Vai trò thể loại trong khoa học văn học dân gian và vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại

Trong khoa học văn học, văn học dân gian là một loại của nghệ thuật ngôn từ.

Tuy nhiên, nếu vấn đề thể loại trong văn chương viết chủ yếu thuộc phạm trù thẩm mĩ thì

với văn học dân gian, mỗi thể loại lại là một kết cấu nghệ thuật mang tính lịch sử. Do đó,

vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại phải xuất phát từ

nguyên lý cho rằng: “Trong văn học dân gian, thể loại là cái đơn vị cơ bản mà mọi công

việc nghiên cứu đều phải xuất phát từ đó” (V.Ia.Prop). Từ góc nhìn thể loại, việc phân

tích đánh giá thẩm mĩ từ cấu trúc đến nội dung và phong cách nghệ thuật các tác phẩm

văn học dân gian đều phải được đặt trong một trường hoạt động thực tiễn lịch sử cụ thể

thuộc về một thể loại; trong đó các hình thức - ý tưởng ở mọi cấp độ đều phải được giải

mã trong một trường liên tưởng ngữ nghĩa thuộc về một truyền thống văn hóa thẩm mĩ

của một dân tộc.

pdf 11 trang kimcuc 8160
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò thể loại trong khoa học văn học dân gian và vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò thể loại trong khoa học văn học dân gian và vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại

Vai trò thể loại trong khoa học văn học dân gian và vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại
6 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
VAI TRÒ THỂ LOẠI TRONG KHOA HỌC VĂN HỌC 
DÂN GIAN VÀ VẤN ĐỀ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC 
DÂN GIAN TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI 
Vũ Anh Tuấn 
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt : Trong khoa học văn học, văn học dân gian là một loại của nghệ thuật ngôn từ. 
Tuy nhiên, nếu vấn đề thể loại trong văn chương viết chủ yếu thuộc phạm trù thẩm mĩ thì 
với văn học dân gian, mỗi thể loại lại là một kết cấu nghệ thuật mang tính lịch sử. Do đó, 
vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại phải xuất phát từ 
nguyên lý cho rằng: “Trong văn học dân gian, thể loại là cái đơn vị cơ bản mà mọi công 
việc nghiên cứu đều phải xuất phát từ đó” (V.Ia.Prop). Từ góc nhìn thể loại, việc phân 
tích đánh giá thẩm mĩ từ cấu trúc đến nội dung và phong cách nghệ thuật các tác phẩm 
văn học dân gian đều phải được đặt trong một trường hoạt động thực tiễn lịch sử cụ thể 
thuộc về một thể loại; trong đó các hình thức - ý tưởng ở mọi cấp độ đều phải được giải 
mã trong một trường liên tưởng ngữ nghĩa thuộc về một truyền thống văn hóa thẩm mĩ 
của một dân tộc. 
Từ khóa : Phạm trù thẩm mĩ, phạm trù lịch sử, đánh giá thẩm mĩ, hình thức – ý tưởng, 
trường hoạt động thực tiễn, trường liên tưởng ngữ nghĩa. 
Nhận bài ngày 20.04.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 15.05.2020 
Liên hệ tác giả: Vũ Anh Tuấn; Email: tuan.v.a.sphn@gmail.com 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Mỗi thể loại văn học dân gian (VHDG) từ khởi thủy đều được hình thành và đạt đến 
đỉnh cao trong những thời đại khác nhau, theo đuổi những mục đích khác nhau, phản ánh 
những phương diện xã hội – lịch sử rộng lớn khác nhau bằng những cung cách nghệ thuật 
biểu hiện ổn định bền vững khác nhau và đều là một phạm trù lịch sử. Việc xác định hệ 
thống tiêu chí thể loại trong khoa học văn học dân gian vì thế trước nay giữa các nhà 
nghiên cứu trong học giới đều đã tương đối thống nhất với các bình diện: Hệ thống đề tài 
chủ đề, chức năng sinh hoạt thực hành xã hội, phương thức diễn xướng và thi pháp đặc thù. 
Tuy nhiên, khi tìm hiểu thực tiễn nghiên cứu giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường 
hiện nay vẫn thấy có tình trạng không tránh khỏi những cách quan niệm cực đoan, nếu 
không tuyệt đối hóa tính nguyên hợp của văn học dân gian từ góc nhìn văn hóa đến mức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 7 
muốn thoát ly văn bản thì lại đồng nhất văn bản văn học dân gian như là một tác phẩm văn 
chương viết. Thế nên khi trở lại vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn 
thể loại trong một Hội thảo khoa học toàn quốc tháng 12 năm 2019 tại khoa ngữ văn 
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chúng tôi cho rằng nên có một tiểu luận có tính chất xác 
định lại cơ sở phương pháp luận đối với việc chọn văn bản và dạy học văn học dân gian 
hiện nay trong xu thế đổi mới một cách cơ bản và toàn diện với phân môn trên tinh thần 
từng bước đưa chuyên ngành văn học dân gian (folklore study) vào nhà trường theo định 
hướng VHGD ứng dụng, từ hiểu biết đến thực hành văn hóa giữa đời sống. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Vai trò thể loại trong khoa học Văn học dân gian 
 Khác với văn học viết trong đó phân ngành văn học sử nói chung đều có cơ sở chắc 
chắc để mô tả các quá trình từ thời kỳ, giai đoạn, chủ nghĩa, trường phái, trào lưu đến tác 
giả tác phẩm ở những tọa độ lịch sử xác định, lịch sử văn học dân gian chỉ được mô tả 
bằng tiến trình phát triển của các thể loại – lịch sử trên cơ sở cho rằng “từ thời viễn cổ, văn 
học đã có sự gắn bó khăng khít và đặc thù với lịch sử” (M.Gorki). Do đó, sự hình thành lưu 
chuyển và biến đổi của các hiện tượng văn học dân gian về mặt lịch sử của nó nhìn chung 
không có nhảy vọt, mà vừa có tính chất rộng lớn liên tục, vừa chậm chạp trầm lắng. Quá 
trình phát triển các thể loại văn học dân gian Việt Nam cũng đã cho thấy chỉ có thể quan 
sát được nó trên một đại lượng đo thời gian rất lớn. Trên đại thể, xét trên bình diện thời 
gian văn hóa mỗi thể loại đều có quá trình nảy sinh và phát triển, nở rộ và suy tàn. Mặt 
khác, xét trên bình diện không gian văn hóa lại thấy đó còn là sự đan dệt phức tạp nhiều 
quá trình hoặc nối tiếp nhau, hoặc xen kẽ nhau trong trạng thái song hành giữa các thể loại 
cùng tồn tại và phát triển ở những mức độ khác nhau. Con người thời cổ đại sống trong, 
sống cùng, sống với cái môi trường tự nhiên và xã hội buổi đầu mà ngày nay chúng ta gọi 
là hình thái kinh tế xã hội nguyên thủy. Họ phải đối diện với rất nhiều thách thức của thực 
tại và không ai khác, chính họ phải đáp ứng. Đối diện với cái nhỏ bé, mong manh hữu hạn 
của con người là cái khổng lồ vô hạn vĩnh viễn của trời đất núi sông khiến người ta sùng 
bái. Kịp đến khi bước vào ngưỡng cửa của văn minh thì chính cái tự nhiên câm lặng, dữ 
dội, bí hiểm, mênh mông đầy bất trắc thuở ấy đã thúc đẩy trí tuệ của con người phải phỏng 
đoán và hình dung, tưởng tượng và tái hiện, Đó chính là nguồn gốc văn hóa của thần 
thoại. Con người bước vào thời đại đồng thau và sắt sớm. Đó cũng là thời điểm quá trình 
chế ngự và thắng đoạt tự nhiên của các nhóm xã hội có giới hạn buổi đầu đã đem lại cho 
con người những niềm hân hoan tột cùng sau khi họ vượt qua được vài ba thách thức đầu 
tiên. Sử thi cổ sơ có cảm hứng cội nguồn từ khát vọng thần thoại được thăng hoa một cách 
có ý thức. Kế đến là những cuộc chiến tranh bộ lạc diễn ra thường xuyên. Sử thi anh hùng 
và truyền thuyết ra đời, cuốn theo những mảnh vỡ của “thần thoại một đi không trở lại”. 
Một hình thái kinh tế - xã hội mới được thay thế với ba thiết chế: Gia đình, chế độ tư hữu 
và nhà nước. Lý tưởng dân chủ thị tộc cũ xung đột gay gắt với hệ tư tưởng mới. Sự tự nhận 
thức về số phận con người “bao giờ đến được ngày xưa” được trình bày lại một cách thần 
kỳ trong những giấc mơ cổ tích. Các thành tựu nghiên cứu văn học dân gian trước nay đã 
8 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
khẳng định: Thần thoại ra đời và chỉ phồn phịnh trong thời đại thần thoại. Sử thi dân gian 
chỉ ra đời và tỏa sáng trong thời đại sử thi. Theo đó, thời đại anh hùng và ý thức dân tộc 
trưởng thành đẻ ra và nối dài truyền thuyết lịch sử. Thế nên nếu chúng ta “xét riêng sự 
phát triển của dòng tự sự dân gian, chúng ta sẽ thấy thái độ chọn lựa đối với thực tế trải 
qua con đường tự sự phản ánh khái quát những quá trình lịch sử cơ bản đến chỗ đi sâu 
dần vào quá trình lịch sử cụ thể riêng biệt. Ở những thể loại ra đời sau của tự sự lịch sử 
dân gian, lịch sử đã phân hóa ra thành những biến cố, hơn nữa đã khúc xạ thành những số 
phận cá nhân. Những biến cố và số phận các cá nhân này đã được lựa chọn theo quan 
điểm của sự phản ánh và sự đánh giá những quan hệ xã hội” (1). Nếu chúng ta xem xét sự 
phát triển của dòng trữ tình dân gian, sẽ thấy không tránh khỏi ở đấy có sự đan xen chồng 
lấn phức tạp giữa các nhóm thể loại, bởi sự quên lãng và đứt mạch không thể phục nguyên 
của ngôn ngữ lời nói vần và thơ ca dân gian đã thất truyền. Thế nhưng nếu căn cứ vào 
thành tựu của các khoa học liên ngành để tiến hành phân tích và luận giải trên một khối 
lượng tài liệu lớn về các câu hát, bài hát dân gian hiện đã sưu tập được thì có khả năng 
những đặc điểm có tính quy luật của các quá trình phát triển nội tại trong thế giới nghệ 
thuật ca dao cũng sẽ trở nên rành mạch, sáng tỏ. Như vậy, hiển nhiên trong khoa học về 
văn học dân gian vấn đề thể loại trở thành tâm điểm của mọi vấn đề. 
 Vai trò thể loại trong khoa học văn học dân gian còn cần phải được xác định ở cấp độ 
sâu xét trên các đặc điểm về thi pháp thể loại. Ở đây đặt ra những khía cạnh có quan hệ 
trực tiếp đến tính đặc thù trong việc phân tích tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường. 
Tính đặc thù này đã biểu hiện trực tiếp trong việc xác định các tiêu chí phân loại thể loại 
văn học dân gian. Trong đó, nếu xét văn học dân gian từ góc độ là một loại của nghệ thuật 
ngôn từ, sẽ nhận ra rằng ở bộ phận này chỉ có sự khác biệt về thi pháp thể loại, nói rộng ra 
là phong cách thể loại. Đối với văn học viết, giữa các tác phẩm có cùng đề tài, chủ đề cùng 
thuộc về một thể loại và giả định còn cùng được sáng tạo trong cùng một thời gian không 
gian xác định nhưng nếu là sản phẩm của những tác giả khác nhau, chúng vẫn có sự khác 
biệt độc đáo về cấu trúc thẩm mỹ, về bút pháp và giọng điệu, Ngược lại ở văn học dân 
gian, sự khu biệt giữa các tác phẩm trong cùng một thể loại xét trên các góc độ tương đồng 
như thế hầu như lại thấy rất mờ nhạt. Với truyện cổ tích thần kỳ, tất cả đều tương đồng về 
hình thức cấu tạo cốt truyện, về phong cách biểu hiện, về nghệ thuật sắp đặt các tình 
huống, về cách thức mô hình hóa cấu trúc loại người mang tính quan niệm. Với bài ca trữ 
tình dân gian, mỗi mẫu đề tương ứng với một hệ thống của công thức truyền thống có giá 
trị sử dụng như một ngân hàng phương tiện và chất liệu nghệ thuật dùng chung. Với chèo 
sân đình, các đài từ dù là ứng tác cũng phải tuôn theo cả một hệ thống các quy tắc của nghệ 
thuật trình diễn có tính chuẩn mực ước lệ đến từng chi tiết, đối với từng kiểu loại nhân vật. 
Phương thức sáng tác tập thể - truyền miệng của văn học dân gian đã quyết định phong 
cách thể loại của các tác phẩm văn học dân gian. Không mang cá tính sáng tạo, văn học 
dân gian không có phong cách cá nhân không có thi pháp tác gia như văn học hiện đại. 
Không phải là sản phẩm nghệ thuật của một tác giả mà thân thế và sự nghiệp của người 
viết dù muốn hay không vẫn có mối quan hệ trực tiếp với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, văn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 9 
học dân gian không có phong cách thời đại, không có thi pháp thời kỳ, giai đoạn như văn 
học trung đại. Thừa nhận tính lịch sử của thể loại văn học dân gian, sẽ thấy ở mỗi thể loại 
đều có sự ổn định bền vững điển hình về phương pháp lịch sử bởi nó được sáng tạo theo 
nguyên tắc có tính lặp lại. Và chính đặc điểm này đã tạo nên sự khác biệt giữa hai hệ 
thống: Thi pháp văn học viết và thi pháp văn học dân gian. Cả hai hệ thống thẩm mỹ này 
đều được hiểu là tổ hợp những đặc điểm về hình thức nghệ thuật thành tạo nội dung và 
mang tính quan niệm. Nhờ nó mà văn học viết và văn học dân gian xây dựng những bức 
tranh về cuộc sống, sáng tạo những hình tượng về con người và những hiện tượng khác 
nhau của thực tại mội cách thẩm mỹ. Điểm khác biệt là ở nguyên tắc tư tưởng thẩm mỹ. 
Nếu thi pháp văn học viết là thi pháp văn bản cố định và là kết quả sáng tạo bằng kỹ thuật 
của tác giả cá thể, là thi pháp của cá tính nghệ sĩ được thực hiện theo nguyên tắc lựa chọn 
điển hình hóa thì thi pháp văn học dân gian lại là sự tổng hòa của các yếu tố hình thức đặc 
trưng bằng sự vận động thường xuyên theo nguyên tắc lựa chọn khái quát hóa mà sự khái 
quát này chỉ được thừa nhận trong tính truyền thống thẩm mỹ thuộc về một dân tộc. Nếu 
thi pháp văn học viết nhấn mạnh yêu cầu cách tân trong sự sáng tạo của cá tính nghệ sĩ, chỉ 
chấp nhận “cái riêng biệt”, “cái mới lạ” độc đáo theo xu hướng vượt ra khỏi cái gọi là ký 
ức thể loại, cái mô hình chung thì thi pháp văn học dân gian lại chấp nhận “cái quen thuộc” 
“cái lặp lại” đã trở thành sở hữu chung, đi vào kí ức chung của mỗi thành viên trong cộng 
đồng, và hơn thế nó đã trở thành kỷ niệm riêng của cả một dân tộc. Hệ luận của vấn đề 
khác biệt thứ hai này là chính nó đã tạo nên các giá trị đặc sắc và bền vững trong phẩm 
chất thẩm mỹ của hệ thống thi pháp thể loại văn học dân gian: Tác phẩm văn học dân gian 
mỗi lần được diễn xướng trong một ngữ cảnh xã hội nhất định và trong một phong cách 
nghệ nhân cụ thể đều được xem là một lần tái sáng tạo. Và sự lặp lại đó chính là sự gặp lại, 
sự nhận ra, sự trở về với cái đẹp thuần khiết vốn đã được tích hợp trong trường liên tưởng 
ngữ nghĩa của một dân tộc, như Heghen quan niệm. Đó là cái đẹp mà để cảm nhận được 
nó, người ta phải trở về trên những lối mòn, những con đường sâu kín tiềm tàng chứa đầy 
những chân lý cổ thời, đã được thử thách cùng với thời gian. Có lẽ chính các nhà văn thời 
kỳ trung đại là những nghệ sĩ nhạy cảm trước hết với điều đó. Không phải ngẫu nhiên “tác 
giả thời trung cổ rất ít khi muốn nghĩ ra được một cốt truyện gì mới mẻ khác thường. Anh 
ta thường cố gắng diễn đạt theo cách mới trên một cốt truyện đã có sẵn giỏi đến mức 
che mờ nguyên tác”(B.L.Riptin). Và “nhà văn trung cổ không sáng tạo ra những cốt truyện 
mà dường như chỉ kể lại và kết hợp lại những mô típ xa xưa khi thì bằng văn xuôi, khi thì 
bằng thơ” (Guipxop). Và “đó chính là nguyên nhân tạo nên một số lượng lớn tác phẩm cải 
biên của cùng một số cốt truyện trong văn học trung cổ ở phương Đông và phương Tây. Ở 
đây dễ dàng chấp nhận thấy rằng những cốt truyện mới thường được hình thành trong 
truyền thống văn học dân gian và từ đó được các nhà văn vay mượn” (B.L.Riptin). Càng 
gần về thời kỳ hiện đại, sự cảm nhận và sử dụng như một “sự trở về” như thế trong văn học 
viết càng trở nên tinh tế, sâu sắc hơn. Trong một số trường hợp, sự vận động sáng tạo lại 
các giá trị tinh hoa truyền thống văn học dân gian của các tài năng sáng tạo lớn trong lịch 
sử văn học Việt Nam đã khiến cho tác phẩm của họ chẳng những vào được sâu trong lòng 
người đọc Việt Nam, mà còn đứng được trong văn học nhân loại ở một vị trí riêng độc đáo. 
10 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
Thế nên vấn đề không phải như trước nay có những người quan niệm công thức truyền 
thống – tức là những yếu tố ổn định điển hình có tính lặp lại – chẳng qua cũng chỉ là biểu 
hiện của một loại văn chương của tầng lớp văn hóa thấp của cái thời chưa có chữ viết, chỉ 
là một cách thức để người ta dễ nhớ, dễ truyền. Trong xã hội hiện đại, một nhà folklore học 
hàng đầu của Mỹ hiện nay là A.Dundes trong công trình Ai là người sáng tác văn học dân 
gian đã cho rằng: Quan niệm người sáng tác văn học dân gian là người mù chữ trong một 
xã hội có chữ viết là một quan niệm cũ không còn phù hợp. Đó là một quan điểm đã lỗi 
thời của các nhà folklore học châu Âu thế kỷ XIX. Sau khi dẫn chứng hàng loạt những mẩu 
chuyện dân gian đương đại Mỹ, ông viết đại ý: Người sáng tác văn học dân gian trong 
những trường hợp này đều là những người biết chữ, không một ai là người sáng tác dân 
gian trong những ví dụ này là nông dân hoặc người ở tầng lớp thấp. Nhiều người chắc chắc 
là những người thành thị và thuộc tầng lớp trung lưu. Cần phải nói rõ như vậy nếu người 
nào đó quan tâm có những phân biệt như vậy hoặc áp dụng cách gọi như vậy. Thực tế có 
người sáng tác dân gian thành thị và cũng có những người sáng tác dân gian nông thôn. 
A.Dundes còn bàn đến các sáng tác folklore trong mối quan hệ với các phương tiện truyền 
thông hiện đại. Theo ông, các công nghệ hiện đại như điện thoại, radio, tivi, chỉ làm tăng 
thêm tốc dộ lưu truyền mà không hề làm biến mất văn hóa, văn học dân gian hiện đại. 
Trong các ví dụ về văn học dân gian đương đại Mỹ của A.Dundes vẫn chứa đầy những yếu 
tố lặp lại. Sự lặp lại đó rõ ràng là một nghịch lý về nguyên tắc thẩm mỹ folklore khi so 
sánh với văn chương viết, song chính nó mới là đặc điểm của nguyên tắc tư tưởng, thẩm 
mỹ folklore, tạo nên những giá trị đặc thù của mỹ học folklore, lặp lại mà không nhàm 
chán, quen thuộc mà vẫn hấp dẫn. Và chính quá trình sáng tạo và tái sáng tạo của thi pháp 
văn học dân gian theo nguyên tắc có tính lặp lại như t ... ích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại vẫn là điều kiện tiên quyết đối 
với các hoạt động dạy và học tác phẩm văn học dân gian. Việc triển khai các phương pháp 
cụ thể sẽ được lập trình và gợi ý trong các sách giáo viên, đã và đang được tiếp tục đổi mới 
theo hướng folklore ứng dụng, từ hiểu biết đến thực hành văn hóa. Phạm vi giải quyết vấn 
đề này hiện nay cũng chính là một bước phát triển mới theo định hướng nghiên cứu - giảng 
dạy văn học dân gian theo tinh thần tiếp cận một tác phẩm folklore như chúng tôi đã tự đổi 
mới từ những năm gần đây, vừa có tính kế thừa tiếp nối, vừa có sự phát triển ở bề sâu để 
tiếp tục đem lại một chất lượng mới. Kế thừa phương hướng trên bởi vì chỉ có như thế thì 
việc phân tích một tác phẩm văn học dân gian mới tránh được những hạn chế như trước 
đây đã từng đồng nhất với việc phân tích tác phẩm văn học viết, xa rời bản chất và đặc 
trưng văn học dân gian. Hơn nữa, như chúng ta đã biết việc phân loại văn học dân gian ở 
cấp độ thể loại căn cứ vào các thành tựu của khoa học chuyên ngành văn học dân gian 
phải thỏa mãn đến bốn tiêu chí: Hệ đề tài chủ đề, chức năng sinh hoạt, phương thức diễn 
xướng và thi pháp đặc thù. Thế nên việc phân tích tác phẩm văn học dân gian không thể 
không tính đến những yếu tố ngoài văn bản. Mặt khác, chỉ có sự phát triển ở bề sâu trên cơ 
sở tiếp nối phương hướng nói trên mới đáp ứng được mục đích hàng đầu của giới hạn từ 
góc nhìn thể loại. Cái giới hạn phân tích tác phẩm từ góc nhìn thể loại đối với các sáng tác 
nghệ thuật ngữ văn dân gian luôn đòi hỏi chúng ta phải khảo sát so sánh đối chiếu liên văn 
bản, phải tính đến những đặc điểm riêng của văn bản văn học dân gian, phải dựa vào đặc 
điểm thi pháp đặc thù thể loại trong việc định hướng tiếp cận và đánh giá thẩm mỹ. 
 Để đáp ứng được phương pháp luận giải đã xác định như trên, việc phân tích tác 
phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại dứt khoát phải tiến hành từ khâu đầu tiên là 
tìm hiểu và xây dựng được cái mà chúng tôi gọi là bộ hồ sơ về một tác phẩm. Điều này đối 
với phần lớn các tác phẩm văn học viết trong một góc nhìn nào đó có thể là không quan 
trọng bởi vì trước khi tiến hành phân tích một sáng tác của một nhà văn nhà thơ đã có tên 
tuổi, thân thế và sự nghiệp của họ chắc hẳn đã gắn liền với một tọa độ lịch sử xác định, mọi 
chuyện đều đã có thể trở nên rõ ràng sáng tỏ. Tác phẩm đó thuộc thể loại nào, với văn học 
viết hiện đại thì đã được ghi rõ ngay trước hoặc sau tác phẩm, với văn học trung đại thì hầu 
hết nó đã được gắn vào tên tác phẩm: Hịch tướng sĩ văn, Bình Ngô Đại Cáo, Bạch đằng 
giang phú, Chinh phụ ngâm, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Trái lại, với số phận lịch sử của 
một tác phẩm văn học dân gian thì bao giờ cũng chứa đầy những ẩn số phải kiếm tìm. Văn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 13 
bản tác phẩm văn học viết luôn luôn là một chỉnh thể ngôn ngữ nghệ thuật hoàn chỉnh khép 
kín ổn định. Mỗi văn bản văn học dân gian trong tính đặc thù của bộ phận văn chương 
truyền miệng lại chỉ là một lát cắt đồng đại. Đối với lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian, 
để khảo sát một tác phẩm chỉ có một cách duy nhất tối ưu là phải tiến hành ghi đi ghi lại nó 
bằng những lần khác nhau, ở những địa phương khác nhau, từ các nghệ nhân khác nhau và 
trong những thời điểm khác nhau của các thế hệ tiếp nối nghiên cứu khác nhau. Phải xem 
văn bản của tác phẩm ấy không chỉ là đối tượng, mà còn là mục đích của sự khảo cứu. Đến 
lượt mình, chúng ta phải trên cơ sở phân tích một liên văn bản để đối chiếu với cái văn bản 
được chọn lựa, nhận ra những nét tương đồng và dị biệt, những yếu tố bất biến và biển đổi 
trong một hệ thống mở. Từ đó xác định những đặc điểm trội của văn bản phân tích theo 
các tiêu chí phân loại để đặt nó vào một thể loại xác định. Chỉ có làm được như thế, chúng 
ta mới có thể tiến hành phân tích được các văn bản tác phẩm văn học dân gian đã được 
tuyển chọn vào sách giáo khoa như : Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn tinh Thủy tinh, Thánh 
Gióng, Chử Đồng Tử, mà việc xác định thể loại cho nó trong giới hạn nghiên cứu vẫn 
còn là vấn đề cần trao đổi. 
Trở lại vấn đề chung, để có được kết quả đáng tin cậy ở khâu đầu tiên như đã nói ở 
trên, chúng ta phải đặt tác phẩm văn học dân gian vào một trường hoạt động thực tiễn bao 
gồm môi trường diễn xướng, phương thức tồn tại và lưu chuyển, lý do xã hội và lý do nghệ 
thuật, chức năng sinh hoạt thực hành, cảm hứng tập thể đồng sáng tạo. Nguyên tắc số một 
này chính là xuất phát từ đặc trưng nguyên hợp, là đã tính đến tất cả các yếu tố văn chương 
và các yếu tố phi văn chương trong sự thành tạo một đơn vị tác phẩm. Bởi vì những yếu tố 
phi văn chương ngoài văn bản này lại góp phần không nhỏ tạo nên cái sắc thái văn chương, 
làm nên vẻ đẹp riêng biệt của ngôn ngữ nghệ thuật văn học dân gian. Vả chăng, những yếu 
tố này đã hòa trộn, kết dính, đan lồng, gắn chặt với yếu tố ngôn từ trong văn bản đến mức 
tự nhiên không thể tách rời, như nó vốn có trong đời sống của thực tiễn sinh hoạt văn nghệ 
tổng hợp của nhân dân qua nhiều đời sáng tạo và sáng tạo lại. Khi tiến hành phân tích 
nhóm các bài ca trữ tình dân gian trong thế giới nghệ thuật ca dao chẳng hạn, chúng ta sẽ 
thấy đúng như Đinh Gia Khánh đã khẳng định “Nghệ thuật ngữ văn, một thành tố của văn 
hóa dân gian chỉ có thể phát huy đầy đủ chức năng thẩm mỹ khi gắn bó với các thành tố 
khác” (3) và Chu Xuân Diên đã nhận xét “Là thành phần chủ yếu trong tổng thể sinh hoạt 
văn hóa nghệ thuật dân gian, văn bản văn học dân gian in đậm dấu vết của những thành 
phần không phải văn học của tổng thể đó” (4). Những kết quả của công việc lập hồ sơ cho 
một tác phẩm văn học dân gian như trên nằm trong khâu chuẩn bị trước khi thiết kế văn 
bản phân tích. Nó phải được xem là một nhiệm vụ then chốt, là tinh thần cơ bản của quan 
điểm phân tích tác phẩm văn học dân gian theo tinh thần tiếp cận một tác phẩm VHGD. 
Trong khung phân tích tác phẩm văn học dân gian, nó phải được trình bày cực kỳ tinh giản 
như là các giả thiết về hoàn cảnh ra đời tác phẩm và tình hình văn bản, và cả quá trình 
chuyển hóa thể loại nếu có. Đây là một nội dung bắt buộc ở cấp độ tổng quát, bởi vì đó là 
những minh chứng xác thực về mặt lịch sử, là cơ sở khoa học cho việc phân tích ở cấp độ 
tác phẩm: Phải đặt các yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm vào một trường hành động thực 
14 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
tiễn bao gồm môi trường diễn xướng, phương thức tồn tại, chức năng sinh hoạt thực 
hành,... và ở cấp độ cụ thể phải giải mã nó trong một trường liên tưởng ngữ nghĩa của một 
cộng đồng. Trong các phân tích cụ thể, chúng ta cũng không thể không thường xuyên xem 
nó trong các mối quan hệ trở lại với những yếu tố ngoài văn bản. 
 Quan điểm này khẳng định việc phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể 
loại đã xác định văn học dân gian là một loại của nghệ thuật ngôn từ và văn bản vẫn là 
thành tố nghệ thuật quan trọng nhất hợp thành chỉnh thể một tác phẩm VHDG. Các yếu tố 
nghệ thuật trong tác phẩm nói ở trên chính là các yếu tố văn học thể hiện trong một văn 
bản đã được cố định. Đó là những “hình thức mang tính nội dung” đã trôi nổi ngàn năm 
trên cửa miệng người đời, vừa được thầm thấu vừa tỏa lan cái hồn cái tình, nỗi nhớ và kỷ 
niệm riêng, đã từng được cả cộng đồng ghi vào ký ức và nuôi dưỡng trao truyền qua nhiều 
cuộc thăng trầm biến đổi. Ví dụ một lời ru bên vành nôi: Cái cò đi đón cơn mưa. Ví dụ một 
câu ví: Cây đa cũ bến đò xưa. Không phải ngẫu nhiên mà từ thuở ông bà chúng ta chưa ra 
đời, những hình ảnh con cò, con bống, cái giếng giữa đàng, cái cầu dải yếm, đã trở thành 
những ẩn dụ trữ tình lớn trong ca dao miền xuôi; trong khi đó những hình ảnh con sâu 
vừng, con rồng leo, cây trám đen, con chim queng quý, lại chỉ gặp ở những câu hát dân 
ca miền núi. Người giảng dạy muốn gây ấn tượng phải biết tạo tâm thế, phải biết tạo các 
xung động thẩm mỹ trong những “trường hoạt động thực tiễn” nhất định, trong những hệ 
quy chiếu của “các công thức truyền thống” nhất định. Có như thế hệ số cảm xúc nghệ 
thuật mới được đẩy lên đến trạng thái kịch phát, đỉnh điểm. Người phân tích muốn khai 
thác hết được tình thực, ý sâu, lời đẹp trong những hình ảnh, biểu tượng như thế rõ ràng 
không thể cảm thụ được bằng suy diễn chủ quan. Và nhìn chung, chúng ta không thể phát 
hiện chính xác ngữ nghĩa của nó nếu không am hiểu truyền thống văn hóa trong từng nếp 
cảm, nếp nghĩ, nếp sống ở một vùng đã trở thành bản sắc riêng. Chúng ta phải có vốn sống 
và sự nhạy cảm đời thường thu nhận dược từ thực tiễn muôn vẻ, từ các kiến thức xã hội, 
lịch sử, địa lý, tâm lý, dân tộc học, nói rộng ra là văn hóa học. Có như thế, chúng ta mới 
có thể giải mã được các yếu tố nghệ thuật trong cấu trúc thẩm mỹ của một tác phẩm văn 
học dân gian. Việc phân tích đối với các tác phẩm văn học dân gian ở miền xuôi đã không 
đơn giản, thì đối với các tác phẩm văn học dân gian miền núi điều đó còn phức tạp hơn 
nhiều như với các sử thi Đẻ đất đẻ nước, Đam San; Các truyện thơ Tiễn dặn người yêu, 
Vượt biển, Để cùng chiếm lĩnh thế giới hình tượng trong đó, chúng ta phải tự nỗ lực thu 
hẹp khoảng cách văn hóa - thẩm mỹ giữa các vùng, miền, dân tộc. Thế nên để phân tích tác 
phẩm văn học dân gian, nguyên tắc phải đặt tác phẩm vào trong một trường liên tưởng ngữ 
nghĩa của một cộng đồng cũng là một yêu cầu phải được đảm bảo trong suốt quá trình triển 
khai các nội dung cụ thể. 
 Quan điểm thể loại văn học dân gian cũng đòi hỏi việc phân tích tác phẩm văn học dân 
gian phải dựa hẳn vào những đặc điểm thi pháp đặc thù thể loại của tác phẩm trong việc 
khai triển hệ thống các luận điểm, luận cứ, luận chứng và bám sát vào cấu trúc thẩm mỹ 
thể loại của văn bản để đánh giá thẩm mỹ các yếu tố hình thức - ý tưởng và các nguyên tắc 
kết hợp giữa các yếu tố đó như nó vốn tồn tại và lưu chuyển trong đời sống dân gian. Bởi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 15 
vì trong khoa học về văn học dân gian như đã nói ở trên, không có thi pháp tác phẩm. Và 
sự khu biệt vẫn nổi bật trong sự so sánh và đánh giá thẩm mỹ giữa các tác phẩm chỉ có thể 
được phân tích trong sự khu biệt về thi pháp thể loại. Trả lời cho câu hỏi “thi pháp là gì?” 
đối với cả văn học viết và văn học dân gian trong quan niệm đều là loại hình nghệ thuật 
ngôn từ, nhà folklore học Xô-Viết nổi tiếng, giáo sư Kratxop (1906-1980) đã quan niệm 
như sau: Thi pháp với tư cách là tổ hợp những đặc điểm hình thức nghệ thuật của các tác 
phẩm nghệ thuật ngôn từ bao gồm: 
 a. Những đặc điểm của cấu trúc tác phẩm. 
 b. Hệ thống những phương tiện phản ánh, nhờ những phương tiện này mà văn học viết 
và văn học dân gian xây dựng những bức tranh về cuộc sống, những hình tượng về 
con người và tái tạo những hiện tượng khác nhau của thực tại(các sự kiện lịch sử, sinh 
hoạt và đạo đức của con người, thiên nhiên). 
 c. Những chức năng tư tưởng – thẩm mỹ của cấu trúc tác phẩm và những chức năng 
tư tưởng thẩm mỹ của các phương tiện thể hiện một cách xúc cảm trước hiện thưc, sự 
đánh giá những sự kiện và hành vi của nhân vật, sự khám phá ý đồ sáng tạo cùng giá 
trị tư tưởng nghệ thuật và tay nghề sáng tạo ra tác phẩm. 
Theo Kratxop, văn học viết và văn học dân gian có nhiều cái chung, nhưng đồng thời 
văn học dân gian cũng có những đặc điểm riêng. Về phương diện thi pháp, đó là những đặc 
điểm hình thức của cách thức thể hiện và biểu hiện riêng của từng nghệ nhân. Thi pháp văn 
học dân gian còn bao gồm cả những đặc điểm của truyền thống dân tộc. Cho đến thời điểm 
hiện tại, trong các công trình lý thuyết về thi pháp học có rất nhiều quan niệm và định 
nghĩa về thi pháp và nhìn chung đều là các kết quả nghiên cứu trên các thành tựu của văn 
học viết. Do đó sự lựa chọn định nghĩa trên đây vể thi pháp chung cho cả hai loại hình 
nghệ thuật ngôn từ văn học dân gian và văn học viết để vận dụng vào việc phân tích tác 
phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại có ý nghĩa học thuật đặc biệt quan trọng. 
3. KẾT LUẬN 
 Để có một kết luận tổng quan cho toàn bộ những vấn đề chung trên đây, chúng tôi 
muốn nhấn mạnh: Thi pháp văn học dân gian và thi pháp văn học viết là hai hệ thống thẩm 
mỹ độc lập nhưng không đối lập. Phân tích tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường, 
đương nhiên đối tượng tiếp cận trực tiếp và chủ yếu vẫn là văn bản văn học, là dạng cố 
định. Do đó, các thao tác phân tích cụ thể vẫn có nhiều điểm chung như phân tích tác phẩm 
văn học viết. Tuy vậy, khác với văn bản văn học viết, dạng cố định của văn học dân gian 
còn có cơ sở từ hai dạng, dạng “hiện ra trong diễn xướng” và dạng “ẩn trong kí ức nghệ 
nhân”, luôn tồn tại ở dạng liên văn bản và vẫn còn đấy bằng cách này hay cách khác các 
mối liên hệ với các yếu tố ngoài văn bản. Thế nên nếu như việc phân tích tác phẩm văn học 
viết có rất nhiều cơ sở xác đáng để tạo nên những khoảng trống sáng tạo cho chúng ta thì 
việc phân tích tác phẩm văn học dân gian, đặc biệt với những tác phẩm đã lùi sâu vào quá 
khứ, chúng ta chỉ có một cách khám phá những giá trị đích thực của nó bằng cách phải dựa 
vào những khuôn hình, từ mã văn hóa đến mã thẩm mĩ. Đó là những khuôn mẫu điển hình 
16 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
ổn định bền vững ở những cấp độ khác nhau đã được sắp đặt trong một cấu trúc thẩm mỹ 
đặc trưng thể loại. Trong đó, mỗi cấu trúc thẩm mỹ của một thể loại nhìn chung đều đã 
được khái quát hóa trên những tác phẩm tiêu biểu ở thời kỳ đỉnh cao của nó trong tiến trình 
phát triển. Để giải mã những yếu tố nghệ thuật như thế, người phân tích không thể đồng 
sáng tạo, mà phải vận dụng những thành tựu của khoa học liên ngành. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, Nxb. 
ĐHSP Hà Nội I, tr. 35, Hà Nội. 
2. V.Ia. Propp (2004), Tuyển tập, Tập II, Folklore với thực tại, Nxb. Văn hóa dân tộc và Tạp 
chí Văn hóa – Nghệ thuật, tr. 473-474. 
3. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu Văn hóa dân gian, Nxb. KHXH, tr. 124. 
4. Nguyễn Xuân Kính (1989), Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian ở Liên Xô và Việt 
Nam, trong Văn hóa dân gian, những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb. KHXH, tr. 144-159. 
THE ROLE OF GENRE IN FOLK LITERATURE STUDY 
AND FOLK LITERATURE ANALYSIS 
Abstract: The study of literature describes folk literature as a part of language arts. 
However, while genre in terms of literature seems aesthetic, its role in folk literature is 
showing the historical side of art. This, therefore, leads to a perception that the analysis 
of folk literature based on genre approach needs to follow the principle: “Genre is a 
basic unit that becomes the foundation for every researches in the study of folk 
literature” (V.Ia.Prop). In the view of genre-based approach, the analysis and evaluation 
of folk literature’s structure, content and style in terms of aesthetic need to be seen in 
specific historical events relating to genre. This process also requires the explanation of 
both concept and idea regarding the semantic association of traditional aesthetic culture 
in a certain community. 
Key words: Aesthetic categories, historical categories, aesthetic analysis, concept – 
idea, practical activities, semantic association. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_the_loai_trong_khoa_hoc_van_hoc_dan_gian_va_van_de_p.pdf