Triển khai ứng dụng một số nội dung của kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tỉnh Thái Nguyên

Kế toán quản trị chi phí đã xuất hiện trên thế giới từ khá lâu. Tuy nhiên, đây vẫn còn là một vấn đề

khá mới mẻ đối với Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Với mong muốn kế toán

quản trị chi phí đƣợc ứng dụng phổ biến vào các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xây

lắp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, bài viết này nhằm nghiên cứu việc triển khai ứng dụng một số

nội dung của kế toán quản trị chi phí vào hoạt động quản lý tại các doanh nghiệp xây lắp trên địa

bàn tỉnh Thái Nguyên với các nội dung chủ yếu bao gồm: (1) Nghiên cứu các nội dung cơ bản của

kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp; (2) Đánh giá tình hình thực hiện công tác kế toán quản

trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; (3) Đƣa ra một số giải pháp

triển khai ứng dụng nội dung của kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp trên địa

bàn tỉnh Thái Nguyên.

pdf 9 trang kimcuc 3760
Bạn đang xem tài liệu "Triển khai ứng dụng một số nội dung của kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triển khai ứng dụng một số nội dung của kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tỉnh Thái Nguyên

Triển khai ứng dụng một số nội dung của kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tỉnh Thái Nguyên
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
63 
TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ 
CHI PHÍ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TỈNH THÁI NGUYÊN 
Đặng Thị Dịu* 
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Kế toán quản trị chi phí đã xuất hiện trên thế giới từ khá lâu. Tuy nhiên, đây vẫn còn là một vấn đề 
khá mới mẻ đối với Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Với mong muốn kế toán 
quản trị chi phí đƣợc ứng dụng phổ biến vào các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xây 
lắp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, bài viết này nhằm nghiên cứu việc triển khai ứng dụng một số 
nội dung của kế toán quản trị chi phí vào hoạt động quản lý tại các doanh nghiệp xây lắp trên địa 
bàn tỉnh Thái Nguyên với các nội dung chủ yếu bao gồm: (1) Nghiên cứu các nội dung cơ bản của 
kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp; (2) Đánh giá tình hình thực hiện công tác kế toán quản 
trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; (3) Đƣa ra một số giải pháp 
triển khai ứng dụng nội dung của kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp trên địa 
bàn tỉnh Thái Nguyên. 
Từ khóa: Ứng dụng, kế toán quản trị, chi phí, doanh nghiệp xây lắp, Thái Nguyên 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Ngành xây lắp là một ngành thực sự có vị trí 
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đối 
với ngành này, khả năng cạnh tranh của các 
doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào giá bỏ thầu 
các công trình xây dựng. Giá bỏ thầu càng 
thấp thì khả năng thắng thầu càng lớn. Vì vậy, 
thông tin về chi phí có vai trò quan trọng giúp 
nhà quản trị kiểm soát chi phí, có biện pháp 
hạ giá thành nhƣng vẫn đảm bảo chất lƣợng 
công trình. Để phục vụ nhu cầu thông tin về 
chi phí cho nhà quản trị thì kế toán quản trị 
chi phí là một công cụ hữu hiệu và thực sự có 
vai trò to lớn trong quá trình quản lý từ khâu 
lập kế hoạch đến thực hiện, kiểm tra và ra 
quyết định. Tuy nhiên, tại các doanh nghiệp 
xây lắp (DNXL) hiện nay do đặc thù của 
ngành nên kế toán quản trị chi phí hầu nhƣ 
chƣa đƣợc áp dụng phổ biến. Thực tế này đặt 
ra yêu cầu phải triển khai việc ứng dụng các 
nội dung của kế toán quản trị chi phí vào hoạt 
động quản lý tại các doanh nghiệp xây lắp. 
Bài viết này tập trung chủ yếu vào việc 
nghiên cứu triển khai ứng dụng nội dung của 
kế toán quản trị chi phí trong các doanh 
nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 
*
 Tel: 0915 247299, Email: diulady@gmail.com 
– một tỉnh nằm ở trung tâm Việt Bắc và là 
một trong những trung tâm công nghiệp khá 
lớn của khu vực phía bắc. Hiện nay tỉnh Thái 
Nguyên đang ra sức quy hoạch đầu tƣ phát 
triển ngành công nghiệp, đặc biệt là một số 
ngành công nghiệp mũi nhọn – đây là một 
điều kiện thuận lợi để ngành xây lắp ngày 
càng phát triển. 
Nội dung của kế toán quản trị chi phí trong 
doanh nghiệp 
Kế toán quản trị chi phí là một bộ phận của kế 
toán quản trị chuyên thực hiện việc xử lý và 
cung cấp các thông tin về chi phí nhằm phục 
vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà 
quản trị nhƣ hoạch định, tổ chức thực hiện, 
kiểm tra và ra quyết định. 
Nhƣ vậy, để xác định nội dung của kế toán 
quản trị chi phí trƣớc hết cần xác định nội 
dung của kế toán quản trị. Theo hƣớng dẫn 
của Thông tƣ số 53/2006/TT-BTC ngày 12 
tháng 6 năm 2006 của Bộ Tài chính thì Kế 
toán quản trị nhằm cung cấp thông tin về hoạt 
động nội bộ doanh nghiệp nhƣ: Chi phí từng 
bộ phận (trung tâm chi phí), từng công việc 
sản phẩm; Phân tích đánh giá tình hình thực 
hiện kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi 
nhuận; quản lý tài sản, vật tƣ, tiền vốn, công 
nợ; Phân tích mối quan hệ giữa giữa chi phí 
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
64 
với khối lƣợng và lợi nhuận; lựa chọn thông 
tin thích hợp cho các quyết định dầu tƣ ngắn 
hạn và dài hạn; Lập dự toán ngân sách sản 
xuất kinh doanh,..nhằm phục vụ cho việc điều 
hành, kiểm tra và ra quyết định kinh tế. 
Trên cơ sở nội dung của kế toán quản trị nói 
chung có thể xác định nội dung của kế toán 
quản trị chi phí nhƣ sau: 
+ Phân loại chi phí 
+ Lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh; 
+ Xác định giá phí sản phẩm; 
+ Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chi 
phí bộ phận theo từng trung tâm chi phí; 
+ Phân tích mối quan hệ giữa chi phí với khối 
lƣợng và lợi nhuận; 
+ Phân tích thông tin chi phí để lựa chọn 
thông tin thích hợp cho các quyết định kinh 
doanh. 
Đánh giá khái quát tình hình thực hiện 
công tác kế toán quản trị chi phí tại các 
doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh 
Thái Nguyên 
Khái quát chung về các doanh nghiệp hoạt 
động trong lĩnh vực xây lắp tỉnh Thái Nguyên 
Tình hình chung về các doanh nghiệp hoạt 
động trong lĩnh vực xây lắp trên địa bàn tỉnh 
Thái Nguyên có thể đƣợc xem xét qua bảng 
số liệu sau: 
Bảng 01: Thống kê các doanh nghiệp xây lắp tỉnh Thái Nguyên 
STT 
Chỉ tiêu 
Đơn vị tính 
DNXL 
Tổng số DN 
tỉnh TN 
Cơ cấu 
(DNXL/Tổng 
số DN) % 
1 Số lƣợng doanh nghiệp DN 390 2028 19,23 
2 Vốn SXKD Tỉ đồng 3.379,6 35.510,6 9,52 
3 Doanh thu thuần Tỉ đồng 2.004,2 38.730,3 5,17 
4 Giá trị còn lại của TSCĐ Tỉ đồng 977 15.255 6,40 
5 Số lƣợng lao động Ngƣời 12.405 71.016 17,47 
6 Giá trị sản xuất Tỉ đồng 5.825,5 67.753 8,60 
7 Lãi/lỗ hoạt động SXKD Tỉ đồng 11,140 895,158 1,24 
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 2011 và tính toán của tác giả 
Biểu đồ 01: Cơ cấu DNXL trên tổng số doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên 
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 2011 và tính toán của tác giả 
0
20
40
60
80
100
120
140
Số lƣợng 
doanh 
nghiệp
Vốn 
SXKD 
Doanh 
thu 
thuần 
Giá trị 
còn lại 
của 
TSCĐ 
Số lƣợng 
lao động
Giá trị 
sản xuất 
Lãi/lỗ 
hoạt 
động 
SXKD
C
ơ 
cấ
u
Chỉ tiêu
Tổng số doanh nghiệp
Cơ cấu (DNXL/Tổng số 
DN) %
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
65 
Qua bảng 01 và biểu đồ 01 ta thấy: 
- Thứ nhất, xét về số lƣợng, các doanh nghiệp 
hoạt động trong lĩnh vực xây lắp của tỉnh 
tƣơng đối lớn, gồm 390 doanh nghiệp, chiếm 
19,23% tổng số các doanh nghiệp đang hoạt 
động trong toàn tỉnh; 
- Thứ hai, đây là ngành hiện đang tạo ra rất 
nhiều việc làm cho lực lƣợng lao động, đặc 
biệt là lao động phổ thông với tổng số lao 
động là 12.405 ngƣời, chiếm đến 17,47% 
tổng số lao động hiện đang làm việc trong các 
doanh nghiệp toàn tỉnh. 
- Thứ ba, các doanh nghiệp xây lắp tỉnh Thái 
Nguyên hiện nay đang sử dụng số vốn sản 
xuất kinh doanh tƣơng đối lớn (3.397,6 tỉ 
đổng, chiếm 9,52% tổng vốn sản xuất kinh 
doanh của các doanh nghiệp trong toàn tỉnh) 
- Thứ tƣ, với số vốn sản xuất kinh doanh và 
lực lƣợng lao động khá lớn nhƣ vậy nên giá 
trị sản xuất của ngành xây lắp tỉnh Thái 
Nguyên tƣơng đối cao, đạt 5.825,5 tỉ đồng, 
chiếm 8,6% tổng giá trị sản xuất của tất cả 
các ngành kinh tế trong toàn tỉnh. 
Tuy nhiên, bên cạnh một số chỉ tiêu đạt đƣợc 
khá tƣơng xứng với quy mô nhƣ trên thì một 
số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của 
các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp của 
tỉnh Thái Nguyên hiện nay lại tƣơng đối thấp, 
chƣa tƣơng xứng với quy mô hoạt động hiện 
có. Cụ thể là: 
- Giá trị còn lại của TSCĐ và các khoản đầu 
tƣ tài chính dài hạn của các doanh nghiệp xây 
lắp trong toàn tỉnh hiện chỉ có 977 tỉ đồng, 
chiếm 6,4% tổng giá trị còn lại của TSCĐ và 
các khoản đầu tƣ tài chính dài hạn của các 
doanh nghiệp trong toàn tỉnh. Điều này thể 
hiện tình hình trang bị cơ sở vật chất, kỹ 
thuật, máy móc thiết bị phục vụ thi công của 
các doanh nghiệp xây lắp hiện nay còn rất hạn 
chế, làm ảnh hƣởng đáng kể đến chất lƣợng 
công trình và chi phí của doanh nghiệp. 
- Doanh thu thuần của các doanh nghiệp xây 
lắp trong cùng kỳ đƣợc xác định là 2.004,2 tỉ 
đồng, chỉ chiếm 5,17% tổng doanh thu thuần 
thống kê đƣợc của tất cả các doanh nghiệp. 
Với doanh thu thuần nhƣ vậy nên sau khi trừ 
các khoản chi phí, kết quả hoạt động SXKD 
của các doanh nghiệp xây lắp đƣợc xác định 
là lãi 11,140 tỉ đồng. Có thể nói đây là con số 
phản ánh kết quả hoạt động SXKD rất thấp 
của toàn ngành xây dựng tỉnh Thái Nguyên. 
Nhƣ vậy, có thể thấy mặc dù là một ngành có 
quy mô tƣơng đối lớn trong nền kinh tế tỉnh 
Thái Nguyên (thể hiện ở số lƣợng doanh 
nghiệp, vốn và số lƣợng lao động), tuy nhiên 
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp 
trong ngành này nhìn chung chƣa tƣơng xứng 
với quy mô đó. Tình trạng này xuất phát từ 
nhiều nguyên nhân, kể cả chủ quan và khách 
quan, nhƣng xét cho cùng cần phải nhìn nhận 
một thực tế là công tác quản lý của hầu hết 
các doanh nghiệp xây lắp hiện nay còn lỏng 
lẻo, công tác kế toán chủ yếu tập trung vào 
việc thu thập và cung cấp thông tin phục vụ 
mục đích lập báo cáo tài chính. Còn vấn đề 
chi phí đƣợc sử dụng ra sao, ai kiểm soát, 
từng bộ phận hoạt động có hiệu quả nhƣ thế 
nào, ai đánh giá thì chƣa thực sự đƣợc các 
doanh nghiệp này quan tâm. Hay nói cách 
khác, các doanh nghiệp xây lắp hiện nay chƣa 
thực sự tổ chức đƣợc một hệ thống thông tin 
kế toán hữu hiệu để có thể cung cấp thông tin 
một cách linh hoạt, nhanh chóng nhằm phục 
vụ yêu cầu kiểm soát chi phí, đánh giá trách 
nhiệm quản lý và hỗ trợ cho việc ra quyết 
định của các nhà quản trị. 
Đánh giá thực trạng công tác kế toán quản 
trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp trên 
địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay 
Về công tác phân loại chi phí 
Thứ nhất, các doanh nghiệp xây lắp hiện nay 
đều tiến hành phân loại chi phí theo công 
dụng. Điều này tạo thuận lợi cho việc cung 
cấp thông tin về các khoản mục chi phí trên 
các báo cáo tài chính, cụ thể là cung cấp các 
thông tin về các chỉ tiêu giá vốn hàng bán, chi 
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, 
chỉ tiêu hàng tồn kho trên bảng cân đối kế 
toán, Cách phân loại chi phí theo khoản mục 
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
66 
tại các doanh nghiệp xây lắp cũng có tác dụng 
rất lớn cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất 
xây lắp theo dự toán, đồng thời cung cấp 
thông tin cho công tác tính giá thành sản phẩm 
xây lắp, kiểm tra tình hình thực hiện định mức 
chi phí sản xuất trong doanh nghiệp. 
Thứ hai, bên cạnh việc phân loại chi phí theo 
khoản mục, các doanh nghiệp xây lắp cũng 
thƣờng phân loại chi phí theo yếu tố. Điều này 
đã đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin về các yếu 
tố chi phí trên thuyết minh báo cáo tài chính và 
một số báo cáo và sổ kế toán chi tiết khác. 
Tuy nhiên, việc phân loại chi phí nhƣ hiện 
nay tại các doanh nghiệp này mới chỉ đáp ứng 
đƣợc nhu cầu thông tin trên báo cáo tài chính. 
Còn việc cung cấp thông tin phục vụ công tác 
quản trị nội bộ thì về cơ bản vẫn chƣa đáp 
ứng đƣợc. Cụ thể là các cách phân loại khác 
nhƣ phân loại chi phí theo mối quan hệ với 
mức độ hoạt động thành chi phí biến đổi, chi 
phí cố định giúp ích nhà quản trị đƣa ra quyết 
định bỏ thầu, đánh giá hiệu quả hoạt động của 
các bộ phận thì vẫn chƣa đƣợc các doanh 
nghiệp này thực hiện. 
Về xác định giá phí sản phẩm sản xuất 
- Khi xác định giá đấu thầu: Do đặc thù của 
ngành xây lắp nên khi xác định giá đấu thầu 
cho các công trình xây dựng, các doanh 
nghiệp xây lắp đều sử dụng phƣơng pháp chi 
phí tiêu chuẩn để lập dự toán chi phí xây 
dựng. Điều này là hoàn toàn phù hợp. 
- Sau khi trúng thầu, giá thành công trình 
đƣợc xác định trên cơ sở các chi phí thực tế 
phát sinh, cụ thể bao gồm các khoản mục chi 
phí sau: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi 
phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy 
thi công, chi phí sản xuất chung. Các chi phí 
thực tế phát sinh nên đƣợc tập hợp từ các hóa 
đơn, chứng từ. 
Tuy nhiên, do các doanh nghiệp xây lắp hiện 
nay chƣa thực hiện việc phân loại chi phí 
thành định phí và biến phí nên cũng chƣa thực 
hiện đƣợc việc xác định giá phí của từng công 
trình, hạng mục công trình theo phƣơng pháp 
chi phí trực tiếp – một phƣơng pháp chủ yếu 
của kế toán quản trị. Theo phƣơng pháp này, 
giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp sẽ bao 
gồm toàn bộ các khoản biến phí nhƣ: chi phí 
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công 
trực tiếp, biến phí sử dụng máy thi công, biến 
phí sản xuất chung. Phƣơng pháp này rất có 
ích cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động của 
nhà quản lý và hơn nữa nó còn có vai trò rất 
quan trọng trong việc phân tích thông tin chi 
phí để giúp nhà quản trị đƣa ra các quyết định 
quản trị hợp lý. 
Về lập dự toán chi phí kinh doanh 
DNXL là doanh nghiệp sản xuất đặc thù, sản 
phẩm có tính chất đơn chiếc, có giá trị lớn, 
thời gian thi công lâu, thời gian sử dụng dài, 
vì vậy sản phẩm trƣớc khi tiến hành thi công 
cần phải dự toán một cách sát sao, cụ thể các 
yếu tố vật liệu, nhân công, máyNếu không 
lập dự toán, hoặc định mức đặt ra chƣa chính 
xác, hoặc chất lƣợng vật liệu mua về không 
đảm bảo thì có thể ảnh hƣởng đến tính mạng 
của rất nhiều ngƣời khi công trình đƣa vào sử 
dụng, ảnh hƣởng đến uy tín lâu dài của doanh 
nghiệp. Mỗi một công trình trƣớc khi tiến 
hành bỏ thầu đều đã tính toán kỹ các chi phí 
của các yếu tố sẽ cấu thành nên giá trị công 
trình, hạng mục công trình đó, việc làm này 
căn cứ vào số liệu dự toán để xác định giá phí 
của công trình. Chính vì vậy các doanh 
nghiệp xây lắp hiện nay đã rất chú trọng việc 
lập dự toán công trình theo đúng các quy định 
của Nhà nƣớc, của Ngành về phƣơng pháp 
tính cũng nhƣ về đơn giá, khối lƣợng. 
Tuy nhiên, để phục vụ cho công tác kế toán 
quản trị thì việc lập dự toán nhƣ hiện nay 
chƣa đầy đủ và chi tiết, cụ thể là trên các bản 
dự toán hiện nay, các khoản chi phí chƣa 
đƣợc phân định thành yếu tố định phí và biến 
phí. Mà theo nội dung của kế toán quản trị, 
muốn kiểm soát tốt chi phí từ khâu lập dự 
toán thì trƣớc hết phải phân định đƣợc các 
yếu tố chi phí này. 
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
67 
Về đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận 
Đối với các doanh nghiệp xây lắp, việc đánh 
giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận (cụ 
thể là các đội thi công) là vô cùng quan trọng 
vì nhƣ chúng ta đã biết lợi nhuận của doanh 
nghiệp phụ thuộc rất lớn vào các bộ phận này 
(nếu các bộ phận đó hoạt động có hiệu quả 
tức là các khoản mục chi phí giảm, tổng chi 
phí giảm, kéo theo đó là giá thành sản xuất 
giảm, giá bỏ thầu thấp, doanh nghiệp dễ thắng 
thầu. Còn trong trƣờng hợp bộ phận hoạt 
động kém hiệu quả, dẫn đến tốn nhiều chi phí 
của doanh nghiệp (Vật liệu, nhân công, máy), 
giá phí sản phẩm xây lắp cao, khó thắng thầu, 
hoặc nếu có trúng thầu thì lợi nhuận của 
doanh nghiệp cũng thấp. 
Tuy nhiên trong thực tế việc đánh giá hiệu 
quả hoạt động của các bộ phận tại các doanh 
nghiệp xây lắp ở Thái Nguyên hiện nay chƣa 
đƣợc quan tâm. Phần lớn các doanh nghiệp 
này mới chỉ tiến hành xác định kết quả kinh 
doanh cho từng công trình, hạng mục công 
trình (HMCT). Mà kết quả kinh doanh này 
đƣơng nhiên phụ thuộc vào việc hạch toán 
các khoản mục chi phí cho từng công trình, 
HMCT. Song ở nhiều doanh nghiệp, qua các 
khảo sát thực tế cho thấy kết quả kinh doanh 
cũng không đƣợc phản ánh chính xác bởi vì 
quá trình hạch toán không chính xác, nhiều 
khoản chi phí bị bỏ sót, nhiều khoản chi phí 
lại bị hạch toán nhầm nội dung, nhầm đối 
tƣợng. Nguyên nhân của tình trạng này thực 
ra không phải do các doanh nghiệp cố ý bỏ 
sót chi phí mà chủ yếu do có rất nhiều khoản 
chi phí thực tế có phát sinh nhƣng các doanh 
nghiệp không tập hợp đƣợc đầy đủ hóa đơn 
chứng từ liên quan nên không có căn cứ hạch 
toán vào sổ sách. Ngoài ra, việc không tiến 
hành phân bổ chi phí quản lý kinh doanh cho 
từng công trình cũng làm cho việc đánh giá 
kết quả kinh doanh của từng công trình, 
HMCT trở nên không chính xác, bởi vì các 
doanh nghiệp này xác định chi phí quản lý 
kinh doanh là chi phí thời kỳ nên nó chỉ đƣợc 
dùng để xác định kết quả kinh doanh khi lập 
báo cáo tài chính. 
Về bộ máy kế toán quản trị 
Hiện nay tại các doanh nghiệp xây lắp ở Thái 
Nguyên, bộ máy kế toán chỉ tập trung vào 
mảng kế toán tài chính, còn mảng kế toán 
quản trị chƣa đƣợc thể hiện. Chẳng hạn nhƣ 
các nhân viên kế toán chỉ lập các báo cáo kế 
toán tổng quát và các báo cáo kết quả hoạt 
động theo định kỳ chứ không với mục đích 
đánh giá hiệu quả hoạt động một cách thƣờng 
xuyên. Các doanh nghiệp thƣờng chỉ bố trí 
một số nhân viên kế toán làm nhiệm vụ hạch 
toán chi tiết ở một số phần hành nhất định nào 
đó (kế toán chi tiết nguyên vật liệu, công cụ 
dụng cụ, hàng hóa, thành phẩm....) còn nhân 
viên kế toán chuyên môn làm công tác kế 
toán quản trị thì chƣa có ở doanh nghiệp nào. 
Điều này cho thấy việc đƣa kế toán quản trị 
vào thực hiện tại các doanh nghiệp xây lắp ở 
Việt Nam nói chung và ở Thái Nguyên nói 
riêng là rất cần thiết. Thiết nghĩ vấn đề quan 
trọng hàng đầu hiện nay là phải làm sao để 
lãnh đạo các doanh nghiệp này thấy đƣợc 
những lợi ích căn bản của kế toán quản trị đối 
với quản trị doanh nghiệp, từ đó họ mới có 
thể sẵn sàng bỏ ra chi phí để tổ chức một bộ 
máy kế toán mà trong đó kế toán quản trị là 
một bộ phận không thể thiếu. 
Một số giải pháp để triển khai ứng dụng 
nội dung của kế toán quản trị chi phí trong 
các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh 
Thái Nguyên 
Tổ chức bộ máy kế toán quản trị 
Với các DNXL tỉnh Thái Nguyên, khi mới bắt 
đầu ứng dụng kế toán quản trị, thiết nghĩ mô 
hình tổ chức bộ máy kế toán quản trị phù hợp 
nhất là kết hợp Kế toán tài chính và Kế toán 
quản trị trong một bộ máy kế toán, bởi vì: 
- Khi mới ứng dụng kế toán quản trị vào hoạt 
động quản lý thì tất cả đều rất mới mẻ, trình 
độ chƣa chuyên sâu nên cần thời gian để tổng 
hợp, đánh giá rút kinh nghiệm để từ đó tách 
riêng thành một bộ phận chuyên sâu, độc lập. 
- Kế toán tài chính và Kế toán quản trị có mối 
quan hệ mật thiết với nhau: cùng sử dụng 
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
68 
thông tin đầu vào trên hệ thống thông tin kế 
toán căn bản nên việc tổ chức kết hợp trong 
cùng một bộ máy sẽ tinh giảm đƣợc chi phí 
nhân sự, tiền lƣơng phù hợp quy mô của 
công ty. 
Theo mô hình này, kế toán viên theo dõi phần 
hành kế toán nào (Kế toán Vốn bằng tiền, 
Doanh thu, Chi phí, Giá thành...) thì sẽ thực 
hiện cả Kế toán tài chính và Kế toán quản trị 
phần hành đó, cũng không nhất thiết mỗi 
nhân viên phụ trách từng phần hành kế toán 
mà có thể mỗi nhân viên phụ trách nhiều phần 
hành khác nhau tùy khả năng và khối lƣợng 
công việc của từng ngƣời. Ngoài ra, đơn vị 
phải bố trí ngƣời thực hiện các nội dung kế 
toán quản trị chung khác nhƣ: Thu thập, phân 
tích các thông tin phục vụ việc lập dự toán và 
phân tích thông tin phục vụ cho việc ra quyết 
định trong quản trị doanh nghiệp. Các nội 
dung công việc này có thể do Kế toán tổng 
hợp hoặc Kế toán trƣởng đảm trách. 
Với mô hình tổ chức kết hợp, trong bộ máy 
kế toán cần phân định rõ phạm vi của Kế toán 
tài chính với phạm vi Kế toán quản trị. Chẳng 
hạn, Kế toán tài chính căn cứ vào chứng từ 
hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh phát 
sinh theo yếu tố và khoản mục chi phí để 
cung cấp số liệu phục vụ lập các báo cáo tài 
chính còn Kế toán quản trị hạch toán chi phí 
theo từng hoạt động, cụ thể là từng công trình, 
hạng mục công trình hoặc hoạt động khác 
(nếu có); phân tích chi phí thành chi phí bất 
biến, khả biến, hỗn hợp; xây dựng định mức, 
dự toán chi phí cho từng hoạt động, từng công 
trình, hạng mục công trình; đánh giá hiệu quả 
hoạt động của các bộ phận trong công ty... 
Phân loại chi phí 
Một trong những nội dung cơ bản của kế toán 
quản trị doanh nghiệp là phân loại chi phí 
theo các tiêu thức hợp lý phục vụ cho mục 
đích ra quyết định của nhà quản trị. Chính vì 
vậy, để có trể ứng dụng đƣợc nội dung của kế 
toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp 
nói chung và trong doanh nghiệp xây lắp nói 
riêng trƣớc hết cần phân loại đƣợc chi phí một 
cách thích hợp. 
Chúng ta biết rằng, kế toán quản trị có một 
cách phân loại chi phí rất đặc trƣng, đó là 
phân loại theo cách ứng xử của chi phí. Theo 
cách phân loại này, chi phí đƣợc chia thành 
chi phí cố định và chi phí biến đổi. Đây là 
cách phân loại chi phí có ý nghĩa vô cùng 
quan trọng phục vụ cho việc ra quyết định của 
nhà quản trị. 
Vì vậy, để có thể lập dự toán từng yếu tố định 
phí, biến phí để tổng hợp cho từng khoản mục 
chi phí để đƣa ra các quyết định giá bỏ thầu 
cũng nhƣ kiểm soát, đánh giá hiệu quả sử 
dụng chi phí, thì chi phí cần đƣợc phân loại 
theo cách ứng xử của chi phí hay theo mức độ 
hoạt động (Phụ lục 01: Phân loại chi phí trong 
các doanh nghiệp xây lắp theo mối quan hệ 
với mức độ hoạt động) 
Về việc hạch toán chi phí 
Để phục vụ tốt việc ứng dụng kế toán quản trị 
chi phí thì việc hạch toán các khoản mục chi 
phí trong các DNXL bao gồm chi phí nguyên 
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, 
chi phí sản xuất chung, chi phí sử dụng máy 
thi công và kể cả chi phí quản lý doanh 
nghiệp phải rất cụ thể và chi tiết. Đặc biệt các 
DNXL phải căn cứ vào đặc điểm của từng 
yếu tố chi phí trong các khoản mục đó để ghi 
vào các loại sổ chi tiết cho phù hợp với yêu 
cầu của nhà quản trị trong việc kiểm soát chi 
phí và ra quyết định. 
Bên cạnh đó, để phục vụ cho việc xác định 
kết quả lãi, lỗ theo công việc của từng công 
trình, hạng mục công trình, kế toán phải tiến 
hành phân bổ chi phí quản lý doanh nghiệp 
cho từng công trình, hạng mục công trình. 
Trƣớc mắt có thể lựa chọn tiêu thức phân bổ 
là doanh thu của từng công trình, hạng mục 
công trình đó. Theo đó, ta có: 
Chi phí QLKD 
 phân bổ cho 
 công trình i 
= 
Tổng chi phí cần phân bổ 
Tổng doanh thu các CT 
 Doanh thu 
X của công 
 trình i 
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
69 
Về đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận 
Để đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ 
phận, ở các doanh nghiệp xây lắp (DNXL) 
đƣợc tổ chức theo mô hình tổng công ty trong 
đó có các công ty thành viên, dƣới công ty là 
các đội xây lắp thì căn cứ vào việc phân cấp 
quản lý để đánh giá trách nhiệm của từng cấp 
cụ thể (thƣờng là ba cấp: Trung tâm chi phí, 
trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tƣ). Tuy 
nhiên, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, phần 
lớn các DNXL hoạt động với quy mô nhỏ và 
vừa nên việc phân cấp quản lý chƣa thực sự 
cụ thể, rất khó tách biệt thành các trung tâm 
trách nhiệm. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả 
hoạt động của các bộ phận thực chất là đánh 
giá hiệu quả của từng công trình, hạng mục 
công trình. Từ đó đánh giá đƣợc hiệu quả hoạt 
động của toàn doanh nghiệp. Để phục vụ cho 
công tác này, các DNXL cần xây dựng các 
báo cáo dự toán và báo cáo thực hiện toàn 
doanh nghiệp, trong đó có chi tiết theo từng 
công trình, hạng mục công trình cụ thể. Dƣới 
đây là một số mẫu báo cáo mà các DNXL có 
thể xây dựng. 
- Mẫu báo cáo dự toán (Phụ lục 02) 
- Mẫu báo cáo thực hiện (Phụ lục 03) 
KẾT LUẬN 
Để có thể áp dụng đƣợc hệ thống kế toán 
quản trị chi phí tại các DNXL trên địa bàn 
tỉnh Thái Nguyên, theo tác giả cần thiết phải 
đảm bảo đƣợc một số điều kiện nhất định. 
Các điều kiện này chủ yếu xuất phát từ phía 
doanh nghiệp. Rất nhiều ngƣời cho rằng, để 
các doanh nghiệp áp dụng kế toán quản trị thì 
cần có sự can thiệp của các cơ quan chức 
năng của Nhà nƣớc. Tuy nhiên tác giả cho 
rằng việc có áp dụng hay không kế toán quản 
trị là hoàn toàn xuất phát từ bản thân doanh 
nghiệp có thấy cần thiết hay không. Và để áp 
dụng đƣợc thì trƣớc hết cần đảm bảo đƣợc 
các điều kiện cơ bản sau đây: 
Thứ nhất. nhà quản trị phải nhận thức đƣợc 
tác dụng, vai trò của kế toán quản trị để từ đó 
có quyết định nên hay không nên áp dụng kế 
toán quản trị. 
Thứ hai, phải có những nhân viên có trình độ 
và năng lực thực sự, am hiểu kiến thức kế 
toán tài chính cũng nhƣ kế toán quản trị, Ngoài 
ra cũng cần có khả năng sáng tạo, và vận dụng 
linh hoạt những kiến thức đã học vào trong thực 
tế của doanh nghiệp ở mọi tình huống. 
Thứ ba, về cơ sở vật chất: doanh nghiệp phải 
tổ chức ứng dụng công nghệ tin học trong 
việc tổ chức công tác kế toán. Bởi vì các 
thông tin trong thực tế rất nhiều, việc phân 
tích một cách nhanh chóng thông tin thích 
hợp cho nhà quản trị ra quyết định chỉ có thể 
đƣợc đảm bảo khi có hệ thống máy tính với 
các phần mềm xử lý thông tin phù hợp. 
Thứ tƣ, doanh nghiệp cần củng cố và hoàn 
thiện hệ thống hạch toán ban đầu, vận dụng 
hệ thống chứng từ, hệ thống tài khoản, đa 
dạng hóa việc phân loại chi phí, chú trọng 
việc phân loại chi phí theo cách ứng xử của 
chi phí. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Tài chính – Hệ thống kế toán Việt Nam – 
Chế độ kế toán doanh nghiệp (Ban hành theo 
quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/3/2006 
của Bộ trƣởng Bộ Tài chính). 
2. Bộ Tài chính – Thông tư số 53/2006/TT – BTC 
ngày 12/6/2006 về việc hướng dẫn áp dụng kế 
toán quản trị trong doanh nghiệp. 
3. Cục Thống kê Thái Nguyên – Niên giám thống 
kê tỉnh Thái Nguyên 2011 
4. Các trang web: www.doko.vn; www.tailieu.vn; 
www.ebook.com; www.ketoan.com 
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
70 
PHỤ LỤC 
Phụ lục 01: Phân loại chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp theo mối quan hệ với mức độ hoạt động 
TT Yếu tố 
Biến 
đổi 
Cố 
định 
Hỗn 
hợp 
I BỘ PHẬN SẢN XUẤT XÂY LẮP 
1 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp x 
2 Chi phí nhân công trực tiếp x 
3 Chi phí sử dụng máy thi công 
3.1 Chi phí công nhân vận hành máy thi công x 
3.2 Chi phí nhiên liệu chạy máy x 
3.3 Chi phí khấu hao máy thi công x 
3.4 Chi phí dịch vụ mua ngoài (chi phí thuê máy, chi phí sửa chữa, 
bảo trì) 
x 
4 Chi phí sản xuất chung 
4.1 Tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý 
các tổ, đội thi công... 
 x 
4.2 Chi phí vật liệu, dụng cụ phục vụ quản lý ở tổ, đội xây dựng x 
4.3 Chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ quản lý ở tổ, đội xây dựng x 
4.4 Chi phí dịch vụ mua ngoài (điện, nước, điện thoại phục vụ công 
trường thi công) 
 x 
4.5 Chi phí khác bằng tiền (chi phí bảo lãnh thực hiện hợp đồng, chi 
phí thí nghiệm vật liệu công trình...) 
x 
II BỘ PHẬN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH 
1 Lƣơng và các khoản trích theo lƣơng của khối văn phòng x 
2 Chi phí vật liệu, dụng cụ quản lý (văn phòng phẩm, bàn, ghế, tủ...) x 
3 Chi phí khấu hao TSCĐ (nhà văn phòng; ôtô con) x 
4 Chi phí điện, nƣớc quản lý x 
5 Chi phí điện thoại x 
6 Chi phí khác (hội họp, tiếp khách, công tác phí) x 
Phụ lục 02: Báo cáo dự toán của DNXL 
TT 
Chỉ tiêu 
Công trình, Hạng mục công 
trình 
Toàn công 
ty 
A B C ..... 
1 Doanh thu thuần 
2 Biến phí sản xuất 
 + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 
 + Chi phí nhân công trực tiếp 
 + Biến phí sử dụng máy thi công 
 + Biến phí sản xuất chung 
3 Số dƣ đảm phí sản xuất 
4 Biến phí quản lý 
5 Số dƣ đảm phí bộ phận 
6 Định phí bộ phận 
7 Số dƣ bộ phận 
8 Định phí chung 
9 Lợi nhuận trƣớc thuế 
Đặng Thị Dịu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 63 - 71 
71 
Phụ lục 03: Báo cáo thực hiện của DNXL 
TT Chỉ tiêu 
Công trình, Hạng mục công trình 
Toàn công ty 
A B C 
DT TT CL DT TT CL DT TT CL DT TT CL 
1 Doanh thu thuần 
2 Biến phí sản xuất 
 + CPNVLTT 
 + CPNCTT 
 + Biến phí SDMTC 
 + Biến phí SXC 
3 Số dƣ đảm phí sản 
xuất 
4 Biến phí quản lý 
5 Số dƣ đảm phí bộ 
phân 
6 Định phí bộ phận 
7 Số dƣ bộ phận 
8 Định phí chung 
9 Lợi nhuận trƣớc thuế 
SUMMARY 
THE APPLICATION OF COST MANAGEMENT ACCOUNTING 
TO MANAGEMENT IN CONSTRUCTION ENTERPRISES 
IN THAI NGUYEN PROVINCE 
Dang Thi Diu
*
College of Economics and Bussiness Administration – TNU 
Cost management accounting has appearanced in the world for long time. However this is a quite 
new issue in Vietnam as well as in Thai Nguyen province. With the hope that cost management 
accounting will be implemented popularly in construction enterprises in Thai Nguyen province, 
objectives of this article is to research on the application of cost management accounting to 
management in construction enterprises in Thai Nguyen province, with some main contents: (1) 
Research on the overall theories of cost management accounting for enterprises; (2) Research on the 
real situation of the application of cost management accounting in construction enterprises in Thai 
Nguyen province; (3) Propose solutions to implement cost management accounting in construction 
enterprises in Thai Nguyen province. 
Key words: Application, Management accounting, Cost management accounting, Construction 
enterprises, Thai Nguyen province 
Ngày nhận bài:08/12/2013; Ngày phản biện:23/12/2013; Ngày duyệt đăng: 17/3/2014 
Phản biện khoa học: TS. Trần Đình Tuấn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐHTN 
*
 Tel: 0915 247299, Email: diulady@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdftrien_khai_ung_dung_mot_so_noi_dung_cua_ke_toan_quan_tri_chi.pdf