiêu nghiên cứu. Nghiên cứu người dùng 
tin không còn là hoạt động mới đối với 
nhiều thư viện, tuy nhiên tính hiệu quả và 
bền vững của hoạt động này vẫn là điều 
cần quan tâm cải thiện. Đầu tiên, cần nâng 
cao sự hiểu biết của chuyên viên thư viện 
về các phương pháp nghiên cứu và kỹ năng 
triển khai nghiên cứu, bao gồm xác định 
mục đích, chọn mẫu, thu thập dữ liệu, 
phân tích và tổng hợp dữ liệu. Tiếp theo, 
cần có kế hoạch, định kỳ, mục đích, mục 
tiêu và nhất là đưa ra được các giải pháp từ 
kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, cần có đầu 
tư, cam kết và kiên trì áp dụng giải pháp 
hình thành từ nghiên cứu. 
Cung cấp dịch vụ hỗ trợ người dùng tin
Cung cấp tài nguyên điện tử nhất thiết 
phải đi kèm với cung cấp hệ thống các loại 
dịch vụ bao gồm hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ tra 
cứu, tư vấn và hướng dẫn sử dụng dưới 
nhiều phương thức tại chỗ và từ xa. Th ông 
thường, những dịch vụ sau cần phải đảm 
bảo ngay từ đầu: cung cấp ID, mật khẩu, 
đảm bảo việc truy cập, hướng dẫn tại chỗ 
hoặc thông qua các lớp tập huấn cho việc 
tra cứu và sử dụng tài liệu điện tử. Tuy 
nhiên, những dịch vụ hỗ trợ tiên quyết này 
chỉ dừng ở mức cơ bản thì người dùng vẫn 
gặp khá nhiều khó khăn trong quá trình 
khai thác thông tin của họ. Khó khăn đầu 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016 | 9
tiên là những trục trặc về việc đăng nhập và 
đường truyền có thể xảy ra bất cứ lúc nào; 
tiếp theo là không phải ai cũng tự khám 
phá được các đặc điểm của từng nguồn tài 
liệu, cách tra cứu hiệu quả, cách sử dụng 
các tiện ích và công cụ hỗ trợ như lưu các 
phiên tìm kiếm, kết quả tìm kiếm, nhận 
thông báo (alert), cách đánh giá thông tin. 
Th ực chất, người dùng tin phải vượt qua 
được tất cả những khó khăn này thì quá 
trình khai thác nguồn tài nguyên điện tử 
mới thực sự hiệu quả. Th êm vào đó, các 
nhà xuất bản liên tục cải tiến công nghệ lẫn 
tiện ích và cả nội dung cho sản phẩm của 
họ. Ngoài ra, ngày càng xuất hiện nhiều 
nguồn truy cập mở (không tốn phí) đến 
thông tin học thuật có chất lượng; ngay 
cả những tập đoàn xuất bản phẩm uy tín 
cũng cung cấp một số nguồn mở, và người 
dùng tin rất cần được hỗ trợ để biết đến và 
khai thác được các nguồn này. Do đó, hỗ 
trợ người dùng tin cần được thực hiện một 
cách thường xuyên, liên tục và hơn thế nữa 
cần được tuỳ biến dựa trên nhu cầu, thói 
quen, điều kiện của cá nhân họ. 
Như vậy, cùng một lúc chuyên viên thư 
viện phải là người hiểu biết và thành thạo 
việc khai thác các nguồn tin, từ đó mới có 
thể hiểu được các phản hồi của người dùng 
và tổ chức được các dịch vụ cần thiết. Lưu 
ý là, để thuận tiện cho người dùng, các dịch 
vụ tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn/tập huấn cần 
được thường xuyên cập nhật và cung cấp 
tại chỗ và từ xa qua các phương tiện của 
website thư viện và web 2.0, như: facebook, 
email, trực tuyến. 
Có khá nhiều nguồn tham khảo về các 
mô hình và cách triển khai dịch vụ thư 
viện. Trong thế giới phẳng này cơ hội cho 
việc tiếp cận, học hỏi từ nhiều nguồn khác 
nhau là rất nhiều. Vấn đề ở đây là phải kích 
thích được năng lực, sự nhiệt huyết, tính 
kiên trì và nhất là sự sáng tạo của cán bộ 
thư viện; bởi đây chính là chất xúc tác hình 
thành các giải pháp cụ thể. Ở nước ta, thói 
quen và kỳ vọng của người dùng tin đối với 
dịch vụ thư viện chưa cao, khiến cho động 
lực, áp lực đầu tư, phát triển dịch vụ không 
được đẩy mạnh. Đặc điểm này một lần nữa 
đòi hỏi tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ 
cán bộ trong thư viện. 
Quảng bá và xây đắp quan hệ gắn bó với 
người dùng tin
Cùng với việc hoàn thiện dịch vụ, thư 
viện cần không ngừng thực hiện các hoạt 
động quảng bá nguồn tài nguyên điện tử 
và các dịch vụ đi kèm, đồng thời tận dụng 
mọi cơ hội, phương tiện để xây đắp quan 
hệ gắn bó với người dùng. Cụ thể, chuyên 
viên thư viện cần có đủ năng lực và nhiệt 
tình để có thể tham dự vào hoạt động học 
tập và nghiên cứu của giảng viên, sinh viên, 
từ đó truyền đạt các thông tin, hướng dẫn 
cần thiết, cũng như tiếp nhận các phản hồi, 
nhu cầu, kỳ vọng của người dùng tin, tổ 
chức các hình thức giao lưu (ngày hội giới 
thiệu hoặc những cuộc thi tìm hiểu về tài 
liệu điện tử), tổ chức các kênh trao đổi qua 
mạng xã hội, tận dụng mọi tính năng của 
website thư viện, phương tiện của web 2.0 
và công nghệ di động để tương tác với người 
dùng. Một nguyên tắc quan trọng để duy trì 
sự tương tác là thư viện phải luôn làm sinh 
động và bền vững các kênh tương tác, đồng 
thời thể hiện được những nỗ lực kịp thời 
đáp ứng các phản hồi của người dùng tin. 
Bên cạnh đó, thư viện cần làm cho người 
dùng tin hiểu được tính hai chiều của 
tương tác: không chỉ thư viện tìm cách đáp 
ứng người dùng, mà người dùng cũng cần 
có trách nhiệm phản hồi, đóng góp ý tưởng 
cho hoạt động của thư viện- đúng như tinh 
10 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
thần của một nguyên tắc mới đang được 
phổ biến hiện nay: thư viện không chỉ là 
“dành cho” mà còn là “của” người dùng [5].
Đánh giá, rút kinh nghiệm và cải tiến 
liên tục
Sau những nỗ lực hành động, thực hiện 
đánh giá nhằm đo lường chính xác thành 
quả và thất bại của từng hoạt động, phân 
tích được nguyên nhân của thành công, 
thất bại, từ có được bài học kinh nghiệm 
làm cơ sở để tìm kiếm những biện pháp 
phù hợp hơn. Có nhiều tài liệu để tham 
khảo các phương pháp đo lường việc sử 
dụng tài liệu điện tử và tính hiệu quả của 
dịch vụ thông tin [6]; tuy nhiên nên lựa 
chọn cách thức đánh giá phù hợp với điều 
kiện của thư viện, và nhất là tận dụng 
được các dữ liệu có sẵn, như là yêu cầu 
nhà cung cấp thông báo dữ liệu thống kê 
sử dụng, những đánh giá thu thập được 
từ quá trình nghiên cứu người dùng tin, 
những quan sát và thống kê từ quá trình 
phục vụ. Việc đánh giá cần được thực 
hiện có định kỳ và bền vững. Những nỗ 
lực cải tiến cần được tính toán dựa trên 
nhiều phương diện: điều kiện và ưu tiên 
của đơn vị, khả năng của chuyên viên, 
tính hệ thống của các cải tiến.
Kết luận
Các hướng giải pháp nêu trên mang tính 
nguyên tắc, việc triển khai các hướng giải 
pháp thành các giải pháp cụ thể luôn là 
thách thức đối với các thư viện. So với các 
nước tiên tiến trong khu vực, việc cung 
cấp tài nguyên điện tử của các thư viện đại 
học Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Nguyên 
nhân cơ bản nhất thường được nhấn mạnh 
là kinh phí hạn hẹp, tuy nhiên một nguyên 
nhân cũng rất quan trọng, đó là nhiều thư 
viện chưa triển khai được hệ thống các giải 
pháp đảm bảo và hỗ trợ người dùng. Rất 
khó có được kết quả toàn diện như mong 
muốn sau những nỗ lực khởi đầu; thực tế 
đòi hỏi những nỗ lực bền bỉ và có hệ thống 
khi triển khai các giải pháp. 
----------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Th uý Hương (2006). Xây dựng 
vốn tài liệu điện tử tại một số thư viện 
trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ 
Chí Minh: luận văn thạc sĩ. Đại học Khoa 
học xã hội và nhân văn, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Huỳnh Th anh Xuân (2009). Tổ chức, 
quản lý và khai thác nguồn tài nguyên điện 
tử tại các thư viện thành viên Đại học Quốc 
gia Th ành phố Hồ Chí Minh: luận văn thạc 
sĩ. Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, 
Tp. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Hồng Sinh (2014). Nguồn tài 
nguyên thông tin. Đại học Quốc gia Tp. Hồ 
Chí Minh.
4. Clay P., Gorman G.E. (2001). Managing 
information resources in libraries: collection 
management in theory and practice. Lodon: 
Library Association Publishing.
5. Lankes, D. R. (2012). Expect More: 
Demanding Better Libraries For Today’s 
Complex World. Truy cập từ 
syr.edu/blog/?page_id=4598]
6. Whitlatch (2000). Evaluating reference 
services: a practical guide. Amerian 
Library Association. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 12-01-
2016; Ngày phản biện đánh giá: 10-02-2016; 
Ngày chấp nhận đăng: 9-3-2016).

File đính kèm:

  • pdfyeu_to_tac_dong_va_huong_giai_quyet_cho_kha_nang_su_dung_hie.pdf