Vận dụng nguyên tắc phân loại tài liệu trong khung phân loại thập phân Dewey

Đối với bất kỳ hoạt động nghiệp vụ

nào cũng đều tuân thủ những nguyên tắc

nhất định, công tác phân loại tài liệu cũng

không là ngoại lệ. Mỗi khung phân loại đều

có những nguyên tắc chung và nguyên tắc

riêng hay là các quy tắc. Hiện nay, hầu hết

thư viện đại học đều sử dụng khung phân

loại thập phân Dewey (gọi tắt là DDC) để

phân loại tài liệu cho thư viện. Tuỳ thuộc

vào điều kiện, yếu tố khác nhau của thư

viện, như: nguồn nhân lực, kinh phí, công

cụ phân loại, công cụ hỗ trợ phân loại, diện

phục vụ, v.v. mà ảnh hưởng đến công tác

phân loại tài liệu nói chung, việc lựa chọn

ký hiệu phân loại (KHPL) nói riêng, dẫn

đến việc các mức độ chi tiết, bao quát của

KHPL khác nhau. Chẳng hạn, người cán

bộ phân loại (CBPL) có thể dựa vào đối

tượng, diện phục vụ của thư viện để lựa

chọn KHPL ở mức độ tổng quát hay cụ thể.

Dù ở cách thức thực hiện công tác phân loại

tài liệu như thế nào, thì việc tuân thủ các

nguyên tắc chung cũng như quy tắc cụ thể

của DDC thực sự cần thiết.

pdf 12 trang kimcuc 10780
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng nguyên tắc phân loại tài liệu trong khung phân loại thập phân Dewey", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng nguyên tắc phân loại tài liệu trong khung phân loại thập phân Dewey

Vận dụng nguyên tắc phân loại tài liệu trong khung phân loại thập phân Dewey
38 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
Tóm tắt: Bài viết trình bày một số nguyên tắc và quy tắc của khung phân loại thập 
phân Dewey. Bằng phương pháp phân tích kết quả khảo sát trên mục lục truy cập công 
cộng trực tuyến của Th ư viện trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí 
Minh, bài viết nhận diện một số hạn chế trong công tác phân loại tài liệu cũng như quá 
trình vận dụng các nguyên tắc, quy tắc phân loại cụ thể trong thư viện. 
Từ khoá: Nguyên tắc; quy tắc; DDC; phân loại; thư viện
Th e application of Dewey Decimal Classifi cation Rules at the Library of the 
University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University, 
Ho Chi Minh City
Abstract: Th e article introduces Dewey Decimal Classifi cation Standards and Rules. 
Based on the survey results on the online access index of the library of the University 
of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University, Ho Chi Minh City, 
it identifi es some limitations in classifying documents as well as in applying specifi c 
classifi cation standards and rules at the library.
Keywords: Standards; rules; DDC; classifi cation; library
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI TÀI LIỆU 
TRONG KHUNG PHÂN LOẠI THẬP PHÂN DEWEY
(Từ thực tiễn phân loại tài liệu của Th ư viện trường 
Đại học KHXH&NV, ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh)
Th S Bùi Hà Phương
Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
Mở đầu
Đối với bất kỳ hoạt động nghiệp vụ 
nào cũng đều tuân thủ những nguyên tắc 
nhất định, công tác phân loại tài liệu cũng 
không là ngoại lệ. Mỗi khung phân loại đều 
có những nguyên tắc chung và nguyên tắc 
riêng hay là các quy tắc. Hiện nay, hầu hết 
thư viện đại học đều sử dụng khung phân 
loại thập phân Dewey (gọi tắt là DDC) để 
phân loại tài liệu cho thư viện. Tuỳ thuộc 
vào điều kiện, yếu tố khác nhau của thư 
viện, như: nguồn nhân lực, kinh phí, công 
cụ phân loại, công cụ hỗ trợ phân loại, diện 
phục vụ, v.v... mà ảnh hưởng đến công tác 
phân loại tài liệu nói chung, việc lựa chọn 
ký hiệu phân loại (KHPL) nói riêng, dẫn 
đến việc các mức độ chi tiết, bao quát của 
KHPL khác nhau. Chẳng hạn, người cán 
bộ phân loại (CBPL) có thể dựa vào đối 
tượng, diện phục vụ của thư viện để lựa 
chọn KHPL ở mức độ tổng quát hay cụ thể. 
Dù ở cách thức thực hiện công tác phân loại 
tài liệu như thế nào, thì việc tuân thủ các 
nguyên tắc chung cũng như quy tắc cụ thể 
của DDC thực sự cần thiết. 
Trong khung phân loại DDC, nguyên 
tắc chung và quy tắc cụ thể đã được tích 
hợp ngay trong chính bộ công cụ phân loại 
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016 | 39
mà thư viện áp dụng, và có một số công bố 
khoa học, bài viết đề cập đến những nguyên 
tắc, quy tắc này. Tuy nhiên, việc vận dụng 
nguyên tắc đã thực sự phù hợp, hay tính 
đảm bảo sự thống nhất trong thư viện ở 
mức độ nào là một trong những vấn đề ít 
được đề cập đến một cách đầy đủ. Do vậy, 
trên cơ sở phân tích một số kết quả khảo 
sát KHPL của thư viện trường Đại học 
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí 
Minh, bài viết cung cấp góc nhìn chi tiết 
hơn về việc vận dụng nguyên tắc phân loại 
chung và quy tắc cụ thể của khung DDC, từ 
đó góp phần cung cấp cách đánh giá thực tế 
vận dụng nguyên tắc vào công tác phân loại 
của thư viện Việt Nam hiện nay. 
Vận dụng và tuân thủ những nguyên tắc, 
quy tắc có những ý nghĩa nhất định như 
đảm bảo tính thống nhất trong quá trình 
phân loại, cũng như liên quan đến chất 
lượng sản phẩm của quá trình phân loại. 
Ngoài ra, một lợi ích khác giúp các thư viện 
có thể góp phần trao đổi, chia sẻ dữ liệu 
trong và ngoài hệ thống thư viện. Và đặc 
biệt, sản phẩm của quá trình phân loại cũng 
góp phần thể hiện sự chuyên nghiệp và thể 
hiện được trình độ chuyên môn của đội 
ngũ CBPL trong thư viện, từ đó giúp khẳng 
định vị thế của thư viện cũng như tạo dựng 
hình ảnh của thư viện đối với cộng đồng thư 
viện và người dùng tin. Dù ở ý nghĩa nào đi 
chăng nữa thì việc tuân thủ các nguyên tắc 
phân loại còn giúp thư viện cũng góp phần 
chuẩn hoá hoạt động nghiệp vụ TT-TV và 
chuẩn hoá công tác phân loại tài liệu.
1. Một số nguyên tắc phân loại tài liệu 
trong khung phân loại thập phân Dewey
Trong công tác phân loại tài liệu, CBPL 
không chỉ quan tâm đến những nguyên tắc 
cụ thể của từng khung phân loại áp dụng 
trong thư viện mà còn hiểu và vận dụng 
những nguyên tắc chung, cơ bản nhất của 
quá trình phân loại. Nguyên tắc chung 
trong phân loại tài liệu được hiểu là tập hợp 
các quy tắc được sử dụng chung cho hầu 
hết các khung phân loại, không phân biệt 
bảng phân loại áp dụng cụ thể nào. Nguyên 
tắc này giúp CBPL có thể hiểu rõ và thực 
hiện một cách cơ bản và khái quát nhất khi 
bắt đầu vào công tác phân loại tài liệu. Việc 
đảm bảo thực hiện các nguyên tắc chung 
trong phân loại giúp CBPL hiểu được các 
bước để có thể xác định được KHPL phù 
hợp với từng bảng phân loại mà thư viện 
đang sử dụng. Trong nguyên tắc phân loại 
chung gồm có nguyên tắc chủ yếu, nguyên 
tắc trực diện, nguyên tắc ưu tiên [5] với mỗi 
nguyên tắc có những ý nghĩa và yêu cầu 
nhất định đối với CBPL. 
Nguyên tắc chủ yếu là nguyên tắc chung 
đầu tiên trong công tác phân loại tài liệu mà 
mỗi CBPL phải tuân thủ. Mỗi tài liệu thường 
gồm nội dung và các khía cạnh nghiên cứu 
như loại hình, công dụng, ngôn ngữ, hình 
thức,... của tài liệu. Nguyên tắc chủ yếu đòi 
hỏi CBPL phải căn cứ vào nội dung tài liệu, 
sau đó căn cứ vào các khía cạnh nghiên cứu 
khác trong quá trình phân loại. Hay nói 
cách khác, nguyên tắc chủ yếu đòi hỏi khi 
phân loại tài liệu, CBTV phải phân loại nội 
dung trước khi lựa chọn các khía cạnh khác 
để hoàn thiện KHPL. Ví dụ, trong tài liệu 
“Cẩm nang dinh dưỡng cho bé”, thì “dinh 
dưỡng cho bé” sẽ được xác định KHPL 
trong bảng chính trước, sau đó mới phân 
loại “cẩm nang” bằng cách lựa chọn bảng 
phụ Tiểu phân mục chung. 
Nguyên tắc thứ hai chính là nguyên tắc 
trực diện yêu cầu CBPL phải tiếp cận trực 
tiếp tài liệu. Nguyên tắc này đòi hỏi tính xác 
thực của thông tin và mức độ đầy đủ của 
nội dung tài liệu mà CBTV đang phân loại. 
40 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
Bởi lẽ, nội dung tài liệu không chỉ phản ánh 
đơn thuần qua các dạng tài liệu thứ cấp, 
hoặc chỉ là tiêu đề chủ đề hay từ khoá, v.v... 
mà cần phải có nội dung chính văn của tài 
liệu. Điều này giúp cho việc xác định nội 
dung, định vị KHPL và xác định KHPL 
thuận tiện và hiệu quả hơn. Như vậy, hiểu 
một cách đơn giản, CBPL chỉ có thể tự tạo 
được KHPL bằng chính quá trình làm việc 
và xử lý trực tiếp tài liệu đang có trong thư 
viện và trong tay, mà không thông qua bất 
kỳ nguồn tài liệu thứ cấp nào khác. 
Lưu ý về nguyên tắc thứ ba chính là nguyên 
tắc ưu tiên trong phân loại tài liệu. Nguyên 
tắc này đòi hỏi CBTV phải phân loại những 
vấn đề cụ thể trước những vấn đề có tính 
chất khái quát. Ngoài ra, trong thực tiễn 
phân loại cho thấy, nhiều tài liệu không chỉ 
phản ánh một nội dung trong một tài liệu 
mà có hai hay nhiều nội dung khác nhau 
trong cùng một tài liệu. Các nội dung này 
thể hiện dưới dạng các vấn đề, chủ đề cụ thể 
và có hoặc không có mối tương quan với 
nhau. Tuy vậy, một trong những mối tương 
quan trong các chủ đề, vấn đề này chính là 
mối quan hệ áp dụng, tác động giữa một 
chủ đề/lĩnh vực đối với một chủ đề/lĩnh vực 
khác được phản ánh trong nội dung tài liệu. 
Khi đó, giải quyết vấn đề này bằng cách 
CBPL cần vận dụng nguyên tắc áp dụng để 
phân loại các vấn đề ứng dụng. Phân tích ví 
dụ “Ứng dụng công nghệ thông tin trong 
sinh học” cho thấy, lĩnh vực được tác động, 
được ảnh hưởng bởi lĩnh vực khác là “sinh 
học”, khi đó, “công nghệ thông tin” được 
xem là chủ đề/lĩnh vực áp dụng/tác động 
lên chủ đề “sinh học”. 
Nói tóm lại, các nguyên tắc phân loại 
chung này được xem là nguyên tắc cơ bản 
nhất đối với bất kỳ khung phân loại áp dụng 
nào cũng như đối với khung DDC. Tuy 
nhiên, trong thực tế, tuỳ thuộc vào từng 
bảng phân loại mà thư viện sử dụng, CBTV 
cần xem xét các quy tắc cụ thể hơn để có thể 
lựa chọn được KHPL phù hợp nhất có thể. 
Mary Mortimer (1998) đã hệ thống 
hoá 24 nguyên tắc phân loại của khung 
phân loại thập phân Dewey, gồm ba nhóm 
nguyên tắc phân loại chung, nhóm nguyên 
tắc đặt ra đối với cán bộ phân loại và nhóm 
nguyên tắc phân loại đối với những tài liệu 
có nhiều hơn một chủ đề [3]. Đối với từng 
trường hợp cụ thể, CBPL có thể linh hoạt 
vận dụng những nguyên tắc này trong quá 
trình phân loại tài liệu. 
Nhóm nguyên tắc phân loại chung bao 
gồm: (1) phân loại tài liệu vào vị trí hữu 
dụng nhất; (2) Phân loại tài liệu theo mục 
đích, ý định của tác giả đề cập trong tài 
liệu; (3) Trước tiên phân loại theo môn loại, 
sau đó là hình thức của tài liệu. Nguyên tắc 
này không áp dụng cho các tài liệu là tác 
phẩm văn học (Th ơ, kịch, diễn văn, ); (4) 
Đối với tài liệu là tác phẩm văn học, đầu 
tiên phân theo ngôn ngữ gốc, sau đó đến 
thể loại, rồi mới đến chủ đề tài liệu;  (5) 
Phân loại tài liệu vào ký hiệu cụ thể nhất 
phản ánh đúng nội dung tài liệu. Ngoài ra, 
đối với các loại hình tài liệu khác nhau hay 
có sự ưu tiên khi lựa chọn KHPL từ bảng 
chính và bảng phụ thì CBPL có thể vận 
dụng những nguyên tắc như: (11) Tài liệu 
là tiểu sử, nhật ký và hồi ký hoặc có thể 
phân loại cụ thể theo môn loại tài liệu hoặc 
phân loại vào mục tiểu sử tổng quát;  (12) 
Nhìn chung phân loại chính theo môn loại 
sau đó theo vị trí địa lý; (13) Khi tài liệu có 
sự chia nhỏ môn loại và phải lựa chọn giữa 
môn loại và vị trí địa lý thì phân loại theo 
môn loại. Như vậy, ở nhóm nguyên tắc này, 
CBPL cần phải đảm bảo công tác phân loại 
tài liệu phải dựa trên tính hữu dụng, có ích 
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016 | 41
đối với người dùng tin và quan điểm của tác 
giả tài liệu. Đặc biệt, CBPL phải phân loại 
dựa trên việc xử lý nội dung tài liệu (ngoại 
trừ tác phẩm văn học), trước khi đề cập đến 
việc xử lý hình thức, loại hình, ... của tài 
liệu. 
Nhóm nguyên tắc đặt ra đối với người 
cán bộ phân loại gồm những nguyên tắc 
liên quan đến yếu tố chủ quan và tính 
chủ động của CBPL. Việc tuân thủ những 
nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính thống 
nhất trong sản phẩm - ký hiệu phân loại và 
trong cả quá trình phân loại. Bởi lẽ CBPL 
tránh được việc áp đặt ý kiến cá nhân vào 
việc xác định nội dung tài liệu, tư tưởng 
của tác giả được thể hiện trong tài liệu cũng 
như CBPL luôn có sự chủ động trong tìm 
hiểu khung phân loại, chủ động ghi ghép, 
lưu ý trong suốt quá trình phân loại tài liệu. 
Cụ thể: (20) khi phân loại tránh áp đặt quan 
điểm cá nhân, không đánh giá đúng bản 
chất vấn đề tài liệu đề cập và chủ đề chính 
của tài liệu; (21) Cán bộ phân loại phải luôn 
có những lập luận, những lý do để phân loại 
tài liệu vào một mục cụ thể; (22) Phải luôn 
ghi nhớ những quyết định và sự lựa chọn 
ký hiệu; (23) Nhất thiết phải tìm hiểu bảng 
phân loại kỹ càng;  (24) Sau khi phân loại 
phải ghi lại những ký hiệu cho mỗi tài liệu 
trong mục lục hoặc trong ký hiệu xếp giá.
Nhóm nguyên tắc phân loại đối với 
những tài liệu có nhiều hơn một chủ 
đề. Nhóm nguyên tắc này còn đề cập đến 
lưu ý đối với việc phân loại có hai hay nhiều 
chủ đề được đề cập ngang nhau hoặc nhấn 
mạnh, tài liệu có chủ đề liên ngành, cụ thể: 
(6) tài liệu có hai hoặc nhiều hơn hai môn 
loại thì môn loại nào được đề cập đến nhiều 
nhất sẽ phân loại tài liệu theo chủ đề đó; (7) 
Nếu tài liệu có hai môn loại được đề cập 
như nhau, không có sự chú trọng, giải thích 
hay giới thiệu thì sẽ được phân loại cho môn 
loại nào có vị trí sắp xếp trước trong bảng 
phân loại; (8) Nếu tài liệu gồm hai lĩnh vực 
của cùng một môn loại thì phân vào mục 
cấp trên của hai lĩnh vực này trong môn loại 
đó (căn cứ vào trật tự của bảng); (9) Nếu tài 
liệu có ba hoặc nhiều hơn ba môn loại đều 
là sự chia nhỏ của một môn loại mà không 
có sự nhấn mạnh vào một môn loại nhỏ nào 
thì phân loại cho môn loại lớn;  (10) Phân 
loại  tài liệu có ba hoặc nhiều hơn ba môn 
loại khác nhau vào mục tổng quát; (14) Nếu 
có một môn loại bao trùm nhiều phần chi 
tiết (chia theo môn loại) thì định ký hiệu 
cho môn loại bao trùm đó; (15) Nếu tài liệu 
đề cập đến chủ đề nhỏ là chính (chủ đề nhỏ 
có thể nằm trong chủ đề chính) thì định 
ký hiệu cho chủ đề này; (16) Khi tài liệu có 
một  chủ đề được nhấn mạnh  đặc biệt, có 
khả năng đại diện cho các chủ đề khác thì 
xác định ký hiệu môn loại cho chủ đề này; 
(17) Khi chủ đề chính của tài liệu không 
được phản ánh trong khung phân loại (có 
thể đây là một chủ đề mới chưa được cập 
nhật) thì phân loại tài liệu đó theo ký hiệu 
môn loại gần nhất với chủ đề chính của tài 
liệu; (18) Khi tài liệu có hai chủ đề mà có 
sự đối lập thì phân loại theo chủ đề phổ 
biến, thịnh hành và phù hợp nhất với hiện 
tại; (19) Tài liệu đề cập hai mặt tốt và xấu 
của một vấn đề được xếp vào mục của vấn 
đề đó. 
Với nhóm nguyên tắc này, có thể nhận 
thấy một số vấn đề chung về việc phân loại 
tài liệu có từ hai chủ đề trở lên đó là: Th ứ 
nhất, đối với tài liệu có hai chủ đề trong cùng 
một môn loại thì CBPL có hai lựa chọn, 
hoặc là KHPL có vị trí thập tiến đứng trước 
trong khung phân loại (trường hợp hai chủ 
đề được đề cập ngang bằng nhau, không 
dùng để giải thích hay làm rõ cho nhau); 
hoặc là KHPL phản ánh chủ đề được đề cập 
42 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
nhiều hơn trong nội dung tài liệu (trường 
hợp một trong hai chủ đề được chú trọng 
nhấn mạnh. Th ứ hai, đối với tài liệu có từ 
ba chủ đề trở lên, hoặc là CBPL lựa chọn 
KHPL cho chủ đề được đề cập, nhấn mạnh 
nhiều nhất (trường hợp ba chủ đề không 
cùng một môn loại hay một lớp); hoặc là 
lựa chọn KHPL cho chủ đề hay môn loại 
bao trùm cả ba chủ đề đó (trường hợp ba 
chủ đề trong cùng một môn loại, một lớp). 
Ngoài ra, có thể tiếp cận các nguyên tắc 
này với sự phân biệt mang tính bao quát 
hơn, được xem là những quy tắc phân loại 
cụ thể đối với khung DDC. Các quy tắc này 
bao gồm quy tắc áp dụng, quy tắc lấy chủ 
đề thứ nhất trong hai chủ đề, quy tắc ba chủ 
đề và quy tắc liên ngành [5]. Th êm vào đó, 
M.P. Satija (2007) cũng đã phân tích một số 
quy tắc cụ thể liên quan đến quá trình phân 
loại tài liệu bằng khung DDC [4]. 
Th ứ nhất, quy tắc thứ nhất là quy tắc chủ 
đề thứ nhất trong hai chủ đề. Với quy tắc 
này, khi tài liệu có hai chủ đề cụ thể, CBPL 
chọn KHPL cho chủ đề có vị trí đứng trước 
trong khung phân loại. Ví dụ, cuốn sách 
giới thiệu về vật lý và hoá học sẽ được xếp 
vào 530 Vật lý, chứ không phải là 540 Hoá 
học. 
Quy tắc thứ hai là quy tắc ba chủ đề. Với 
quy tắc này dành cho tài liệu có từ ba chủ 
đề trở lên trong cùng một lớp, KHPL được 
chọn sẽ có ý nghĩa bao trùm cả ba chủ đề 
được đề cập trong nội dung tài liệu. Ví dụ, 
tài liệu liên quan đến số học, đại số và hình 
học sẽ có KHPL là 510 Toán học. 
Kế tiếp là quy tắc áp dụng đối với tài 
liệu có hai chủ đề liên quan nhau. Cụ thể 
là, khi tài liệu có một chủ đề tác động đến 
chủ đề còn lại thì KHPL sẽ được chọn vào 
chủ đề được tác động. Ví dụ, tài liệu đề cập 
đến việc ứng dụng toán học trong xây dựng 
cầu thì KHPL được chọn là xây dựng cầu 
chứ không phải là toán học. Nhưng trong 
trường hợp khác, tài liệu đề cập đến toán 
học dành cho kỹ sư, thì KHPL sẽ phải là 
toán học, không phải là kỹ sư. 
Ngoài ra, quy tắc khác là quy tắc đối với 
tác phẩm tổng hợp và tác phẩm liên ngành. 
Đối với tác phẩm tổng hợp (phản ánh nhiều 
khía cạnh của một chủ đề trong phạm vi 
một ngành) và tác phẩm liên ngành (nhiều 
khía cạnh khác nhau của một chủ đề được 
bàn đến trong nhiều ngành khác nhau), khi 
đó, quy tắc này sẽ cung cấp hướng dẫn để 
phân loại những tài liệu này. Th ông thường, 
những KHPL phản ánh tác phẩm liên 
ngành sẽ dễ dàng xác định được trong bảng 
tra liên quan của khung DDC. Chẳng hạn, 
tác phẩm đề cập đến trẻ em sẽ có KHPL cho 
tác phẩm liên ngành là 305.23, bàn về khía 
cạnh xã hội học, tâm lý học, nuôi dưỡng, 
giáo dục, phúc lợi, sức khoẻ, ...). 
Đặc biệt là quy tắc số không. Quy tắc 
số không được áp dụng trong trường hợp 
không có hướng dẫn cụ thể để xác định 
KHPL. Th eo quy tắc này, ưu tiên lựa chọn 
KHPL không có số 0 được thể hiện sau 
dấu chấm thập phân. Ví dụ, tài liệu bàn về 
“Đồ dùng ngoài trời bằng kim loại”, khi đó 
KHPL sẽ có hai sự lựa chọn: 
618.18 Đồ dùng ngoài trời
684.105 Đồ dùng kim loại. 
Tuy nhiên, với quy tắc này, KHPL sẽ ưu 
tiên chọn là 618.18 Đồ dùng ngoài trời. 
Tương tự, tài liệu về “Tội phạm chính trị 
Mafi a” sẽ có KHPL là 364.131 dù có hai 
KHPL gồm:
364.131 Tội phạm chính trị 
364.106 Tội phạm Mafi a 
Như vậy, dù các nguyên tắc chung hay 
nguyên tắc riêng được đề cập trong những 
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016 | 43
tài liệu khác nhau, nhưng khi CBPL thực 
hiện công tác đánh giá, phân tích nội dung 
và tạo lập KHPL cũng phải đảm bảo tuân 
thủ những nguyên tắc này. 
2. Th ực tiễn công tác phân loại và vận 
dụng nguyên tắc phân loại trong khung 
phân loại thập phân Dewey
Với những nguyên tắc, quy tắc đã có, 
nhiều thư viện đại học hiện nay cũng đã 
thực hiện và tuân thủ trong công tác phân 
loại tài liệu của thư viện. Tuy nhiên, việc 
tuân thủ nguyên tắc có thể không hoàn toàn 
tỷ lệ thuận với chất lượng sản phẩm của quá 
trình phân loại tài liệu. Bởi lẽ trong thực tế 
cho thấy, nhiều sản phẩm - ký hiệu phân loại 
- còn có những hạn chế nhất định và những 
hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên 
nhân khác nhau. Những hạn chế này dựa 
trên phương pháp phân tích kết quả chọn 
mẫu có chọn lọc qua mục lục truy cập công 
cộng trực tuyến OPAC tại Trường Đại học 
KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh. 
Một là, thiếu sự nhất quán khi ghép ký 
hiệu bảng chính và bảng phụ. Cụ thể, có 
những trường hợp CBPL ghép ký hiệu bảng 
chính với ký hiệu bảng phụ 1, 2; tuy nhiên, 
có những tài liệu tương tự, CBPL không 
ghép ký hiệu bảng phụ. Phân tích một số ví 
dụ cụ thể có thể nhận thấy rõ ràng sự thiếu 
nhất quán này. 
Tài liệu 1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh: dùng trong các trường đại học, cao đẳng
Tài liệu 2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Khi phân tích kết quả tra cứu trên 
OPAC cho thấy, cùng là một tài liệu có 
tiêu đề chủ đề bàn về Tư tưởng Hồ Chí 
Minh, phụ đề hình thức là “giáo trình”, 
44 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
Tài liệu 3. Giáo trình cơ sở môi trưởng nước
nhưng có hai KHPL gồm 335.4346 và 
335.4346071. Sự khác biệt ở đây chính là 
sự thiếu thống nhất trong quá trình tạo 
lập KHPL. KHPL ở biểu ghi thứ 2 được 
phân loại chi tiết hơn KHPL ở biểu ghi 
thứ nhất bằng cách ghép thêm ký hiệu của 
bảng phụ 1 là “giáo trình” – 071. Tài liệu 
3 là một trong những trường hợp không 
thống nhất trong việc ghép hay không 
ghép ký hiệu bảng 1. 
Tài liệu 4. Giáo trình cơ sở tiếng Việt thực hành: lưu hành nội bộ
Một ví dụ khác tương tự, tài liệu 4 có 
nhan đề “Giáo trình cơ sở tiếng Việt thực 
hành” có đến 2 KHPL trong cùng 1 biểu ghi 
là 495.92207 và 495.922971. Tuy vậy, đây có 
thể được xem là lỗi do nhập liệu của CBPL 
khi hiệu chỉnh KHPL bởi lẽ đối với khung 
DDC, CBPL chỉ được chọn duy nhất một 
KHPL cho mỗi tài liệu.
Tương tự, sự thiếu nhất quán còn thể 
hiện trong ghép ký hiệu bảng phụ 2. Trong 
biểu ghi bên dưới cho thấy, tài liệu có đề 
cập đến khu vực địa lý là các tỉnh Bắc 
Trung Bộ. Như vậy, với tài liệu này KHPL 
phải được ghép với ký hiệu của bảng phụ 2. 
Tuy nhiên, KHPL do thư viện tạo lập chỉ là 
577.5, không phản ánh khu vực địa lý trong 
ký hiệu. Tương tự, CBPL cũng không ghép 
ký hiệu bảng 2 để phản ánh khu vực địa 
lý được đề cập đến trong nội dung tài liệu 
trong khi tiêu đề chủ đề có phụ đề địa lý (tài 
liệu 5 và 6). 
Trong khi, một số tài liệu khác lại phản 
ánh đầy đủ khu vực địa lý trong KHPL. 
306 Văn hoá và thể chế
-09 Lịch sử, địa lý, con người (ký hiệu 
trung gian từ bảng 1 khi không có hướng dẫn 
ghép bảng 2)
-597 Việt Nam (bảng 2)
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016 | 45
Tài liệu 5. Hệ sinh thái gò đồi các tỉnh Bắc Trung Bộ
Tài liệu 6. Một số làng nghề Hà Nội
Tài liệu 7. Ấn tượng văn hoá đồng bằng Nam bộ
Hai là, sự thiếu thống nhất và khác biệt 
về mức độ chi tiết của KHPL. Trong nhiều 
trường hợp, ký hiệu của bảng chính ghép 
với ký hiệu của bảng phụ thể hiện mức độ 
chi tiết khác nhau. Trong cùng diện phục 
vụ của thư viện, nhưng có một số tài liệu, 
CBPL chỉ phân loại tài liệu ở mức độ bao 
quát nhất, trong khi đó, những tài liệu khác 
lại có mức độ phân loại chi tiết, cụ thể hơn.
Ví dụ, tài liệu 8 đề cập đến Nghệ An, 
nhưng KHPL chỉ phản ánh là ở Việt Nam 
nói chung. Trong khi một biểu ghi khác lại 
thấy sự khác biệt về mức độ phân loại chi 
tiết của KHPL, như Hoà Bình được đề cập 
đến trong nội dung tài liệu 9. 
392.30959719 Ẩm thực dân gian Mường 
vùng huyện Lạc Sơn, Hoà Bình.
46 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
Tài liệu 8. Âm nhạc dân gian xứ Nghệ
Tài liệu 9. Ẩm thực dân gian Mường vùng huyện Lạc Sơn, Hoà Bình
Trong đó: 391.3 Phong tục liên quan tới 
nơi ở và gia chánh 
Bao gồm cả nấu ăn, đồ đạc
-09 Ký hiệu trung gian từ bảng 1 (trường 
hợp không có hướng dẫn ghép bảng 2)
-59719 Hoà Bình (tỉnh)
Tài liệu 10. Ẩm thực Trung Quốc
Ba là, phản ánh không đầy đủ nội dung, 
các phương diện nghiên cứu của tài liệu. 
 Tài liệu đề cập đến du lịch ở Việt Nam, 
tuy nhiên, KHPL đã không thể hiện đầy đủ 
phương diện nghiên cứu mà tài liệu phản 
ánh. Phân tích biểu ghi cho thấy:
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016 | 47
Tài liệu 11. Modern conversational Korean = Giao tiếp tiếng Hàn hiện đại
Tài liệu 12. Hoạt động kinh tế của người Chăm làng Bàu Trúc ở Ninh Th uận: luận văn
394 Phong tục chung
.1 Ăn, uống; dùng chất kích thích
KHPL do thư viện phân loại là: 394.1. 
Như vậy, rõ ràng với tài liệu này, CBPL đã 
không phản ánh đầy đủ nội dung của tài liệu 
có đề cập đến “Trung Quốc” (tài liệu 10).
Bốn là, sự sai biệt giữa nội dung tài liệu 
và KHPL. Hay nói cách khác, KHPL không 
phản ánh nội dung của tài liệu như chủ đích 
của tác giả. Tài liệu 11 đề cập đến tiếng Hàn 
(KHPL trong khung DDC là 495.7), trong 
khi đó, CBPL lựa chọn KHPL là 495.4 Các 
ngôn ngữ Tạng – Miến. 
Phân tích KHPL của thư viện cho thấy, 
tài liệu có nhan đề là “Hoạt động kinh tế 
của người Chăm làng Bàu Trúc ở Ninh 
Th uận” có KHPL là về “Các dân tộc Nam 
Đảo ở Việt Nam, bao gồm cả người Chăm, 
Chu ru, Ra glai; Ê đê, Gia rai”. Tuy vậy, xét 
ở nguyên tắc ưu tiên khi phân loại tài liệu, 
CBPL nên lựa chọn KHPL là 330.959758 
(do ấn bản 14 không có bảng phụ 6 để phản 
ánh nhóm người Chăm). Trong đó:
330.9 Tình hình và hoàn cảnh kinh tế
.93-99 Nghiên cứu theo châu lục, quốc 
gia, địa phương cụ thể 
-59758 Ninh Th uận (tỉnh) 
--> KHPL đề nghị: 330.959758 
Năm là, thiếu sự tuân thủ các ghi chú 
khi phân loại. Tài liệu “Cẩm nang du lịch 
Hà Nội” được CBPL phân loại vào 910.2 khi 
phản ánh các chủ đề liên quan đến địa lý du 
hành, du lịch, v.v... (xem tài liệu 13). 
910 Địa lý và du hành (du lịch)
48 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
Tài liệu 13. Cẩm nang du lịch Hà Nội 
Tài liệu 14. Giao tiếp tiếng Hoa trong đời sống hằng ngày
.2 Tài liệu hỗn hợp
Bao gồm cả sách hướng dẫn du lịch thế giới
Xếp sách hướng dẫn du lịch tới khu vực, 
vùng, địa điểm nói chung vào 910.91; xếp 
hướng dẫn du lịch tới các châu lục, quốc gia, 
địa phương cụ thể tới 913-919, cộng thêm ký 
hiệu 04 từ bảng dưới 913-919. 
Trong trường hợp này, Hà Nội là một 
địa điểm, khu vực địa lý nói riêng, nên 
KHPL không thể là 910.2, mà đề nghị là 
915.973104; trong đó, 915.9731 là KHPL 
phản ánh nội dung là “du lịch Hà Nội” và 
“cẩm nang” có ký hiệu là -04 theo hướng 
dẫn bên dưới đề mục 913-919.
Tương tự, trong tài liệu 14, KHPL của 
CBPL lựa chọn đã phản ánh chi tiết chủ đề 
chính là tiếng Hoa và khía cạnh nghiên cứu 
của tiếng Hoa là “giao tiếp”. Gồm có: 
495.1 Tiếng Trung Quốc
-86 Sách tập đọc 
Tuy nhiên, CBPL đã không lưu ý quy tắc 
ghi phân loại đề tài là “tiếng Hoa” thuộc 
ghi chú bao gồm cả cũng như hướng dẫn 
ghép ký hiệu ở bảng phụ 4, dẫn đến KHPL 
không chính xác. Trường hợp này không có 
hướng dẫn ghép bảng 4 và không có xuất 
hiện dấu * trước đề tài là “tiếng Hoa” hay 
“tiếng Trung Quốc”, do vậy, CBPL chỉ cần 
dừng lại ở KHPL là ngôn ngữ được đề cập 
đến trong nội dung tài liệu mà không cần 
ghép thêm ký hiệu của bảng 4 để phản ánh 
khía cạnh nghiên cứu của ngôn ngữ. 
495 Ngôn ngữ Đông Á và Đông Nam Á 
Ngôn ngữ Hán – Tạng 
.1 Tiếng Trung Quốc 
.17 Các biến thể tiếng Trung Quốc được 
nói ở Việt Nam
Bao gồm cả tiếng Hán, Hoa, Ngái, Sán Dìu
CHIA SẺ KINH NGHIỆM
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2016 | 49
Nhìn chung, những sai biệt và thiếu 
sót, hay việc thiếu tuân thủ nguyên tắc, 
quy tắc khi phân loại tài liệu không 
chỉ diễn ra ở thư viện Trường Đại học 
KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh mà còn ở 
rất nhiều thư viện khác. Những kết quả 
này chỉ mang tính chất gợi mở để giúp các 
thư viện cùng nhìn nhận lại hiện trạng 
công tác phân loại của chính thư viện mình 
nhằm cải thiện tốt hơn công tác phân loại. 
Mặc dù, thực tế trong quá trình tìm tin, 
người dùng tin không bị ảnh hưởng quá 
nhiều bởi ngôn ngữ tìm tin theo phân loại 
như tìm theo nhan đề, chủ đề hay từ khoá, 
nhưng rõ ràng, có một tác động rất lớn khi 
người dùng tin có thể gặp tình trạng mất 
tin khi vị trí của tài liệu bị sai lệch do quá 
trình phân loại của CBPL. Hơn nữa, những 
sai sót cũng như thiếu tính nhất quán của 
CBPL trong công tác phân loại tài liệu dẫn 
đến những tác động lâu dài tới chất lượng 
hoạt động nghiệp vụ của thư viện trong bối 
cảnh các thư viện hướng đến chuẩn hoá các 
công cụ nghiệp vụ. Việc phân tích và nhận 
diện những hạn chế này không phải là cơ 
sở duy nhất để đánh giá chất lượng của 
công tác phân loại của một thư viện bất kỳ, 
tuy vậy, quá trình chuẩn hoá hoạt động thư 
viện nói chung, công tác phân loại tài liệu 
nói riêng không chỉ mang tính chất về mặt 
công cụ, mà nó còn thể hiện rất rõ ở chất 
lượng mỗi sản phẩm mà người CBPL tạo 
nên. Điều này có thể thực hiện được hiệu 
quả ở mức độ như thế nào phụ thuộc vào 
chính đội ngũ CBPL của mỗi thư viện. Đặc 
biệt, CBPL cần hiểu rõ khung phân loại 
như cấu trúc, thành phần, nguyên tắc xây 
dựng khung phân loại, ký hiệu, đặc điểm, 
hướng dẫn, quy tắc, ghi chú, v.v... của 
khung phân loại mà thư viện đang sử dụng 
về mặt lý luận. Mặt khác, việc thành thạo 
cách ghép, sử dụng và đặc biệt vận dụng 
được những nguyên tắc chung, quy tắc cụ 
thể trong quá trình phân loại được xem là 
những yêu cầu cơ bản để CBPL thực hiện 
vai trò của mình và góp phần tạo nên chất 
lượng sản phẩm của quá trình phân loại tài 
liệu nói chung, và sử dụng khung phân loại 
thập phân Dewey nói riêng. 
-----------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Melvil Dewey (2006). Khung phân 
loạ i thập phân Dewey và bả ng chỉ mụ c quan 
hệ: ấ n bả n 14. Th ư viện Quố c gia Việt Nam, 
Hà Nội. 
2. Melvil Dewey (2013). Khung phân 
loạ i thập phân Dewey và bả ng chỉ mụ c quan 
hệ: ấ n bả n 23: 4 tập, Th ư viện Quố c gia Việt 
Nam, Hà Nội. 
3. Mortimer, Mary (1998). Learn Dewey 
Decimal Classifi cation Edition 21, Canberra, 
DocMatrix Pty Ltd, 130 p.
4. M. P. Satija (2007). Th e Th eory and 
Practice of the Dewey Decimal Classifi cation 
System, Oxford, UK: Chandos Publishing, 
xix, 206p. 
5. Ngô Ngọc Chi (2009). Phân loại tài 
liệu: giáo trình ngành Th ư viện - Th ông tin, 
Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, 172 tr. 
6. Vũ Dương Th uý Ngà (2009). Phân 
loại tài liệu: giáo trình dành cho sinh viên đại 
học và cao đẳng ngành Th ư viện - Th ông tin 
học, Đại học Quốc gia, Hà Nội, 243 tr. 
7. Vũ Dương Th uý Ngà (2003). “Tìm 
hiểu các nguyên tắc phân loại của bảng 
DDC”. Tạp chí Th ông tin và Tư liệu, số 3, tr. 
14-17. 
8. Arlene G. Taylor. (2000), Wynar’s 
Introduction to Cataloging and Classifi cation, 
9th ed., with the assistance of David P, Miller 
Colorado, Libraries Unlimited, 552 pp. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 10-5-2016; 
Ngày phản biện đánh giá: 4-6-2016; Ngày 
chấp nhận đăng: 02-7-2016).

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_nguyen_tac_phan_loai_tai_lieu_trong_khung_phan_loai.pdf