Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) - Từ góc nhìn văn hóa

Miêu tả chân dung nhân vật là một trong những bút pháp nghệ thuật chủ yếu của thể loại truyện

Nôm. “Truyện Kiều” là một truyện Nôm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Trong “Truyện

Kiều” có nhiều chân dung nhân vật, được chia thành nhân vật chính diện, nhân vật phản diện và

thậm chí cả nhân vật trung gian (Hoạn Thư). Có thể nói, “Truyện Kiều” đi theo khuynh hướng nghệ

thuật chính thống nên ở đây xuất hiện bút pháp phác họa và ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước

lệ, công thức, có sử dụng điển tích, điển cố, khi miêu tả chân dung nhân vật. Nhưng ở một số

phương diện, Nguyễn Du đã vượt lên trên khuôn mẫu cổ điển để tạo nên những chân dung nhân

vật sinh động, đa dạng. Trong đó, nhân vật Thúy Kiều là một minh chứng tiêu biểu. Khi khắc họa

chân dung Thúy Kiều, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã thể hiện khuynh hướng tâm lí hóa ngoại

hình và hơn thế nữa là khuynh hướng thân phận hóa phẩm cách nhân vật. Trong khuôn khổ bài

viết này, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc nhìn văn hóa (cụ thể là

văn hóa ứng xử giữa Thúy Kiều và Kim Trọng) trong đoạn thơ từ câu 499 đến câu 524 của “Truyện

Kiều” – Nguyễn Du.

pdf 5 trang kimcuc 6200
Bạn đang xem tài liệu "Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) - Từ góc nhìn văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) - Từ góc nhìn văn hóa

Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) - Từ góc nhìn văn hóa
58 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
1. MỞ ĐẦU
Việc nghiên cứu tính văn hóa trong tác phẩm văn 
học là rất cần thiết. Bởi, tính văn hóa của tác phẩm 
văn học là một thuộc tính không thể tách rời của tác 
phẩm văn chương, là một yếu tố quan trọng làm nên 
giá trị trường tồn của tác phẩm. Tính văn hóa của tác 
phẩm văn học thể hiện trước hết qua cách nhìn nghệ 
thuật về con người và cuộc đời, qua quan niệm ứng 
xử thẩm mĩ mang đặc trưng và phù hợp với chuẩn 
mực đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. 
Ngoài ra, nó còn được thể hiện ở cách thức xây dựng 
nhân vật, cốt truyện, cách sử dụng ngôn từ, thi pháp, 
cấu trúc, Do đó, việc giảng dạy tác phẩm văn học 
nói chung và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nói riêng 
không chỉ dừng lại ở cách cảm thụ cái hay, cái đẹp của 
hình tượng nghệ thuật nhân vật mà còn hiểu được 
ThS. TRẦN THỊ THU HIỀN1
1 Học viện Khoa học Quân sự ✉ qkieutuan@gmail.com
Ngày nhận: 29/12/2016; Ngày hoàn thiện: 20/01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017
Phản biện khoa học: PGS.TS. CẦM TÚ TÀI
VẺ ĐẸP CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU TỪ 
CÂU 499 ĐẾN CÂU 524 TRONG “TRUYỆN KIỀU”
(NGUYỄN DU) - TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
TÓM TẮT
Miêu tả chân dung nhân vật là một trong những bút pháp nghệ thuật chủ yếu của thể loại truyện 
Nôm. “Truyện Kiều” là một truyện Nôm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Trong “Truyện 
Kiều” có nhiều chân dung nhân vật, được chia thành nhân vật chính diện, nhân vật phản diện và 
thậm chí cả nhân vật trung gian (Hoạn Thư). Có thể nói, “Truyện Kiều” đi theo khuynh hướng nghệ 
thuật chính thống nên ở đây xuất hiện bút pháp phác họa và ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước 
lệ, công thức, có sử dụng điển tích, điển cố, khi miêu tả chân dung nhân vật. Nhưng ở một số 
phương diện, Nguyễn Du đã vượt lên trên khuôn mẫu cổ điển để tạo nên những chân dung nhân 
vật sinh động, đa dạng. Trong đó, nhân vật Thúy Kiều là một minh chứng tiêu biểu. Khi khắc họa 
chân dung Thúy Kiều, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã thể hiện khuynh hướng tâm lí hóa ngoại 
hình và hơn thế nữa là khuynh hướng thân phận hóa phẩm cách nhân vật. Trong khuôn khổ bài 
viết này, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc nhìn văn hóa (cụ thể là 
văn hóa ứng xử giữa Thúy Kiều và Kim Trọng) trong đoạn thơ từ câu 499 đến câu 524 của “Truyện 
Kiều” – Nguyễn Du.
Từ khóa: góc nhìn, nhân vật, Truyện Kiều, văn hóa, vẻ đẹp.
nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong đó. 
Có như vậy, tác phẩm văn học nói chung và nhân vật 
xuất hiện trong tác phẩm ấy nói riêng mới hiện lên 
với vẻ đẹp toàn diện của nó.
2. NỘI DUNG
2.1. Quan niệm về tính văn hóa trong tác phẩm văn học
Thuật ngữ “văn hóa” (culture) được hiểu theo nhiều 
nghĩa. Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ 
những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, 
phong tục, lối sống, lao động, Và ngay cả với cách 
hiểu rộng này, trên thế giới cũng có hàng trăm định 
nghĩa khác nhau về văn hóa. Có thể đưa ra một cách 
hiểu chung nhất về văn hóa như sau: Văn hóa là một 
hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do 
59KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt 
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với 
môi trường tự nhiên và xã hội.
Còn tính văn hóa của tác phẩm văn học lại có tính chất 
đặc thù, nó cho thấy tác phẩm văn học không chỉ toát 
lên vẻ đẹp ngôn từ mà còn hiện lên qua vẻ đẹp tâm 
hồn của nhân vật, qua cách ứng xử và tiếp nhận, xử lí 
những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của một dân 
tộc hay một cộng đồng người nhất định. Nó không 
chỉ là quan niệm của tác giả về con người mà còn 
bao gồm cả chuẩn mực ứng xử của một cộng đồng, 
một dân tộc trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ giá trị văn hóa 
này sẽ góp phần làm rõ thêm đóng góp của mỗi tác 
phẩm văn chương vào tổng thể giá trị tinh thần của 
một dân tộc. Hơn nữa, bản thân tác phẩm văn học là 
sản phẩm tinh thần của một thời đại lịch sử cụ thể, 
thể hiện cách cảm thụ thế giới để từ đó đưa đến các 
chuẩn mực sống của một cộng đồng, một dân tộc. 
Xét ở góc độ này, tác phẩm văn học đã trở thành thế 
giới khác (so với thế giới chúng ta đang sống) – thế 
giới của lí tưởng, thế giới của CHÂN – THIỆN – MĨ, từ 
đó tạo ra niềm tin hướng thiện cho con người. Tác 
phẩm văn học mang tính văn hóa cao sẽ trở thành tài 
sản chung của cả dân tộc.
Như vậy, có thể coi Nguyễn Du là một trong những 
đại diện văn hóa đầu tiên của Việt Nam được giới 
thiệu với thế giới. Và cũng qua tác phẩm của ông, thế 
giới biết đến và hiểu rõ hơn bộ mặt tinh thần của dân 
tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử thời trung 
đại. Trong đó, tác phẩm “Truyện Kiều” của ông đã làm 
rạng danh dân tộc, điểm tô cho diện mạo văn hóa của 
đất nước Việt Nam.
2.2. Tính văn hóa thể hiện trong tác phẩm “Truyện 
Kiều” của Nguyễn Du
Khi đến với tác phẩm “Truyện Kiều”, độc giả dễ dàng 
nhận thấy có hai biểu hiện của tính văn hóa được thể 
hiện rõ nét đó là văn hóa tâm linh và văn hóa ứng 
xử. Nếu lấy nhân vật Thúy Kiều làm trung tâm thì tùy 
theo từng chặng đường khác nhau trong cuộc đời cô 
Kiều mà khi thì nét văn hóa tâm linh chiếm ưu thế, khi 
thì nét văn hóa ứng xử bao trùm. 
Trước hết, hãy nói về nét văn hóa tâm linh. Nói như 
nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn thì: “Văn hóa tâm linh 
là tổng thể phức hợp các niềm tin tín ngưỡng, niềm 
tin tôn giáo; là sự xác nhận niềm tin của con người 
vào một thế giới thứ hai tốt đẹp hơn, như là thế giới 
của ước mơ, lí tưởng; thế giới mà con người cần phải 
vươn tới” (Lê Nguyên Cẩn, 2015, tr. 23).
Chắc chắn trong thời kì đầu dựng nước và giữ nước, 
dân tộc Việt Nam cũng có một nền văn hóa riêng, 
nhưng trong quá trình phát triển lịch sử của mình, 
việc tiếp thu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác là 
điều không thể tránh khỏi. Đó là văn hóa Phật giáo 
(Ấn Độ), tư tưởng Nho giáo, các yếu tố của tư tưởng 
Lão Trang cũng đi vào Việt Nam. Người Việt Nam đã 
hòa trộn cả ba thành tố Nho – Phật – Lão tạo thành 
một hệ thống phục vụ cho đời sống tư tưởng và tâm 
linh của người Việt. Ở “Truyện Kiều”, ta nhận thấy có 
sự hòa trộn đó: Bên cạnh các Nho gia như Vương Ông, 
Vương Quan và sau này là Kim Trọng còn có các đại 
diện của Phật giáo như sư Vãi Giác Duyên, Tam Hợp 
Đạo Cô, v.v...
Ngoài ra, độc giả còn có thể nhận thấy, trong “Truyện 
Kiều” còn tồn tại quan niệm về mô hình ba thế giới: 
Trời – thể hiện thế giới của cái thiện, được quan niệm 
là “vị trọng tài” đánh giá và kết án cái ác trong xã 
hội như dân gian vẫn thường nói (Trời có mắt), như 
là thế giới của cái đẹp, ước mơ, là cõi vĩnh hằng (Về 
trời, Chầu trời); Con người – thế giới của hành vi đạo 
lí thông thường, của các quan hệ cụ thể trong xã hội; 
Ma quỷ – thế giới của cái xấu, cái ác, của cái chưa hoàn 
thiện. Con người thường bị lôi cuốn vào thế giới thứ 
ba này nên Nguyễn Du đã khái quát thành một dạng 
thành ngữ đặc sắc: “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường/Chỉ 
tìm những chốn đoạn trường mà đi” vừa mang tính 
răn đe, vừa mang tính thuyết phục giúp con người tìm 
về cõi thiện. Mô hình ba thế giới này có điểm khác so 
với mô hình văn hóa về thế giới của Trung Hoa (Thiên 
– Địa – Nhân), tức là con người bị ràng buộc, bị quy 
định bởi yếu tố Thiên và Địa. Còn các nhân vật trong 
“Truyện Kiều” đều được đặt trong mối quan hệ giữa 
hiện thực và tâm linh (Trời). Mọi hành động của các 
nhân vật đều xuất phát từ mối quan hệ giữa hai thế 
giới, hoặc nghiêng về hiện thực, hoặc nghiêng về tâm 
linh và từ đó, bản chất nhân vật có dịp được bộc lộ rõ 
hơn bao giờ hết. Nhân vật Thúy Kiều là ví dụ tiêu biểu 
cho điều đó. Trước khi khoác áo tu hành hai lần do 
hoàn cảnh, Kiều luôn mang trong mình niềm tin tuyệt 
đối vào cái thiện, tuân thủ nghiêm ngặt những quy 
định ràng buộc của lễ nghi Nho giáo. Điều này là cơ sở 
cho Kiều ứng xử ở chốn “mây trôi bèo nổi”, ở đó Kiều 
luôn nghĩ đến người khác (kể cả người đó là Tú Bà)
Khẳng định như vậy để thấy rằng, mặc dù Nguyễn Du 
vay mượn đề tài, cốt truyện, nhân vật từ một tác phẩm 
của nền văn học Trung Quốc nhưng bằng tài năng, 
tâm huyết, vốn văn hóa và vốn sống phong phú, ông 
60 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
đã làm hiện lên bức tranh đời sống tinh thần dân tộc, 
xác định lại bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam một thời.
Thứ hai, là văn hóa ứng xử trong “Truyện Kiều”. Ở đây 
là văn hóa ứng xử giữa con người với con người, tức là 
giữa các mối quan hệ xã hội. Nguyễn Du đã kết thúc 
“Truyện Kiều” bằng một cặp lục bát: “Thiện căn ở tại 
lòng ta/Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đây phải 
chăng là đáp số cho bài toán về “Chữ tài chữ mệnh 
khéo là ghét nhau” mà ông đã đặt ra ở đầu tác phẩm. 
Lấy gốc Thiện (Thiện căn) trong mỗi con người, 
Nguyễn Du đã xác lập bản chất con người theo quan 
niệm “Nhân chi sơ, tính bản thiện” để xây dựng tâm 
đức, để củng cố và hoàn thiện cái Tâm, nói rộng ra là 
hoàn thiện thế giới nội tâm con người để tạo ra cách 
ứng xử có văn hóa nhằm hướng tới một cuộc sống 
tốt đẹp hơn.
Văn hóa ứng xử ấy trước hết thể hiện ở truyền thống 
tôn thờ cha mẹ, ý thức sâu sắc về nghĩa vụ làm con. 
Điều đó đã trở thành đặc điểm quan trọng trong tâm 
thức người dân Việt Nam, dù cho ở khía cạnh này 
hay khía cạnh khác nó có chịu ảnh hưởng văn hóa 
từ bên ngoài (mà cụ thể là Nho giáo của Trung Hoa). 
Nhưng trong quá trình tiếp thu, người Việt đã thay 
đổi nó cho phù hợp với đời sống văn hóa của mình. 
Đó là: “làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Chính 
sự suy nghĩ này đã dẫn đến hành động quan trọng 
trong cuộc đời của Kiều là bán mình chuộc cha. Ở 
đây, không phải là cha mẹ bán con mà là con cái tự 
nguyện bán mình chuộc cha. Đây được xem là sự hi 
sinh rất lớn đồng thời cũng là sự đảm nhiệm của Kiều 
với tư cách là người chị cả trong gia đình. Để cứu cha, 
cứu em, cứu gia đình trong cơn hoạn nạn, Kiều đã có 
một ứng xử thẩm mĩ đầy ấn tượng góp vào đạo lí dân 
tộc Việt Nam và cách ứng xử này cũng chẳng thua 
kém gì các đấng mày râu. Thứ hai, là quan hệ ứng xử 
theo kiểu “tình làng nghĩa xóm”, “tối lửa tắt đèn có 
nhau”. Người ta đối xử với nhau bằng tình thương và 
trách nhiệm, trong đó yếu tố trách nhiệm là cơ bản. 
Từ đó dẫn đến sức mạnh cố kết bền vững trong cộng 
đồng làng xã của người Việt Nam. Thứ ba, là ở cách 
đối xử giữa từng con người với nhau – xoay quanh 
cuộc đời nhân vật chính (đó có thể là mối quan hệ 
giữa Thúy Kiều và Thúy Vân, Thúy Kiều với Kim Trọng, 
Thúy Kiều với Tú Bà, Thúy Kiều với Thúc Sinh, Thúy 
Kiều với Hoạn Thư, Thúy Kiều với Từ Hải,).
2.3. Vẻ đẹp trong văn hóa ứng xử giữa Thúy Kiều và 
Kim Trọng trong đoạn trích (từ câu 499 đến câu 524)
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Thưa rằng: “Đừng lấy làm chơi,
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trên bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Phải điều ăn xổi ở thì,
Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
Ngẫm duyên kì ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi – Trương.
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên.
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!”
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
 (Theo bản của Nguyễn Thạch Giang, Truyện 
Kiều, NXB Hà Nội, 1999, tr. 57 - 60)
Thúy Kiều là con gái đầu của gia đình Vương Viên 
ngoại. Vào ngày tết Thanh minh, cả ba chị em Thúy 
Kiều (Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan) đi chơi xuân. 
Trên đường trở về, Thúy Kiều gặp mộ Đạm Tiên – 
một người con gái đẹp nhưng có số phận hẩm hiu, 
Thúy Kiều đã rỏ nước mắt khóc thương cho người 
nằm dưới mộ. Điều đó chứng tỏ, Thúy Kiều là một cô 
gái đa sầu, đa cảm. Sau đó, họ tình cờ gặp Kim Trọng 
– bạn học của Vương Quan: “Hài văn lần bước dặm 
xanh/ Một vùng như thể cây quỳnh cành giao”. Nhác 
thấy Thúy Kiều, Kim Trọng đã cảm mến: “Người quốc 
sắc, kẻ thiên tài/ Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. 
Sau buổi gặp gỡ đó, Kiều vừa thương thầm nhớ trộm 
chàng Kim, vừa mang trong mình một dự cảm không 
lành: “Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có 
duyên gì hay không?”. Vì lưu luyến, nhớ thương người 
trong mộng nên Kim Trọng đã tìm nhà trọ học gần 
nhà Vương Viên ngoại. Cùng với thời gian, tình cảm 
ấy tiến triển đến mức hai người cùng thề nguyền, ước 
hẹn với nhau: 
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Đoạn thơ trích dẫn nói về cách ứng xử của Thúy Kiều 
đối với Kim Trọng trong đêm tình tự. Đọc kĩ đoạn thơ, 
độc giả sẽ thấy thêm một khía cạnh nữa ở cô Kiều rất 
61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
đáng nể trọng. Đó là, cho dù rất yêu quý Kim Trọng, 
nhưng Kiều luôn luôn ý thức được “đạo tòng phu” 
của người phụ nữ xưa. Điều này, có thể xuất phát 
từ việc cả hai đều là con nhà gia giáo nên tình cảm 
Kim-Kiều vừa sâu sắc, vừa mặn mà song không hề lả 
lơi, ong bướm. Hoặc cũng có thể vì cách ứng xử khéo 
léo của Thúy Kiều đối với Kim Trọng mà cả hai vẫn 
giữ được sự tôn trọng, dù sau này họ có gặp lại nhau 
trong những cảnh huống rất khác biệt. 
Trong đêm khuya tình tự, sau khi Kiều chơi đàn cho 
Kim Trọng nghe, chàng Kim đã ngắm nhìn nàng say 
đắm. Chuyện gì đến ắt cũng là điều dễ hiểu. Song, 
khi Kiều cảm nhận được sự quá giới hạn của người 
yêu: “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/Xem trong âu 
yếm có chiều lả lơi”, nàng đã hết sức nhẹ nhàng, tế 
nhị trong lời lẽ giãi bày tâm sự. Nàng cho rằng, đó là 
“trò chơi” không lấy gì làm quan trọng, chẳng đáng 
quan tâm, vả lại chúng mình còn bao điều muốn nói 
mà chưa nói được. Hơn nữa, hai người dẫu sao cũng 
đã hẹn ước trăm năm ghi tạc, chuyện đó đợi đến khi 
hai người thành vợ chồng diễn ra cũng chưa muộn.
Như vậy, chữ “tòng phu” xuất hiện trong câu thơ: 
“Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu” được hiểu là 
theo chồng. Đây là một trong ba điều mà người phụ 
nữ phải tuân theo của Nho giáo: “Phụ nhân hữu tam 
tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá 
tòng phụ, kí giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Người đàn 
bà có cái nghĩa phải theo ba điều mà không có cái lẽ 
(đạo) làm theo ý mình, cho nên khi chưa lấy chồng 
thì phải theo cha, khi đã lấy chồng thì theo chồng, 
và khi chồng chết thì theo con). Ở đây, nói “đạo tòng 
phu” tức là nói đạo làm vợ. Vì luôn ý thức được điều 
này, nên Kiều luôn lấy các tấm gương của các “bậc 
bố kinh” để giữ gìn bản thân, không sống buông thả, 
giữ được cái trinh tiết của một đời người. Còn làm 
theo thói tà dâm của trai gái “Ra tuồng trên bộc trong 
dâu” thì kể làm gì! Chính vì điều này, cho nên sau này 
khi “phẩm tiên đã bén tay phàm” Mã Giám Sinh thì 
Kiều có phần ân hận: “Nhị đào thà bẻ cho người tình 
chung”. Qua đó, ta có thể thấy “Đạo tòng phu” mang 
dấu ấn của văn hóa Nho giáo. Tuy nhiên, đến “Truyện 
Kiều” của Nguyễn Du, nó đã được Việt hóa và là cơ cở, 
nền tảng để đảm bảo gạt bỏ mọi mối nghi ngờ, gắn 
kết tình cảm vợ chồng sâu đậm.
Để tăng thêm sức thuyết phục cho lời nói của mình, 
Kiều đã đưa ra câu chuyện về mối tình của Trương 
Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh: “Ngẫm duyên kì ngộ 
xưa nay/ Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi – Trương”. Câu thơ 
có sử dụng điển tích “Thôi – Trương”. Theo Hội chân 
kí, vào năm Trinh Nguyên nhà Đường, có Trương Sinh 
người tuấn tú, hòa nhã đến chơi chùa Phổ Cứu, gặp 
lúc Thôi phu nhân và con gái là Thôi Oanh Oanh cùng 
đến xin trọ ít ngày để đi Trường An. Đôi trai tài, gái 
sắc đã gặp nhau và đi lại ân ái với nhau ở mái tây chùa 
Phổ Cứu. Ít lâu sau, Trương Sinh đi Trường An dự thi, 
rồi ở lại kinh và quyết tuyệt tình với Thôi Oanh Oanh, 
lấy cớ là tài đức mình kém; trong khi Oanh Oanh vẫn 
mong nhớ chàng, ý tình rất thắm thiết. Sở dĩ, mối tình 
đẹp như mơ, được người đời ngưỡng mộ ấy ấy bị tan 
vỡ cũng chỉ bởi vì:
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên.
để rồi đến nỗi:
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Với lời lẽ ngọt ngào, Thúy Kiều nói tiếp với Kim Trọng:
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Thúy Kiều đã kể toàn bộ câu chuyện xảy ra với Thôi 
Oanh Oanh và lấy đó làm bài học cho bản thân mình. 
Đồng thời, nàng cũng hi vọng, Kim Trọng cũng hiểu 
thêm cho nỗi lòng của Kiều. Trong đoạn thơ, Thúy 
Kiều không ở vào cái hoàn cảnh của Thôi Oanh Oanh, 
chuyện phụ bạc, ruồng rẫy và hổ thẹn chưa xảy ra, 
chuyện “giữ giàng” (giữ gìn, phòng bị cẩn thận) đang 
còn ở hiện tại nên cái việc “gieo thoi” (ném con thoi, 
chỉ việc người con gái biết giữ mình để bảo toàn tiết 
hạnh) cũng ở thời “tương lai”. Thật là ổn thỏa. Câu thơ 
thật là ý nhị. Bút pháp của nhà thơ Nguyễn Du thật là 
tuyệt diệu! Thúy Kiều mượn ngay lời của Oanh Oanh 
để kết luận về Thôi Oanh Oanh, mà khỏi phải nói về 
mình nữa, vì cái gương đã rõ lắm rồi, đã đủ hùng hồn 
để vạch cho hai người cái đường sáng sủa nên theo, 
không cần phải nói: “Thiếp sẽ hết sức cự tuyệt” mà 
thực ra là cự tuyệt một cách chắc chắn và khôn khéo 
– cái khôn khéo của một con người “Thông minh vốn 
sẵn tính trời”. 
Một lần nữa, ta hãy đọc lại toàn bộ đoạn thơ thì thấy 
trong suốt ngần ấy câu, Thúy Kiều không hề trực tiếp 
cự tuyệt Kim Trọng mà chỉ dẫn điển tích cũ để cho 
Kim Trọng hiểu cái “đạo” phải theo là của chung cho 
tất cả mọi người chứ không chỉ của riêng Thúy Kiều. 
Không chống cự, mà trái lại, Kiều còn vuốt ve và hứa 
hẹn với Kim Trọng những điều thật là dễ thương:
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
- Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
- Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!”
Thật là một lời hứa hẹn chan chứa tình âu yếm, dịu 
dàng, đầy rẫy sự vuốt ve an ủi, nhưng thực là vẫn 
“đoan chính” mà cũng vẫn “dễ nghe” như chính 
chàng Kim phải công nhận:
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Như vậy, có thể thấy, Thúy Kiều không chỉ được miêu 
tả là người con gái có nhan sắc rực rỡ: “Một hai nghiêng 
nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một, tài đành họa 
hai” mà nhan sắc ấy cũng góp phần làm nổi bật vẻ đẹp 
trong tâm hồn, phẩm cách của nàng. Đoạn thơ trên đã 
phần nào cho người đọc thấy sự thánh thiện, vẻ đẹp 
tinh khiết, phẩm cách trong sáng, cách ứng xử khéo 
léo, thông minh của Kiều đối với người yêu để vừa 
bảo toàn được tiết hạnh của người con gái vừa không 
làm tổn hại lòng tự trọng của người đàn ông. 
3. KẾT LUẬN
Đã có rất nhiều cách tìm hiểu khác nhau về vẻ đẹp của 
nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn 
Du. Bài viết của chúng tôi chỉ là một gợi ý nhỏ trong 
việc tiếp cận vẻ đẹp ấy để góp phần làm hoàn thiện 
thêm thế giới tâm hồn nhân vật Thúy Kiều. Thực ra, 
cách tiếp cận vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc 
nhìn văn hóa không phải là quá mới lạ, tuy nhiên cái 
mới ở đây là chúng tôi đã mạnh dạn đi sâu vào phân 
tích, tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật ở một đoạn thơ 
tiêu biểu cho việc giữ gìn tiết hạnh của người phụ 
nữ theo quan niệm xưa. Có ở trong hoàn cảnh của 
nhân vật Thúy Kiều, người đọc mới thấy hết được sự 
khéo léo, tài tình của Kiều trong việc sử dụng ngôn 
từ, viện dẫn các điển tích, điển cố văn học, để làm 
“vừa lòng” người yêu đồng thời không làm tổn hại 
đến nhân phẩm của mình. Đó phải chăng cũng là cái 
“tài” của đại thi hào Nguyễn Du?./. 
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Nguyên Cẩn (2015), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc 
nhìn văn hóa, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Vũ 
Thanh (1999), Nguyễn Du – về tác gia và tác phẩm, 
NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Trần Công Đường (2011), Truyện Kiều kể lại, NXB 
Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Thạch Giang (1999), Truyện Kiều, NXB Hà Nội.
5. Lê Bá Hán (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc 
Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 
Hà Nội.
6. Đặng Thanh Lê (1999), Truyện Kiều và thể loại truyện 
Nôm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Thiệu, Đào Duy Đạt (Biên dịch) (1996), 
Từ điển điển cố Trung Hoa, NXB Văn hóa – Thông tin. 
THUY KIEU’S BEAUTY IN THE TALE 
OF KIEU FROM LINE 499 TO LINE 524: 
AN ANALYSIS FROM THE CULTURAL 
PERSPECTIVE
TRAN THI THU HIEN
Abstract: Description of character portrait 
is one of the major artistic style of the genre 
Nom. “Truyen Kieu” is a Nom typical story in 
Vietnamese medieval literature. In “Truyen 
Kieu” there are many portraits of characters, 
divided into protagonists, villains and even 
intermediary characters (Hoan Thu). It can 
be said, “Truyen Kieu”has a tendency to 
followorthodox art trends so here appears 
sketch style and the language is more or less 
conventional, formulated with the use of 
classic and historical references, etc. when 
depicting characterportrait. But in some 
respects, Nguyen Du surpasses most classic 
molds to create vivid and variouscharacter 
portraitsamong which the character of Kieu 
is a typicaltestament. As portraying Thuy 
Kieu, Nguyen Du showeda tendency todepict 
mentality through appearance and even more 
than that he inclined. In the scale of this article, 
we are only going to figure out the beauty of 
the character Kieu - only from the cultural 
perspective (in the verse from line 499 to line 
524) of “Truyen Kieu”.
Keywords: perspective, character, Truyen Kieu, 
cultural, beauty.

File đính kèm:

  • pdfve_dep_cua_nhan_vat_thuy_kieu_tu_cau_499_den_cau_524_trong_t.pdf