Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh

Một trong những vấn đề chi phối toàn bộ hệ thống di sản Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa

nhân văn. Đây là ngọn nguồn, cơ sở, nền tảng quy định toàn bộ mục đích sự nghiệp hoạt động

cách mạng của Người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ biểu hiện ở tình yêu thương

con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn và sâu sắc, mà còn biểu hiện ở việc chăm lo, bồi

dưỡng, sử dụng phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân và giải phóng con người, mang

lại hạnh phúc cho con người. Do vậy, có thể khẳng định, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ

nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực và cách mạng. Hay có thể nói, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí

Minh là chủ nghĩa nhân văn hành động nhằm giải phóng và phát triển con người, là tài tinh thần

vô cùng to lớn của Đảng, dân tộc ta, mãi mãi là nguồn sáng bất tận soi rọi vào mỗi tâm hồn con

người Việt Nam, hướng cho mọi người đến với chân, thiện, mỹ của cuộc sống.

pdf 11 trang kimcuc 3600
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh

Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 6, Số 2 (2016) 
143 
TƯ TƯỞNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI – NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ XUYÊN SUỐT 
TRONG CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH 
Nguyễn Tùng Lâm 
 Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng 
Email: lamkhanhk13@gmail.com 
TÓM TẮT 
Tư tưởng phát triển con người là nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn 
Hồ Chí Minh. Đây cũng là một trong những lĩnh vực phong phú, có chiều sâu và có giá trị 
bền vững nhất của di sản Hồ Chí Minh. Sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay đang đòi 
hỏi phải nghiên cứu, khai thác tư tưởng phát triển con người của Hồ Chí Minh để thực hiện 
chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở 
nước ta hiện nay. 
Từ khoá: Tư tưởng phát triển, con người, chủ nghĩa nhân văn, Hồ Chí Minh, nội dung cơ 
bản và xuyên suốt. 
1. MỞ ĐẦU 
Một trong những vấn đề chi phối toàn bộ hệ thống di sản Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa 
nhân văn. Đây là ngọn nguồn, cơ sở, nền tảng quy định toàn bộ mục đích sự nghiệp hoạt động 
cách mạng của Người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ biểu hiện ở tình yêu thương 
con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn và sâu sắc, mà còn biểu hiện ở việc chăm lo, bồi 
dưỡng, sử dụng phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân và giải phóng con người, mang 
lại hạnh phúc cho con người. Do vậy, có thể khẳng định, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ 
nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực và cách mạng. Hay có thể nói, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí 
Minh là chủ nghĩa nhân văn hành động nhằm giải phóng và phát triển con người, là tài tinh thần 
vô cùng to lớn của Đảng, dân tộc ta, mãi mãi là nguồn sáng bất tận soi rọi vào mỗi tâm hồn con 
người Việt Nam, hướng cho mọi người đến với chân, thiện, mỹ của cuộc sống. 
2. NỘI DUNG 
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đặt con người ở 
vị trí trung tâm, con người là mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng mà Người 
theo đuổi. Từ Bản án chế độ thực dân Pháp, Người đã đặt vấn đề con người lên hàng đầu, trên 
cơ sở tố cáo tội ác của thực dân, đến Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, người đã khẳng định một 
Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh 
144 
chân lý hào hùng của mọi thời đại: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng...” [7, tr. 1]. Trước 
khi không còn trên thế gian này, trong Bản Di chúc thiêng liêng, khi nói về công tác chỉnh đốn 
Đảng, Người viết “Đầu tiên là công việc đối với con người” [15, tr. 616]. Trong chủ nghĩa nhân 
văn Hồ Chí Minh, tư tưởng về con người là một di sản quý báu, chiều sâu trong tư tưởng đó là 
triết lý nhân sinh sâu sắc, là tinh thần, là phương pháp luận để giải quyết vấn đề con người, thực 
chất là tư tưởng phát triển con người toàn diện. 
Tư tưởng phát triển con người trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là những luận 
điểm về mô hình và con đường phát triển con người Việt Nam toàn diện. Mô hình con người 
Việt Nam phát triển toàn diện được khái quát lên từ sự kế thừa, phát triển các chuẩn mực con 
người phương Đông trong lịch sử. Trong đó, chủ yếu và trực tiếp nhất Hồ Chí Minh đã đứng 
trên các phạm trù trong triết học Nho giáo về triết lý nhân sinh, đạo đức và tri thức để làm 
người, cụ thể hóa thành các tiêu chí cần phải có ở con người Việt Nam. Với tài năng của mình, 
Hồ Chí Minh đã phê phán, kế thừa, tiếp thu yếu tố hợp lý của những phạm trù về đạo đức, phẩm 
chất, năng lực cần có ở con người trong các phạm trù: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín của Nho giáo 
thành những phạm trù của riêng mình phù hợp với con người, điều kiện xã hội mới ở Việt Nam. 
Mô hình con người Việt Nam phát triển toàn diện, đó là con người mới xã hội chủ nghĩa “vừa 
hồng vừa chuyên”. Trong mô hình đó được Hồ Chí Minh cụ thể bằng các tiêu chí về phẩm chất 
và năng lực: Thể lực, Trí tuệ, Thẩm mỹ, Đạo đức. Có thể nói, con người Việt Nam phát triển 
toàn diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh hiện ra như một thực thể người vẹn toàn mà trong 
đó sự mạnh khỏe về mặt thể chất, sự phong phú về mặt trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc về cái hay cái 
đẹp, cái tốt, cái cao cả... cũng như những phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp - đây là những 
điểm cơ bản và chủ yếu nhất. Đó còn là những con người không thụ động, chỉ biết hưởng thụ 
sản phẩm xã hội, hưởng thụ những thành tựu của văn hóa, nghệ thuật mà còn biết sáng tạo ra 
các giá trị vật chất và tinh thần mới, cống hiến một cách tự nguyện và nhiệt thành cho xã hội, 
góp sức của mình cho sự phồn vinh của đất nước, cho sự phát triển của mọi người. 
Tuy nhiên, đây mới chỉ là mô hình, tiêu chí để Hồ Chí Minh có một quan niệm về phát 
triển con người Việt Nam toàn diện. Khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh mới thực 
sự tìm thấy con đường để phát triển con người toàn diện. Đó chính là những nguyên lý duy vật 
lịch sử về bản chất con người của triết học Mác – Lênin. Những nguyên lý này là cơ sở lý luận và 
phương pháp khoa học nhằm phát triển con người toàn diện, mang lại cho con người những phẩm 
chất, năng lực mới để con người làm chủ ngày càng tốt hơn các quá trình phát triển xã hội. Vì vậy, 
con đường phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh được nảy sinh phát triển từ thực tiễn 
và lại được hệ thống lý luận cách mạng định hướng, soi đường. Chính điều này đã làm cho tư 
tưởng phát triển con người trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh trở nên khoa học và có giá trị 
trong phát triển con người Việt Nam toàn diện. 
Theo Hồ Chí Minh, trước hết muốn phát triển con người Việt Nam toàn diện phải giải 
phóng họ khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng vô sản. 
Đây là công việc phải thực hiện đầu tiên, tạo điều kiện phát triển con người Việt Nam, trong hoàn 
cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, dân ta một cổ hai tròng. Con người chỉ có điều kiện 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 6, Số 2 (2016) 
145 
phát triển toàn diện khi họ được giải phóng. Vì vậy, nếu nước nhà không được độc lập thì không tự 
do, có nghĩa là con người vẫn bị kìm kẹp trong ách áp bức nô lệ cả về thể xác lẫn tinh thần. Muốn 
giải phóng con người, chúng ta phải tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng dân 
tộc dân chủ nhân dân để đánh đổ Đế quốc và Phong kiến, giành độc lập dân tộc, tự do, dân chủ 
cho nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra những điều kiện về vật chất và tinh thần để 
giải phóng con người về kinh tế, chính trị, xã hội - yếu tố quyết định cho sự phát triển con người 
Việt Nam toàn diện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có 
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [13, tr. 30]. Theo Hồ Chí Minh, giải phóng 
dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Quan điểm giải phóng con 
người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của 
Người. Người thể hiện ý chí quyết tâm giải phóng và giành độc lập, tự do cho dân tộc: “Chúng 
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [7, tr. 
534]. 
Tiến hành cách mạng vô sản nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng 
giai cấp cũng là nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người quan niệm, giải phóng dân tộc 
cũng là nhằm để dân có tự do, hạnh phúc, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự 
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [7, tr. 64]. Theo Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội 
không chỉ là điều kiện để bảo đảm cho nền độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp bức, 
bóc lột mà còn chính vì “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích 
cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản 
chủ nghĩa” [12, tr. 60], chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân 
lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc 
đời ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới tạo ra mọi điều kiện để con 
người được phát triển toàn diện năng lực của mình. 
Theo Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện, họ phải tham gia vào hoạt động đấu 
tranh cách mạng, phải được tôi luyện và trưởng thành từ phong trào cách mạng. Khi họ tham 
gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ là môi trường quan trọng 
để thử thách, rèn luyện con người Việt Nam, thông qua đó họ được phát triển về mọi mặt. Mác 
đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng vốn có của 
nó, trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” [4, tr. 11]. Tiếp thu 
lý luận về bản chất con người của Mác, Hồ Chí Minh có cơ sở phương pháp luận khoa học để 
phát triển con người Việt Nam toàn diện. Theo đó, việc hình thành những năng lực bản chất 
người bao giờ cũng phải thông qua các quá trình xã hội hóa, tiếp thu kinh nghiệm, văn hóa vật 
chất và tinh thần của loài người, thông qua việc tham gia vào các quan hệ xã hội. Tham gia vào 
nhiều quan hệ xã hội, những quan hệ càng có tính khó khăn phức tạp bao nhiêu, khi con người 
thích ứng được nó thì càng phát triển những phẩm chất, năng lực của mình bấy nhiêu – phát 
triển toàn diện bấy nhiêu. Vì vậy, tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân 
tộc, xây dựng và bảo vệ chế độ mới là điều kiện hết sức quan trọng để con người Việt Nam 
trưởng thành về mọi mặt. 
Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh 
146 
Hồ Chí Minh cho rằng: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái 
tốt” [5, tr. 84] nhằm biến một chế độ này thành một chế độ khác. Đó là một cuộc đấu tranh gay 
go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái 
tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Đối với cuộc cách mạng giải phóng dân 
tộc, giải phóng giai cấp ở nước ta, do tính phức tạp, sự quyết liệt càng gay gắt, đặt ra yêu cầu 
ngày càng cao về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam. Vì vậy, thông qua quá trình đấu 
tranh cách mạng lâu dài và gian khổ là điều kiện để hàng triệu con người Việt Nam tôi luyện, 
trưởng thành về mọi mặt, làm cho năng lực nhận thức và hành động của họ không ngừng được 
nâng cao, tạo ra sự phát triển ngày càng phong phú, hài hòa về nhân cách của con người Việt 
Nam trong thời đại mới. Quá trình tham gia đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, xây 
dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tác động sâu sắc đến việc hình thành những phẩm chất, năng lực mới 
của con người Việt Nam, góp phần quyết định tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt - những 
người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta. Thực tế cho thấy, 
thông qua hoạt động đấu tranh cách mạng, dưới sự dìu dắt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 
nhân dân ta từ những người “nô lệ”, “người vô sản ở thuộc địa” đầy đau khổ, tăm tối, đã từng 
bước trở thành những chiến sĩ cách mạng, những con người mới xã hội chủ nghĩa “vừa hồng 
vừa chuyên” - chủ nhân của xã hội mới; con người Việt Nam đã được trang bị một thế thế giới 
quan Mác - Lênin và nhân sinh quan cộng sản; được giáo dục, bồi dưỡng nâng cao kiến thức 
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nhân văn...; được rèn luyện, tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo 
đức mới: đạo đức xã hội chủ nghĩa; được quan tâm chăm sóc, bảo vệ thể lực, sức khỏe.. Tất cả 
điều đó đã góp phần quan trọng làm cho thể lực, trí lực, nhân cách của con người Việt Nam 
không ngừng được hoàn thiện và nâng cao, tạo ra tiền đề cơ bản cho sự phát triển toàn diện của 
con người. 
Hồ Chí Minh còn khẳng định phát triển con người toàn diện, khi họ tham gia vào hoạt 
động lao động sản xuất. Khi bàn về vai trò của lao động với sự hình thành và phát triển con 
người, Ph. Ăngghen đã chỉ ra: “Trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng 
tạo ra chính bản thân con người” [1, tr. 274]. Điều đó có nghĩa là, bằng lao động và thông qua 
lao động mà các cơ quan của cơ thể con người được phát triển hoàn thiện, đồng thời với đó là tư 
duy, ý thức, năng lực của con người cũng phát triển theo sự phát triển của quá trình lao động sản 
xuất. Quá trình khám phá, chinh phục tự nhiên thông qua hoạt động lao động, luôn đặt ra những 
mâu thuẫn giữa trình độ, năng lực nhận thức và khả năng hoạt động của con người với những bí 
ẩn của tự nhiên cần được khám phá chinh phục. Mâu thuẫn đó đòi hỏi con người phải giải quyết 
để tăng năng suất lao động, khi giải quyết mâu thuẫn đó đồng thời cả tự nhiên và con người 
được phát triển. Con người tăng thêm sự hiểu biết về thế giới, phát triển thêm năng lực hoạt 
động của mình. Vì vậy, thông qua lao động là điều kiện để con người phát triển toàn diện. 
Tiếp thu quan điểm của các nhà lý luận mác xít, Hồ Chí Minh cho rằng thông qua lao 
động sản xuất vật chất, trước hết sức khỏe, thể lực con người được nâng lên, không những làm 
cho con người “quen gian khổ” mà còn có ích cho sức khỏe của họ, “do lao động, sức khỏe tăng 
hơn” [12, tr594]. Không những thế thông qua lao động mà con người biết quý trọng sức lao 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 6, Số 2 (2016) 
147 
động và giá trị sản phẩm do lao động tạo ra, biết tôn trọng những người lao động và từ đó biết 
làm lấy để sinh sống.., Người khẳng định vai trò của lao động sản xuất với sự phát triển toàn 
diện của con người: “Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen khổ. 
Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỷ lực (làm lấy mà ăn), không ăn bám xã hội” [8, tr. 121]. Sự 
phát triển của nhận thức con người phát triển cùng với sự phát triển của lao động, Người viết: 
“Hoạt động sản xuất của xã hội phát triển từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy, sự hiểu biết của 
người ta (về giới tự nhiên, cũng như về xã hội) cũng phát triển từng bước, từ thấp đến cao, từ 
cạn đến sâu, từ một mặt đến toàn diện” [10, tr.121]. Trong quá trình phát triển của lao động sản 
xuất ấy, giới tự nhiên dần bộ lộ ra những quy luật, những thuộc tính, những tri thức để con 
người hiểu biết sâu hơn về giới tự nhiên làm cho nhận thức của con người phát triển từ thấp đến 
cao, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều.., Người viết: “Do sự sản xuất vật chất mà 
người ta hiểu biết dần dần các hiện tượng, các tính chất, các quy luật và mối quan hệ giữa người 
với giới tự nhiên. Lại do hoạt động sản xuất mà dần dần hiểu rõ mối quan hệ giữa người này với 
người khác” [10, tr. 121]. Như vậy, sự phát triển về tri thức và năng lực là thức đo đánh giá sự 
phát triển của con người, theo Người thông qua lao động sản xuất, sức khỏe, lý tưởng cách 
mạng, ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình, cũng như tài năng của con người ngày càng trưởng thành 
về mọi mặt. Khi tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, con người càng thấy giá trị của lao 
động, biết quý trọng những sản phẩm do những người lao động đổ mồ hôi, nước mắt làm ra, qua 
đó nâng cao ý thức cần, kiệm cho bản thân đồng thời biết trân trọng, yêu quý những người lao 
động chủ nhân của xã hội mới. 
Phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và đảm bảo công bằng xã hội để phát triển 
con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo qua ...  hết 
trang bị lý tưởng cách mạng giúp nhân dân ta có phương hướng hành động và định hướng cho 
sự phát triển của con người. Lý tưởng cách mạng mà Hồ Chí Minh muốn nền giáo dục mới đưa 
vào giảng dạy là Chủ nghĩa Mác – Lênin, vì: “Chủ nghĩa Mác - Lênin soi phương hướng, đường 
lối cho chúng ta đi. Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng” [11, tr. 290]. Chính thông 
qua việc nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, là cơ sở để con người Việt 
Nam có định hướng đúng đắn trong nhận thức và hành động, là tiền đề cơ bản để hình thành, phát 
triển những phẩm chất và năng lực của con người phát triển toàn diện. Vì vậy, Người yêu cầu, 
trước hết nền giáo dục đó cần phải tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho mọi người, 
muốn vậy: “cần phải tăng cường hơn nữa việc giáo dục tinh thần yêu nước, giác ngộ giai cấp và 
đạo đức cách mạng” [15, tr. 386]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 6, Số 2 (2016) 
149 
Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục toàn diện cả về chính trị, quân sự, văn 
hoá, đạo đức, khoa học, kỹ thuật.., của nền giáo dục mới sẽ cung cấp cho con người tri thức toàn 
diện, rèn luyện cho con người năng lực toàn diện để tự tin bước vào xã hội mới. Người viết: 
"Trong giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ 
nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động sản xuất" [13, tr. 647]. Nội dung giáo dục này cũng tạo điều 
kiện để con người Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao quý, tinh hoa của văn hóa 
dân tộc và nhân loại, trau dồi vốn hiểu biết về thời đại, về khoa học kỹ thuật cơ bản, thiết thực, 
vững chắc đồng thời rèn luyện thói quen, kỹ năng lao động và thực hành... tạo ra sự phát triển 
hài hòa các sức mạnh của lý trí, tình cảm và ý chí, của kiến thức, kỹ năng và thái độ của con 
người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần quan trọng cho sự ra 
đời và phát triển của con người toàn diện ở Việt Nam. 
Theo Hồ Chí Minh phát triển con người toàn diện khi có sự chủ động, tích cực, tự giác rèn 
luyện, vươn lên của cá nhân. Khi bàn về mối quan hệ giữa điều kiện, hoàn cảnh với con người, Mác 
và Ph. Ăng ghen đã chỉ ra: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con 
người đến mức ấy” [4, tr. 55]. Như vậy, giữa sự biến đổi của hoàn cảnh và con người có quan hệ 
biện chứng lẫn nhau. Điều kiện, hoàn cảnh càng thuận lợi bao nhiêu thì con người càng phát triển 
bấy nhiêu, con người muốn phát triển toàn diện bao nhiêu, thì phải tạo ra hoàn cảnh điều kiện thuận 
lợi bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh dù có thuận lợi đến mấy nhưng không có sự nỗ 
lực, cố gắng của chủ thể thì hiệu suất của quá trình tiếp nhận và chuyển hóa hệ thống các giá trị xã 
hội thông qua quá trình xã hội hóa các quan hệ xã hội thành những năng lực của chủ thể sẽ không 
cao. Sự tác động của môi trường tự nhiên và xã hội đến sự phát triển con người diễn ra thường 
xuyên trên cả hai bình diện thể lực, và trí tuệ, năng lực nhận thức, năng lực hành động. Song, cùng 
một môi trường sống như nhau, nhưng ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội 
đối với sự phát triển của mỗi con người, mỗi cá nhân lại không giống nhau. Nói cách khác, khả năng 
tiếp nhận chuyển hóa của các nhân tố khách quan với từng chủ thể có khác nhau, tùy thuộc vào nhận 
thức, sự nỗ lực, tự giác và năng lực của mỗi chủ thể đó. 
Trên cơ sở lý luận đó, Hồ Chí Minh hết sức đề cao yếu tố tự giác rèn luyện, vươn lên 
của các cá nhân trong sự phát triển toàn diện của mỗi con người. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết 
định đối với sự phát triển con người. Bằng kinh nghiệm của bản thân, bằng những hiểu biết sâu 
sắc về mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và khách quan cũng như bằng sự nghiên 
cứu, tổng kết lịch sử, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” 
[6, tr. 596]. Suy rộng ra nghĩa là trong sự phát triển các phẩm chất, năng lực mọi mặt của con 
người, các nhân tố khách quan dù quan trọng đến đâu cũng không thể thay thế được nhân tố chủ 
quan, không thể thay thế được sự tự giác vươn lên về mọi mặt của các cá nhân. Con người với 
tư cách là chủ thể trong sự phát triển của nó, luôn là nhân tố cơ bản để hình thành nên những 
nhân cách vẹn toàn, những cá nhân phát triển toàn diện. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh trong việc 
phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam, cần phải đặc biệt chú ý 
đến phát triển ý thức tự giác, tinh thần tự lập, tự cường, năng lực tự vươn lên không biết mệt 
Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh 
150 
mỏi của con người. Hồ Chí Minh viết: “Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết. không 
chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” [8, tr. 120]. 
Thực chất của tư tưởng phát triển con người trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là tạo 
ra mọi điều kiện xã hội thuận lợi, từ đó tạo ra những cơ hội để mọi người được tham gia vào các 
quan hệ xã hội, qua đó phát triển, phát huy những năng lực của mình đáp ứng yêu cầu của phát 
triển xã hội. Thông qua đó con người cũng được rèn luyện, trải nghiệm để họ nhận thức được sự 
cần thiết phải có ý thức tự giác, tích cực chủ động trong phát triển mình và phát triển xã hội. Đó 
như là những vấn đề có tính quy luật trong phát triển con người Việt Nam. Trong thời kỳ đẩy 
mạnh sự nghiệp công nghiệp, hóa hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, cần vận 
dụng những vấn đề có tính quy luật trong phát triển con người của Hồ Chí Minh vào xây dựng 
chiến lược con người ở nước ta đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới. Trên cơ sở những triết 
lý của Người, trong việc xây dựng chiến lược con người Việt Nam hiện nay, cần tập trung vào 
một số vấn đề sau: 
Thứ nhất, phải có chiến lược quốc gia về phát triển con người Việt Nam giai đoạn mới. 
Đảng ta đã nhận thức rõ vấn đề này, theo đó Đảng ta khẳng định: “Sớm có chiến lực quốc gia về 
xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn 
hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị 
chung của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội 
nhập quốc tế” [2, tr. 223]. Tuy nhiên, khi xây dụng chiến lược này phải quán triệt di huấn của 
Người trong bản di chúc thiêng liêng: “Đầu tiên là công việc đối với con người” [16, tr. 616]. Vì 
vậy, mọi chủ trương chính sách trong chiến lược phát triển con người của Đảng phải luôn hướng 
đến con người, tất cả vì con người và phải coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát 
triển, đồng thời là chủ thể phát triển” [2, tr. 76-77] trong sự phát triển của xã hội. Chủ trương, 
chính sách này phải cụ thể rõ ràng trong việc xác định mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các 
tổ chức, cá nhân theo đó thực hiện. Như Người đã từng căn dặn: “Xây dựng con người cũng 
phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc” [16, tr. 665]. Vì vậy, trước hết, cần phải đổi mới tư 
duy và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người trên cơ sở phát huy 
tính chủ động sáng tạo của Nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, đổi 
mới công tác quản lý của các cơ quan giáo dục đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế, thể thao nhằm tạo 
ra hợp lực chung của tất cả các ngành, các cấp, của cả xã hội trong việc thực hiện chiến lược 
xây dựng con người. Xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính 
trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người. 
Thứ hai, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam trong thời đại mới. Hệ 
giá trị chuẩn của con người Việt Nam trong thời đại mới phải là sự kế thừa và phát triển mô 
hình con người phát triển toàn diện của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, cần bổ sung những tiêu chí 
cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội tương lai. Vì vậy, phải căn cứ vào yêu cầu của 
thực tiễn xã hội đang đặt ra để bổ sung phát triển, hệ giá trị đó phải dự báo được những yêu cầu 
đặt ra cho con người mà xã hội vận động đòi hỏi. Hệ giá trị con người Việt Nam phát triển toàn 
diện phải bảo đảm được tính chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn; có sự 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 6, Số 2 (2016) 
151 
thống nhất giữa tính dân tộc và tính quốc tế, tính truyền thống và hiện đại; có sự phát triển hài 
hòa về thể chất và tinh thần Hệ giá trị chuẩn này là cơ sở để các lĩnh vực: văn hóa, y tế, giáo 
dục, các ngành các cấp có căn cứ để vun đắp cho con người Việt Nam những giá trị, tùy theo 
lĩnh vực hoạt động của mình. Đi đôi với đó phải có cơ chế để “đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, 
lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực làm tha hóa con người. Có giải pháp 
khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” [3, tr. 51]. 
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế 
xã hội gắn với phát triển nhanh và bền vững. Thực chất tập trung phát triển kinh tế, xóa đói 
giảm nghèo, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho nhân dân, qua đó tạo ra những điều 
kiện vật chất phục vụ cho con người phát triển thông qua việc đáp ứng tốt các nhu cầu ăn, ở, 
mặc, đi lại Giải quyết vấn đề trên còn tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực phát 
triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội, giảm chênh lệch mức sống giữa nông 
thôn và thành thị, giữa các vùng trong cả nước. Đây là những cơ hội cho con người cải thiện 
điều kiện sinh hoạt vật chất của mình làm nền tảng để phát triển toàn diện. Tuy nhiên, phát triển 
kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa mới tạo ra sự phát triển bền vững, như vậy, đi đôi với 
việc phát triển kinh tế phải phát triển văn hóa. 
Thứ tư, phải chăm lo phát triển văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là 
sức mạnh nội sinh làm cho xã hội phát triển bền vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị 
người, là thước đo trình độ phát triển người, làm cho con người phát triển toàn diện. Từ vai trò 
của văn hóa đối với sự phát triển con người và xã hội, phải quán triệt và thực hiện tốt 5 mục 
tiêu, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp mà Nghị quyết TW 9 khóa XI đề ra, trong đó tập trung: “Phát 
triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn 
hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống 
tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng 
tạo” [3, tr. 48]. Như vậy, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn 
hóa, phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản 
sắc dân tộc, xây dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh 
vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt 
động của các thiết chế văn hóa. 
Thứ năm, kiên trì thực hiện đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam . Giáo dục đào 
tạo có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển con người, cung cấp cho con người tri thức, 
kỹ năng kỹ xảo để mỗi người phát triển mình và phát triển xã hội. Vì vậy, đổi mới toàn diện 
nền giáo dục Việt Nam nhằm đào tạo ra những con người mới đáp ứng yêu cầu của xã hội 
hiện đại, thông qua đó con người Việt Nam cũng được phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, 
tri thức cũng như kỹ năng. Vì vậy, cần quán triệt triết lý giáo dục của Người: “cốt thiết thực 
chu đáo hơn tham nhiều huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” [9, tr. 357, 358] vào đổi mới 
giáo dục hiện nay. Theo đó, công cuộc đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam cần hướng 
vào thực hiện tốt các biện pháp của Nghị quyết TW 8 khóa XI đề ra. Cần tập trung đổi mới 
mạnh mẽ nội dung chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng coi trọng phát triển phẩm 
Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh 
152 
chất, năng lực của người học; nội dung giáo dục cần được đổi mới, bổ sung phát triển về 
phẩm chất, năng lực ở con người theo yêu cầu sự phát triển xã hội; phương pháp giáo dục 
phải coi trọng khả năng thực hành của người học, gắn lý luận với thực tiễn... Bên cạnh đó, 
phải phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào 
tạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là 
khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc 
tế trong giáo dục, đào tạo. 
3. KẾT LUẬN 
Xã hội tiếp tục phát triển, đặt ra những yêu cầu mới cho sự phát triển của con người, tư 
tưởng phát triển con người của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên các giá trị lịch sử và đương đại 
sâu sắc. Triết lý ấy là cơ sở, là kim chỉ nam cho Đảng ta hoạch định chiến lược phát triển con 
người Việt Nam trong thời kỳ mới... Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, giá trị của tư tưởng đó phải 
được vận dụng và cụ thể hóa trong điều kiện mới hiện nay./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ph. Ăngghen (1971). Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 1971. 
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội. 
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương khóa 
XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 
[4]. C. Mác và Ph. Ph. Ăng ghen (1995). Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5]. Hổ.Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[7]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[8]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[9]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[10]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[11]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính tri quốc gia, Hà Nội. 
[12]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[13]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[14]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[15]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[16]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 6, Số 2 (2016) 
153 
THOUGHT ON HUMAN DEVELOPMENT - 
BASIC AND CROSS-CUTTING CONTENT IN HO CHI MINH HUMANISM 
Nguyen Tung Lam 
Faculty of Ho Chi Minh Thought, University of Politics, Department of Defense 
Email: lamkhanhk13@gmail.com 
ABSTRACT 
Thought on human development is the basic and throughout contents in the humanism of 
Ho Chi Minh. It is also one of the richest, deepest contents and has sustainable values of 
Ho Chi Minh humanism. The current development of the country requires research and 
exploitation of human development ideology of Ho Chi Minh to implement the strategy of 
human development in the period of industrialization and modernization in Vietnam at 
present. 
Keywords: Humanist, Ho Chi Minh, the and cross-cutting basic content, thought 
development. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_phat_trien_con_nguoi_noi_dung_co_ban_va_xuyen_suot.pdf