Ứng dụng mô hình Hec-Ras mô phỏng ngập lụt cho lưu vực sông la trên cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều

Bài báo giới thiệu một số kết quả tính toán, mô phỏng ngập lụt trên lưu vực sông La sử dụng

mô hình Hec-Ras trên cơ sở kết thủy động lực 1-2 chiều. Vùng 1 chiều được kết nối với vùng 2 chiều thông

qua dạng kết nối bên. Số liệu đầu vào cho mô hình là số liệu về mực nước tại trạm Chợ Tràng và lưu lượng

dòng chảy tại trạm Sơn Diệm, trạm Hòa Duyệt. Bộ thông số mô hình được hiệu chỉnh và kiểm định với số

liệu thực đo mực nước trong hai trận lũ lớn tháng 10 năm 2010 và 2011 tại trạm Linh Cảm. Kết quả đánh

giá sai số bằng chỉ số Nash đều cho giá trị lớn hơn 0,9 chứng tỏ khả năng ứng dụng của mô hình trong mô

phỏng ngập lụt. Kết quả tính toán bằng mô hình cũng chỉ ra rằng, khu vực ngập nặng nhất là khu vực bờ

phải sông La với mức độ ngập trung bình là 2m, khu vực ngập ít nhất là khu vực bờ trái sông Ngàn Phố với

mức độ ngập là 0,5m.

pdf 12 trang kimcuc 9120
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng mô hình Hec-Ras mô phỏng ngập lụt cho lưu vực sông la trên cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng mô hình Hec-Ras mô phỏng ngập lụt cho lưu vực sông la trên cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều

Ứng dụng mô hình Hec-Ras mô phỏng ngập lụt cho lưu vực sông la trên cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018 - 
59
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HEC-RAS MÔ PHỎNG NGẬP LỤT CHO 
LƯU VỰC SÔNG LA TRÊN CƠ SỞ KẾT NỐI THỦY ĐỘNG LỰC 1-2 CHIỀU
Nguyễn Anh Ngọc, Hoàng Văn Đại
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
Ngày nhận bài 20/2/2018; ngày chuyển phản biện 21/2/2018; ngày chấp nhận đăng 20/3/2018
Tóm tắt: Bài báo giới thiệu một số kết quả tính toán, mô phỏng ngập lụt trên lưu vực sông La sử dụng 
mô hình Hec-Ras trên cơ sở kết thủy động lực 1-2 chiều. Vùng 1 chiều được kết nối với vùng 2 chiều thông 
qua dạng kết nối bên. Số liệu đầu vào cho mô hình là số liệu về mực nước tại trạm Chợ Tràng và lưu lượng 
dòng chảy tại trạm Sơn Diệm, trạm Hòa Duyệt. Bộ thông số mô hình được hiệu chỉnh và kiểm định với số 
liệu thực đo mực nước trong hai trận lũ lớn tháng 10 năm 2010 và 2011 tại trạm Linh Cảm. Kết quả đánh 
giá sai số bằng chỉ số Nash đều cho giá trị lớn hơn 0,9 chứng tỏ khả năng ứng dụng của mô hình trong mô 
phỏng ngập lụt. Kết quả tính toán bằng mô hình cũng chỉ ra rằng, khu vực ngập nặng nhất là khu vực bờ 
phải sông La với mức độ ngập trung bình là 2m, khu vực ngập ít nhất là khu vực bờ trái sông Ngàn Phố với 
mức độ ngập là 0,5m.
Từ khóa: Ngập lụt, kết nối thủy động lực 1-2 chiều, mô hình Hec-Ras, lưu vực sông La.
1. Đặt vấn đề
Lũ lụt là một trong những thiên tai gây ảnh 
hưởng nặng nề nhất đối với con người cũng như 
môi trường tự nhiên, là kết quả của quá trình 
tập trung nước với khối lượng lớn và tràn vào 
các vùng địa hình thấp gây ngập lụt trên diện 
rộng gây thiệt hại về cả người, tài sản và tác 
động tiêu cực đến môi trường sinh thái, ảnh 
hưởng trực tiếp tới đời sống và hoạt động kinh 
tế - xã hội. Vì vậy, mô phỏng và dự báo ngập lụt 
là công việc cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh 
biến đổi khí hậu hiện nay, góp phần làm giảm 
thiểu thiệt hại do thiên tai lũ lụt gây ra, làm cơ 
sở cho quy hoạch phát triền kinh tế các khu vực 
thường xuyên bị tác động.
Để mô phỏng và dự báo ngập lụt có nhiều 
phương pháp, trong đó phương pháp mô hình 
hóa luôn được đánh giá cao với những ưu thế 
nhất định như: tiết kiệm thời gian, chi phí, dễ 
dàng xây dựng, kết quả tính toán có giá trị thực 
tiễn cao. Thông thường, có 3 loại mô hình mô 
phỏng và dự báo ngập lụt: Mô hình 1 chiều, mô 
hình 2 chiều và mô hình kết nối 1-2 chiều. Đối 
với mô hình 1 chiều, với những vùng không có 
sự chênh lệch nhiều về cao độ, chỉ cần số lượng 
mặt cắt địa hình tương đối, mô hình có thể mô 
phỏng tốt diện ngập và mức độ ngập. Tuy nhiên, 
với những vùng có sự biến động lớn về địa hình, 
đầu vào cần phải có nhiều mặt cắt địa hình hơn 
mới có thể mô phỏng tốt khu vực ngập. Tuy vậy, 
kèm theo đó chi phí đo đạc rất lớn, gây khó khăn 
đối với những cơ quan, cá nhân hạn hẹp về kinh 
tế. Một số mô hình 1 chiều thông dụng hiện nay 
như: Mô hình Mike 11, Mike 11 GIS, DELTA-P... 
Các mô hình này được sử dụng linh hoạt để mô 
phỏng ngập lụt cho các lưu vực sông như trong 
một số nghiên cứu [3,4,5,8,9,10]. Với mô hình 
2 chiều, ngoài phần địa hình trên cao, địa hình 
lòng sông cũng cần được chi tiết hóa để mô 
phỏng chế độ thủy động lực trong sông, điều 
này phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng bản đồ 
số DEM. Hơn nữa, với cách thức tính toán của 
mô hình này, dữ liệu địa hình được chia thành 
từng pixel, giá trị cao độ được tính trung bình 
theo từng ô nên để mô phỏng tốt quá trình ngập 
lụt trong điều kiện địa hình biến đổi phức tạp thì 
cần phải sử dụng lưới với độ phân giải cao, đặc 
biệt là khu vực lòng sông, dẫn tới tốn nhiều thời 
gian tính toán. Một số mô hình 2 chiều được sử 
*Liên hệ tác giả: Nguyễn Anh Ngọc
Email: henry150986@gmail.com
60 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018
dụng rộng rãi như mô hình TELEMAC 2D [14], 
SOBEK [16], HEC-RAS 2D [15]. 
Đối với mô hình kết nối 1-2 chiều, đây là mô 
hình có nhiều ưu điểm, khắc phục được nhược 
điểm của mô hình 1 chiều, 2 chiều. Địa hình lòng 
sông được chi tiết hóa bằng các mặt cắt đo đạc 
trong vùng 1 chiều, các pixel được chia riêng rẽ cho 
vùng 2 chiều, giúp giảm thiểu thời gian tính toán. 
Hơn nữa, loại mô hình này còn thể hiện được đầy 
đủ các dạng kết nối khác nhau như kết nối trực tiếp 
vùng 1 chiều với vùng 2 chiều, kết nối bên, kết nối 
công trình, kết nối khô. Một số mô hình sử dụng kết 
nối 1-2 chiều thường được sử dụng hiện nay trong 
các nghiên cứu như mô hình Mike Flood [1,2,6,7], 
Hec-Ras 1-2D [11], Hec-Ras 1D kết hợp với mô 
hình IBER 2D [17]. Mô hình Hec-Ras 1-2D, ngoài 
những ưu điểm kể trên, đây còn là mô hình hoàn 
toàn miễn phí, rất hữu ích trong việc nghiên cứu 
mô phỏng, dự báo ngập lụt đối với các cơ quan, cá 
nhân hạn hẹn về kinh phí. 
Bài báo này giới thiệu một số kết quả ứng 
dụng mô hình Hec-Ras mô phỏng ngập lụt cho 
lưu vực sông La, tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở kết nối 
thủy động lực 1-2 chiều thông qua việc hiệu 
chỉnh và kiểm định với trận lũ năm 2010 và 2011.
2. Giới thiệu khu vực nghiên cứu
Lưu vực sông La nằm trong khoảng kinh 
độ từ 105°20’-105°37’, vĩ độ từ 18°23’-18°33’. 
Sông La là một phụ lưu của sông Lam, dài 
khoảng 12,5km chảy qua huyện Đức Thọ, tỉnh 
Hà Tĩnh. Sông La là hợp lưu của hai sông Ngàn 
Phố (từ Hương Sơn) và sông Ngàn Sâu (từ 
Hương Khê và Vũ Quang) tại bến Tam Soa (Linh 
Cảm, Đức Thọ). Sau đó, sông La hợp lưu với 
Sông Cả (từ Nghệ An) đổ ra biển tại Cửa Hội. 
Khu vực sông La có các dạng địa hình đồi núi, 
gò đồi ven trà sơn, thung lũng và đồng bằng với 
không gian hẹp. Địa hình thấp dần từ Tây sang 
Đông và bị chia cắt mạnh, phía Tây Nam của 
huyện Đức Thọ chủ yếu là núi thoải chạy dọc 
ven Trà Sơn, còn vùng núi dốc là ở những vùng 
giáp các huyện lân cận, xen giữa địa hình đồi 
núi là thung lũng nhỏ hẹp. Do vậy, hàng năm 
khu vực luôn chịu ảnh hưởng nặng nề của các 
trận lũ gây ngập úng.
Hình 1. Bản đồ mạng lưới dòng chính lưu vực sông La
3. Phương pháp nghiên cứu và số liệu đầu vào 
Đối với vùng 1 chiều, chế độ thủy động 
lực vẫn được diễn toán thông qua việc giải hệ 
phương trình Saint Venant. Với vùng 2 chiều, quá 
trình này được biểu diễn thông qua hệ phương 
trình Navier-Stokes bao gồm các phương trình 
bảo toàn động lượng và bảo toàn khối lượng. 
Do phạm vi nghiên cứu chỉ áp dụng mô phỏng 
ngập dạng kết nối bên nên trong phần này sẽ 
trình bày lý thuyết cơ sở kết nối thủy động lực 
1-2 chiều trong điều kiện chảy tràn. 
Mô hình Hec-Ras có khả năng mô phỏng qua 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018 - 
61
Hình 2. Mô phỏng quá trình trao đổi nước giữa sông, kênh và ruộng
Hình 3. Dòng chảy qua đập tràn không ngập
(Nguồn: U.S. Army Corps of Engineers Institute for Water Resources Hydrologic Engineering Center, 2016) 
các cửa đập, cửa nâng thẳng đứng (cửa cống) và 
cửa tràn. Phương trình được dùng để mô hình 
hóa các cổng có thể xử lý cả điều kiện ngập nước 
và không bị ngập nước ở cửa vào và cửa ra của 
cửa. Khi các cửa được mở ra độ cao lớn hơn độ 
cao mặt nước thượng lưu, chương trình sẽ tự 
động chuyển sang mô hình dòng chảy qua các 
cửa như là dòng chảy trôi. Khi mặt nước thượng 
lưu lớn hơn hoặc bằng 1,25 lần chiều cao của 
cửa (đối với đỉnh tràn của cửa) thì phương trình 
dòng chảy qua cửa được áp dụng. Khi mực nước 
thượng lưu trong khoảng 1,0 đến 1,25 lần so với 
cửa mở, dòng chảy sẽ di chuyển từ đầu cửa vào 
và cuối cửa vào. Chương trình tính toán đầu 
thượng lưu với cả hai phương trình và sau đó 
tính toán một trọng số trung bình tuyến tính của 
hai giá trị. Bên cạnh đó, mô hình cũng cho phép 
mô phỏng vùng 2 chiều dưới dạng hệ thống các 
ô ruộng. Các ô này liên kết với sông-kênh thông 
qua các hệ thống công trình như: Cống điều 
tiết, đập tràn đáy, đập tràn tự do, đập tràn có 
cửa điều khiển. Nước có thể chảy ra hoặc vào 
tuỳ theo tương quan mực nước giữa sông và ô 
ruộng (Hình 2) [12].
 Công thức tính toán như sau:
Q=CLH2/3 (2.1)
Trong đó:
C: Hệ số lưu lượng qua đập; 
(C nhận giá trị từ 2,6 đến 4,0 phụ thuộc vào 
hình dạng đỉnh đập).
L : Chiều dài của đập;
H : Cột nước ở thượng lưu đập.
Để mô phỏng ngập lụt, với bài toán thủy lực 
1 chiều, mô hình sử dụng dữ liệu đầu vào là các 
giá trị lưu lượng phía thượng lưu, các giá trị mực 
nước tại phía hạ lưu, dữ liệu địa hình là các mặt 
cắt ngang đại diện cho từng đoạn sông. Với bài 
toán kết nối thủy động lực 1-2 chiều, ngoài các 
dữ liệu như trong bài toán 1 chiều, yêu cầu bản 
đồ số DEM cho lưu vực tính toán để diễn toán 
vùng ngập. Hơn nữa, do diện ngập và mức độ 
ngập thực tế là tổng hòa của lượng nước tràn 
vào từ sông và lượng mưa rơi xuống nên yêu 
cầu phải có dữ liệu mưa.
4. Thiết lập mô hình
Lựa chọn và thiết lập mạng sông cho lưu vực 
tính toán là một trong các bước quan trọng để 
mô phỏng ngập lụt. Trong nghiên cứu này, do 
62 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018
Hình 4. Mạng thủy lực 1 chiều khu vực tính toán
đặc điểm địa hình phức tạp, nhiều đồi núi, thung 
lũng dốc và hẹp, xung quanh có nhiều hồ thủy 
điện nên lưu vực sông La thường xuyên chịu ảnh 
hưởng của lũ lụt. Do vậy, lưu vực sông La được 
chọn thí điểm để mô phỏng ngập lụt. Hệ thống 
thủy lực của sông La trong nghiên cứu này được 
giới hạn biên trên sông Ngàn Phố, tính từ trạm 
thủy văn Sơn Diệm đến ngã ba Linh Cảm với 12 
mặt cắt, biên trên sông Ngàn Sâu, tính từ trạm 
thủy văn Hòa Duyệt đến ngã ba Linh Cảm với 11 
mặt cắt, biên dưới trên sông La, tính từ trạm Linh 
Cảm đến trạm Chợ Tràng với 12 mặt cắt (Hình 4).
Kế tiếp bước thiết lập hệ thống mạng thủy 
lực 1 chiều là xây dựng hệ thống lưới tính 2 
chiều cho vùng ngập. Để đảm bảo mô phỏng 
được diễn biến cũng như phạm vi ngập lụt, căn 
cứ vào các khu vực ngập dựa trên ảnh vệ tinh, 
căn cứ vào địa hình (những nơi địa hình thấp 
có nhiều khả năng bị ngập úng) từ bản đồ số độ 
cao DEM đã đưa ra cơ sở để khoanh các vùng 2 
chiều. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, đã tạo 
ra 5 vùng 2 chiều để thực hiện kết nối với các 
sông thông qua dạng kết bên. Cụ thể, vùng 1 là 
khu vực bờ trái sông Ngàn Phố, vùng 2 là khu 
vực bờ phải sông Ngàn Phố, vùng 3 là khu vực 
bờ phải sông Ngàn Sâu, vùng 4 là khu vực bờ trái 
sông La, vùng 5 là khu vực bờ phảo sông La. Sau 
khi các vùng 2 chiều được khoanh vùng, đã tiến 
hành chia lưới cho 5 vùng. Việc chia lưới được 
tính toán dựa trên mức độ biến đổi địa hình của 
từng vùng 2 chiều, những khu vực ít có sự thay 
đổi về địa hình sẽ được chia lưới với độ phân 
giải thấp hơn, những vùng có biến động mạnh 
về địa hình sẽ được chia lưới với độ phân giải 
cao hơn. Trong nghiên cứu này, 5 vùng 2 chiều 
được chia lưới với độ phân giải 30x30m (Hình 
5), những thông tin chi tiết về lưới tính cho từng 
vùng cụ thể được trình bày trong Bảng 1.
Hình 5. Lưới tính vùng 2 chiều
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018 - 
63
Bảng 1. Hệ thống lưới tính từ vùng V1 đến vùng V5
TT Tên vùng Số ô lưới Diện tích (m²)
Nhỏ nhất Trung bình Lớn nhất
1 V1 37.158 503,09 903,22 1.706,75
2 V2 32.359 511,92 902,6 1.617,57
3 V3 34.477 519,99 902,75 1.590,15
4 V4 31.027 475,61 900,76 1.621,61
5 V5 53.788 530,42 902,67 1.638,62
Hình 6. Sơ đồ thủy lực tính toán mô phỏng ngập cho sông La
Sau khi mạng thủy lực sông và lưới tính chi tiết 
được thiết lập, để diễn toán được quá trình tràn 
qua bờ khi có lũ, đã tiến hành thiết lập các đoạn 
kết nối giữa vùng 1 chiều với vùng 2 chiều. Cơ sở 
thiết lập các kết nối này dựa vào quan hệ giữa 
diện tích lưu vực và cao độ (quan hệ F-Z). Quá 
trình kết nối giữa vùng 2 chiều với sông được kết 
nối tại các bờ sông thông qua kiểu kết nối bên, 
cụ thể: Vùng V1 kết nối với bờ trái của sông Ngàn 
Phố từ mặt cắt 2.680 đến mặt cắt 5.980, vùng 
V2 kết nối với bờ phải sông Ngàn Phố từ mặt cắt 
146 đến mặt cắt 2.680 và kết nối với bờ trái sông 
Ngàn Sâu từ mặt cắt 244 đến mặt cắt 3.475, vùng 
V3 kết nối trực tiếp với bờ phải sông Ngàn Sâu từ 
mặt cắt 1.796 đến mặt cắt 7.614, vùng V4 kết nối 
trực tiếp với bờ trái sông La từ mặt cắt 576 đến 
10.280, vùng V5 kết nối với bờ phải sông La từ 
mặt cắt 160 đến mặt cắt 6.130.
Nghiên cứu được thiết lập tính toán cho 2 trận 
lũ từ ngày 10/10/2010 đến ngày 31/10/2010 và 
từ ngày 05/10/2011 đến ngày 30/10/2011. Sơ 
đồ thủy lực được trình bày trong Hình 6. Đối với 
hệ thống thủy lực này, số liệu lưu lượng thực đo 
tại các trạm thủy văn Sơn Diệm, Hòa Duyệt sẽ 
được sử dụng làm biên trên, số liệu mực nước 
thực đo tại trạm thủy văn Chợ Tràng sẽ được sử 
dụng làm biên dưới. Với vùng 2 chiều, sử dụng 
số liệu mưa giờ thực đo tại trạm Hương Sơn.
 5. Kết quả tính toán
5.1. Hiệu chỉnh và kiểm nghiệm
Sau các bước thiết lập tính toán, nhằm đánh 
giá khả năng mô phỏng ngập lụt của mô hình Hec-
Ras trên cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều, 
đã sử dụng chuỗi số liệu mực nước thực đo tại 
trạm Linh Cảm trong thời gian từ 10/10/2010 
đến 31/10/2010 để so sánh với kết quả tính toán. 
Việc hiệu chỉnh được thực hiện thông qua thay 
đổi hệ số nhám tại các mặt cắt. Kết quả tính toán 
(Hình 7) cho thấy, có sự đồng nhất về pha và biên 
độ, giá trị mực nước cực đại tính toán là 6,78m, 
trong khi giá trị thực đo cực đại là 7,28m, chênh 
64 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018
Hình 7. So sánh mực nước tính toán và thực đo tại trạm Linh Cảm 
từ ngày 10/10/2010 đến ngày 31/10/2010
a. Kết quả diện ngập từ mô hình Hec-Ras b. Diện ngập từ ảnh vệ tinh UNOSAT [2]
Hình 8. So sánh diện ngập giữa kết quả tính toán và ảnh vệ tinh ngày 22/10/2010
lệch 0,5m. Chuỗi số liệu thực đo và tính toán 
được đánh giá sai số thông qua chỉ số Nash, kết 
quả tính toán thu được chỉ số Nash = 0,94 phản 
ánh mức độ tương quan của 2 chuỗi số liệu này. 
Với kết quả đánh giá này, có thể sử dụng bộ hệ số 
nhám (Bảng 2) để kiểm định mô hình.
 Để đánh giá toàn diện mức độ mô phỏng 
ngập trên cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều 
của mô hình Hec-Ras, bên cạnh hiệu chỉnh thủy 
lực đối với vùng 1 chiều, việc kiểm nghiệm 
phạm vi và mức độ ngập cho khu vực 2 chiều là 
rất cần thiết. Về phạm vi ngập, so sánh kết quả 
tính toán ngập lụt trên lưu vực với dữ liệu ảnh 
vệ tinh của UNOSAT vào ngày 22/10/2010 (Hình 
8) có độ phân giải 100m cho thấy, mô hình đã 
mô phỏng được diện ngập tại một số khu vực 
ngập sâu như các xã: Sơn Tiến, Sơn Trà, Sơn Mỹ 
thuộc huyện Hương Sơn và gần như toàn bộ 
khu vực huyện Đức Thọ. Tuy vậy, tại một số vị 
trí như tại xã Sơn Bình huyện Hương Sơn, có tới 
517ha diện tích bị ngập theo kết quả mô hình 
(Hình 8a), trong khi đó dữ liệu từ ảnh vệ tinh 
gần như không bị ngập (Hình 8b). Tại hầu hết các 
xã thuộc huyện Đức Thọ, theo ảnh vệ tinh, các 
khu vực ngập và không ngập xuất hiện đan xen, 
trong khi đó, theo kết quả tính toán từ mô hình 
gần như toàn bộ khu vực huyện đều bị ngập. Do 
dữ liệu ảnh vệ tinh có độ phân giải thấp (100m) 
nên chưa thể hiện được hầu hết các vùng ngập, 
mới chỉ thể hiện được những khu vực ngập sâu, 
đây có thể là một trong số những nguyên nhân 
gây ra sự chênh lệch với kết quả tính toán từ mô 
hình. Kết quả so sánh diện tích ngập tại một số 
khu vực được trình bày trong Bảng 2.
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018 - 
65
Bảng 2. Diện tích ngập tính toán và vệ tinh sau ngày 22/10/2010
TT Khu vực Diện ngập (ha)
Tính toán Vệ tinh Sai số
1 Bờ trái sông Ngàn Phố 723,6 464,9 258,7
2 Bờ phải sông Ngàn Phố 1.696,3 1.019 667,3
3 Bờ phải sông Ngàn Sâu 1.332,5 1.049 283,5
4 Bờ trái sông La 1.329,2 1.206 123,2
5 Bờ phải sông La 2.531,8 2.325 206,8
Hình 9. Mức độ ngập ngày 15/10/2010
 Về mức độ ngập, như đã biết, trận lũ từ ngày 
10/10/2010 đến ngày 22/10/2010 là trận lũ lịch 
sử với lưu lượng đỉnh lũ đạt trên 3.500m³/s tại 
trạm thủy văn Hòa Duyệt gây thiệt hại nặng nề 
tới đời sống của người dân. Kết quả tính toán 
cho thấy, vào ngày 15/10 tại một số xã: Sơn Tân, 
Sơn Hà, Sơn Thịnh thuộc huyện Hương Sơn mức 
độ ngập sâu dao động từ 0,8 - 2m (Hình 9), kết 
quả này phù hợp với dữ liệu thực tế thu thập 
được (mức độ ngập thực tế khoảng 1,2 - 2m). 
Qua các lần hiệu chỉnh, bộ thông số hệ số nhám 
của các sông được giữ nguyên sẽ được kiểm 
định trong các trận lũ từ ngày 05/10/2011 đến 
ngày 30/10/2011.
 Để làm tăng thêm tính phù hợp của mô hình 
trong mô phỏng ngập lụt, sau khi hiệu chỉnh, mô 
hình được kiểm định lại tại trạm Linh Cảm cho 
trận lũ vào năm 2011 với chuỗi thời gian từ ngày 
05/10/2011 đến ngày 30/10/2011. So sánh kết 
quả tính toán mực nước từ mô hình và chuỗi 
số liệu thực đo tại trạm Linh Cảm (Hình 10) cho 
thấy, giá trị thực đo và tính toán có sự tương 
đồng cao về pha và độ lớn, mực nước lớn nhất 
trong thời điểm xuất hiện đỉnh lũ tính toán được 
là 3,74m, với số liệu thực đo giá trị cực đại này là 
3,7m, mức độ chênh lệch không đáng kề. Đánh 
giá sai số giữa chuỗi số liệu thực đo và tính toán 
thông qua chỉ số Nash thu được giá trị 0,91, kết 
quả đánh giá này cho thấy bộ thông số sử dụng 
trong mô hình thuỷ lực đã phản ánh được chế 
độ thủy lực của mạng sông trong hệ thống sông 
La. Với kết quả này, bộ thông số mô hình có đủ 
độ tin cậy để tiến hành các tính toán thuỷ lực 
tiếp theo.
66 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018
Hình 10. So sánh mực nước trạm thực đo và tính toán tại trạm Linh Cảm (10/2011)
Bảng 3. Diện tích ngập sau ngày 15/10/2010
TT Khu vực Diện ngập tính toán (ha)
Sau 1 ngày Sau 3 ngày Sau 5 ngày Sau 7 ngày Sau 9 ngày 
1 Bờ trái sông Ngàn Phố 409,7 1.524,9 1.501,3 632,5 508,3
2 Bờ phải sông Ngàn Phố 289,3 1.752 1.635,2 1.613,1 1.264,2
3 Bờ phải sông Ngàn Sâu 453 1.782 1.696,9 1.840,8 954,4
4 Bờ trái sông La 1.017 2.210,8 2.356,6 2.022,1 1.530,1
5 Bờ phải sông La 91,1 1.438,3 3.926,6 4.053,3 4.546,8
 5.2. Kết quả mô phỏng
Sau 1 ngày lũ, nước bắt đầu tràn qua những 
khu vực bờ có địa hình thấp, sau đó lan rộng ra 
các khu vực xung quanh với khu vực ngập nhiều 
nhất theo tính toán là khu vực bờ trái sông La 
với diện tích ngập trên 1.000ha, mức độ ngập 
trung bình 0,5m, tại một số vùng có địa hình là 
những rãnh sâu mức ngập lên tới 1,6m. Tiếp 
đến, lần lượt là các khu vực bờ phải sông Ngàn 
Sâu, bờ trái sông Ngàn Phố, bờ phải sông Ngàn 
Phố và bờ phải sông La. 
Sau 3 ngày lũ, thời điểm này vẫn đang trong 
giai đoạn lũ phát triển, diện tích ngập mở rộng, 
lớn nhất là khu vực bờ trái sông La có khoảng 
2.210ha bị ngập với mức độ ngập trung bình sâu 
3m. Khu vực bờ trái sông Ngàn Phố có diện tích 
ngập lớn với 1.524ha, mức độ ngập trung bình 
1m.
Sau 5 ngày lũ, lưu lượng lũ tiếp tục gia tăng 
do các hồ thủy điện xả lũ kết hợp với mưa lớn 
gây ngập lụt cục bộ, phạm vi ngập tăng mạnh, 
rộng nhất là khu vực bờ phải sông La với diện 
tích ngập 4.000ha, khu vực bờ trái sông La diện 
tích ngập tăng lên 2.356,6ha. Sau thời kỳ đỉnh 
lũ, lưu lượng giảm, diện tích ngập giảm. Dưới 
đây là diện tích ngập chi tiết của từng khu vực 
(Bảng 3) và mức độ ngập của lưu vực sông La 
(Hình 11, Hình 12, Hình 13, Hình 14).
 Trên cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều, 
hệ thống mạng sông 1 chiều được kết nối với các 
vùng 2 chiều thông qua kết nối dạng đập tràn tự 
do, khi lưu lượng lũ đủ lớn, dòng nước tràn qua 
bờ gây ngập cho vùng 2 chiều. Qua phân tích, 
đánh giá kết quả các trận lũ với ảnh vệ tinh, số 
liệu thực đo thấy rằng, mô hình đã mô phỏng 
được phạm vi, mức độ ngập cho lưu vực sông La 
tương đối phù hợp. Kết quả hiệu chỉnh và kiểm 
nghiệm thủy lực đều cho chỉ số Nash lớn hơn 0,9, 
kết hợp so sánh diện ngập, mức độ ngập với số 
liệu thực tế đã chứng tỏ khả năng ứng dụng của 
mô hình mô phỏng ngập lụt cho lưu vực sông 
La. Kết quả tính toán cho thấy, sau 2 trận lũ, với 
cường độ khác nhau, khu vực ngập nhiều nhất là 
khu vực bờ phải sông La với mức độ ngập trung 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018 - 
67
Diện ngập Mức độ ngập
Hình 11. Diện ngập và mức độ ngập sau ngày 15/10/2010
Diện ngập Mức độ ngập
Hình 12. Diện ngập và mức độ ngập sau ngày 17/10/2010
Diện ngập Mức độ ngập
Hình 13. Diện ngập và mức độ ngập sau ngày 19/10/2010
68 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018
Diện ngập Mức độ ngập
Hình 14. Diện ngập và mức độ ngập sau ngày 21/10/2010
bình là 2m, khu vực ngập ít nhất là khu vực bờ trái 
sông Ngàn Phố với mức độ ngập là 0,5m.
6. Kết luận
Qua việc phân tích và đánh giá cơ sở khoa 
học mô hình Hec-Ras thấy rằng, đối với mô hình 
1 chiều, để mô phỏng tốt ngập lụt cần phải có 
số liệu mặt cắt dày đặc, do vậy, chi phí đầu tư sẽ 
rất lớn. Đối với mô hình 2 chiều, đầu vào cần dữ 
liệu địa hình chi tiết, ít sai số, đặc biệt là địa hình 
lòng sông. Nhưng chất lượng bản đồ DEM hiện 
nay ở nước ta mới chỉ thể hiện được địa hình 
phía trên chứ chưa thể hiện được địa hình lòng 
sông nên việc sử dụng mô hình 2 chiều trong 
điều kiện này không phù hợp. Ngoài ra, đối với 
vùng cần mô tả chi tiết hệ thống công trình như 
cầu, cống, đập, mô hình 2 chiều chưa thể mô 
phỏng được. Mô hình Hec-Ras trên cơ sở kết 
nối thủy động lực 1-2 chiều đã khắc phục được 
những nhược điểm trên, do vậy sẽ được lựa 
chọn để mô phòng ngập lụt cho lưu vực sông La. 
Đã áp dụng thành công mô hình Hec-Ras 
mô phỏng ngập lụt cho lưu vực sông La trên 
cơ sở kết nối thủy động lực 1-2 chiều. Kết quả 
tính toán thủy lực được hiệu chỉnh với số liệu 
mực nước thực đo tại trạm Linh Cảm từ ngày 
10/10/2010 đến ngày 30/10/2010 và kiểm định 
với số liệu mực nước thực đo tại trạm Linh Cảm 
từ ngày 05/10/2011 đến ngày 30/10/2011 đều 
cho chỉ số Nash trên 0,9. Bên cạnh đó, do khó 
khăn về điều kiện số liệu cũng như giới hạn về 
mặt kinh phí và thời gian, nghiên cứu vẫn tồn tại 
một số hạn chế, cụ thể:
- Nghiên cứu mới chỉ hiệu chỉnh và kiểm định 
trong một trận lũ nên không tránh khỏi những 
sai số trong mô phỏng ngập lụt.
- Việc hiệu chỉnh và kiểm định mô hình theo 
diện ngập và mức độ ngập rất khó khăn do yêu 
cầu cao về quy mô cũng như đòi hỏi mức độ chi 
tiết của số liệu. Diện ngập và mức độ ngập phải 
chi tiết và thể hiện được sự phân bố theo không 
gian và thời gian.
- Do thiếu số liệu mưa nên trong, nhóm thực 
hiện đã sử dụng số liệu mưa tại trạm Hương Sơn 
đại diện cho cả lưu vực. Điều này dẫn tới sai số 
trong kết quả mô phỏng ngập lụt của mô hình. 
- Trong quá trình thiết lập mô hình, nghiên 
cứu đã sử dụng một số giả định để thiết lập 
các hệ số nhám cho các mặt cắt, điều kiện biên 
cũng như điều kiện ban đầu. Kết hợp với các yếu 
tố gây sai số khác trong quá trình thiết lập và 
hiệu chỉnh thông số mô hình, điều này gây ra 
sai số trong kết quả mô phỏng. Đây là các sai số 
thường xảy ra khi áp dụng mô hình hóa. 
Nhìn chung, nghiên cứu đã áp dụng thành 
công mô hình Hec-Ras để mô phỏng ngập lụt cho 
lưu vực sông La trên cơ sở kết nối thủy động lực.
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018 - 
69
Tài liệu tham khảo
1. Trần Ngọc Anh và các cộng sự (2012), "Đánh giá nguy cơ ngập lụt các khu vực trũng tỉnh Hưng 
Yên", Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 28(3S), 1-8.
2. Thái Bình Hoàng, Ngọc Anh Trần và Đình Khá Đặng (2010), "Ứng dụng mô hình MIKE FLOOD tính 
toán ngập lụt hệ thống sông Nhật Lệ tỉnh Quảng Bình", Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự 
nhiên và Công nghệ, 26,(3S), 285-294.
3. Hoàng Văn Đại (2011), Nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ dự báo lũ hệ thống sông Hồng - Thái 
Bình, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và 
Biến đổi khí hậu, Hà Nội.
4. Đặng Thanh Lâm (2015), Xây dựng mô hình thích hợp cho tính toán hệ thống công trình tổng hợp 
tiêu thoát nước đô thị vùng ảnh hưởng triều, Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học Thủy lợi niền Nam, TP. 
Hồ Chí Minh.
5. Vũ Thị Thu Lan và Hoàng Thanh Sơn (2013), "Nghiên cứu biến động của thiên tai (lũ lụt và hạn hán) ở 
tỉnh Quảng Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu", Viet Nam Journal of Earth Sciences, 35(1), 66-74.
6. Phạm Văn Song, Đặng Đức Thanh, Lê Xuân Bảo (2013), "Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc xả 
lũ hồ chứa Dầu Tiếng lên hạ lưu sông Sài Gòn", Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 19, 59-70.
7. Đặng Đức Thanh, Lê Trung Thành, Nguyễn Thái Quyết (2015), "Xác định mức độ ngập lụt hạ du do 
xả lũ hồ chứa nước lòng Sông tỉnh Bình Thuận", Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường, 
42, 46-51.
8. Nguyễn Viết Thi (1994), Dự báo tổng lượng dòng chảy và đỉnh lũ thời kỳ 21/VIII – 31/X đến hồ Hòa 
Bình.
9. Trần Thục (2004), Xây dựng công nghệ tính toán dự báo lũ lớn hệ thống sông Hồng – Thái Bình.
10. Đặng Ngọc Tĩnh (2008), Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ dự báo lũ hạ du sông Hồng – Thái Bình 
bằng phần mềm Mike 11.
11. Mitch Blum (2015), Application of new tool for 1D/2D Hec-Ras modelling of the Truckee river and 
tributaries.
12. U.S. Army Corps of Engineers Institute for Water Resources Hydrologic Engineering Centere (2016), 
HEC-RAS 5.0 Reference Manual.
13.  (2010), Flood waters in Ha Tinh and Nghe An provinces, Viet Nam.
14. National Hydraulics and Environment Laboratory of the Research and Development Directorate of 
và the French Electricity Board (EDF-R&D) (2017), TELEMAC-2D User Manual.
15. Moya, V.M., Kure, S., Udo, K., Mano, A. (2016), "Application of 2D numerical simulation for the 
analysis of the February 2014 Bolivian Amazonia flood: Application of the new HEC-RAS version 5", 
RIBAGUA-Revista Iberoamericana del Agua. 3(1), tr. 25-33.
16. Edna, M.R (2007), Floodplain Inundation Simulation Using 2D Hydrodynamic Modelling Approach, ITC.
17. Leonardo, T. (2014), "Simulation of Floods with 1d and 2d Hydraulic Models in the GUAPI-AÇ U 
River Basin, Based on GIS Integration", Global Journal of Research In Engineering.
70 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 5 - Tháng 3/2018
APPLICATION OF HEC-RAS MODEL SIMULATING FLOOD IN LA RIVER 
BASIN BASING ON THE CONNECTION OF HYDRONAMIC 1-2D
Nguyen Anh Ngoc, Hoang Van Đai
Centre for HydroMet and Climate change Consultancy
Received: 20 February 2018; Accepted: 20 March 2018
Abstract: This article presents some results of calculations, simulation of flooding in the La river basin 
using the Hec-Ras model on the basis of hydrodynamics. 1D area are connected to 2D area through the side 
connection. Input data for the model are data on water levels and flow rates collected from hydro-meteorological 
stations in the basin. Parameters of model was calibrated and verified with observation water level data in 
two major floods in October 2010 and 2011 at Linh Cam station. The results of the error estimation using the 
Nash index for values greater than 0.9 indicate the applicability of the model to flood simulation. The model 
results also show that the heaviest flooded area is the right bank of the La river with an average flood level 
of 2m, flooded areas are at least the left bank of the Ngan Pho river with inundation is 0.5m.
Keywords: Flood, connect hydrodynamic 1-2D, Hec-Ras model, La river basin.

File đính kèm:

  • pdfung_dung_mo_hinh_hec_ras_mo_phong_ngap_lut_cho_luu_vuc_song.pdf