Tiểu thuyết Giấc mộng con của Tản Đà nhìn từ góc độ thể loại
Sáng tác văn học của Tản Đà thể hiện
rõ ràng cá tính, phẩm chất và tƣ duy
nghệ thuật có sự hòa trộn giữa văn
học trung đại và văn học hiện đại. Ông
cố gắng thử sức mình trong các thể
loại mới mà tiểu thuyết (theo lối viết
phƣơng Tây) là một trong số đó.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ
nghiên cứu, tìm hiểu tiểu thuyết Giấc
mộng con dƣới góc độ thể loại để thấy
sự cố gắng cách tân thể loại của ông
và đánh giá cả những hạn chế trong
quá trình đó.
Giấc mộng con của Tản Đà gồm có
hai phần I và II nhƣng trong bài viết
này, chúng tôi tập trung tìm hiểu tiểu
thuyết Giấc mộng con I. Tác phẩm
này đƣợc in lần đầu năm 1916. Sau
này, Tản Đà đã tự tái bản vào năm
1926. Tiểu thuyết là hành trình chu du
khắp nơi của nhân vật tự xƣng
Nguyễn Khắc Hiếu. Trong cuộc dịch
chuyển đó, nhân vật đã gặp đƣợc một
số nhân vật có sự đồng điệu về quan
điểm sống và viết. Tác phẩm có vai trò
quan trọng trong việc thể hiện quan
điểm sáng tác cũng nhƣ quan niệm về
xã hội, nhân sinh của Tản Đà và quan
trọng hơn là sự cách tân nghệ thuật
của nhà văn trong văn xuôi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu thuyết Giấc mộng con của Tản Đà nhìn từ góc độ thể loại
48 CHUYÊN MỤC VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT GIẤC MỘNG CON CỦA TẢN ĐÀ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI NGUYỄN HƯƠNG NGỌC* Tản Đà là một trong những đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX lúc giao điểm nối giữa văn học Việt Nam trung đại và văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm độc đáo, thể hiện được cá tính của bản thân. Ông cố gắng thử sức mình trong các thể loại mới mà tiểu thuyết (theo lối viết phương Tây) là một trong số đó. Giấc mộng con là tiểu thuyết đã cho thấy sự cố gắng cách tân thể loại của Tản Đà. Bài nghiên cứu này sẽ tìm hiểu những ưu điểm và hạn chế của Tản Đà trong việc cách tân thông qua phân tích các phương diện thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật và nhân vật. Từ khóa: Tản Đà, Giấc mộng con, văn học Việt Nam thế kỷ XX Nhận bài ngày: 10/4/2019; đưa vào biên tập: 13/4/2019; phản biện: 19/4/2019; duyệt đăng: 24/5/2019 1. DẪN NHẬP Những năm đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam trải qua một sự vận động rất quan trọng. Đây là mốc có một ý nghĩa đặc biệt bởi nó là giao thời của cả nền văn học. Thời đoạn này chính là lúc văn học Việt Nam đang dần chuyển mình, dần thay đổi để có thể chuyển từ lối viết cũ sang lối viết mới. Định nghĩa về nhà văn bắt đầu đƣợc hình thành và văn chƣơng trở thành một thứ hàng hóa nhờ sự xuất hiện của báo chí, xuất bản theo bƣớc chân xâm lƣợc của ngƣời Pháp. Sự hình thành của các đô thị làm xuất hiện những tầng lớp mới trong xã hội dẫn đến sự thay đổi trong tầm đón đợi của văn học. Văn học đã thay đổi một cách tổng thể từ nội dung, hình thức nghệ thuật đến quan điểm, tƣ duy nghệ thuật. Trong những năm đầu ấy, văn học Việt Nam đã chứng kiến rất nhiều những cây bút xuất sắc, có tài năng đã có công trong việc đổi mới, * Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – TIỂU THUYẾT GIẤC MỘNG CON CỦA 49 cách tân văn học. Một trong số đó, Tản Đà không thể không đƣợc nhắc đến. Ở Tản Đà, một trong những đại diện tiêu biểu của thời điểm lịch sử đặc biệt đó, ngƣời ta vừa tìm đƣợc một gƣơng mặt của những giá trị truyền thống nho gia vừa thấy đƣợc những nét cách tân mang hơi hƣớng phƣơng Tây hiện đại. Tản Đà chính là ngƣời đứng ở giao điểm văn học Việt Nam trung đại và văn học Việt Nam hiện đại. Thời điểm chuyển giao giữa hai thời đại nên ông mang trong mình cả những đặc điểm, thậm chí những hệ lụy của nền cựu học đồng thời dung nạp cả những giá trị tri thức, hệ tƣ tƣởng của nền tân học. Sáng tác của ông mang đậm dấu ấn của một nhà nho ý thức đƣợc sự hạn chế của thế hệ mình, của những ý thức hệ đã tồn tại bám rễ quá lâu trở nên lạc hậu và muốn thay đổi, muốn hòa mình vào dòng chảy hiện đại. Tản Đã đã nghiêm túc thực hiện mộng ƣớc cách tân văn học đó của mình. Tất nhiên sự thành bại của quá trình này sẽ đƣợc bàn cụ thể hơn ở phần sau của bài viết nhƣng những cố gắng là có thật và sự ghi nhận công sức của ông là xứng đáng. Chính Hoài Thanh, từ rất sớm đã ý thức đƣợc vai trò đó của Tản Đà trong văn học nên ngay từ mở đầu Thi nhân Việt Nam, bài viết về Tản Đà đã đƣợc trịnh trọng đặt ngay đầu tiên bởi: “với chúng tôi Tiên sinh vẫn là một bậc đàn anh; chúng tôi không dám xem Tiên sinh nhƣ một ngƣời bạn. Tiên sinh còn giữ đƣợc của thời trƣớc cái cốt cách vững vàng, cái phong thái ung dung. Đời Tiên sinh tuy bơ vơ, hồn Tiên sinh còn có nơi nƣơng tựa. Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX với tấm lòng bình thản của một ngƣời thời trƣớc” (Hoài Thanh, 1999: 256). Sáng tác văn học của Tản Đà thể hiện rõ ràng cá tính, phẩm chất và tƣ duy nghệ thuật có sự hòa trộn giữa văn học trung đại và văn học hiện đại. Ông cố gắng thử sức mình trong các thể loại mới mà tiểu thuyết (theo lối viết phƣơng Tây) là một trong số đó. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ nghiên cứu, tìm hiểu tiểu thuyết Giấc mộng con dƣới góc độ thể loại để thấy sự cố gắng cách tân thể loại của ông và đánh giá cả những hạn chế trong quá trình đó. Giấc mộng con của Tản Đà gồm có hai phần I và II nhƣng trong bài viết này, chúng tôi tập trung tìm hiểu tiểu thuyết Giấc mộng con I. Tác phẩm này đƣợc in lần đầu năm 1916. Sau này, Tản Đà đã tự tái bản vào năm 1926. Tiểu thuyết là hành trình chu du khắp nơi của nhân vật tự xƣng Nguyễn Khắc Hiếu. Trong cuộc dịch chuyển đó, nhân vật đã gặp đƣợc một số nhân vật có sự đồng điệu về quan điểm sống và viết. Tác phẩm có vai trò quan trọng trong việc thể hiện quan điểm sáng tác cũng nhƣ quan niệm về xã hội, nhân sinh của Tản Đà và quan trọng hơn là sự cách tân nghệ thuật của nhà văn trong văn xuôi. 2. GIẤC MỘNG CON MANG DẤU ẤN CỦA MỘT TIỂU THUYẾT TRINH THÁM TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 50 VÀ DU KÝ Văn học trinh thám mặc dù đã tồn tại trong không gian văn học thế giới từ rất lâu với nhiều tên tuổi lớn nhƣ Conan Doyle hay Agatha Christie nhƣng chƣa đƣợc định danh rõ ràng nhƣ một thể loại lớn bên cạnh nhƣng nhóm thể loại nhƣ tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết truyền kỳ, Trong lý luận văn học hiện đại, ngƣời ta vẫn coi Edgar Ellen Poe là ngƣời mở đầu cho dòng văn học này. Quan niệm văn học trinh thám luôn thay đổi theo thời gian nhƣng thống nhất ở điểm tác phẩm phải luôn đặt ra “câu đố” và toàn bộ tác phẩm là quá trình đi giải đáp câu đố về một vụ án đã đƣợc đặt ra. S.S. Van Dine trong Twenty rules for writing detective stories đã chỉ ra hai mƣơi quy tắc vàng khi viết truyện trinh thám trong đó phải luôn đảm bảo sự xuất hiện của các yếu tố nhƣ vụ án, kẻ gây án, kẻ tinh nghi và thám tử điều tra; quá trình phá án phải dựa trên các suy luận logic và vấn đề tình cảm lãng mạn không nên đƣợc đề xuất trong các tác phẩm trinh thám. Du ký là một khái niệm đã tồn tại từ trong văn học trung đại để chỉ “một thể loại thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân ngƣời đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít ngƣời có dịp đi đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thƣ tín, hồi tƣởng, miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít ngƣời biết đến”. Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với văn học thế kỷ XVIII- XIX trong việc mở rộng tầm nhìn và tƣởng tƣợng của nhà văn”. Biên độ trải rộng của không gian di chuyển cũng nhƣ thời gian dịch chuyển và sự xuất hiện của cái tôi trải nghiệm là những đặc điểm vô cùng quan trọng để cấu thành nên một tác phẩm du ký. Bài viết tập trung phân tích làm rõ các yếu tố không gian, thời gian và nhân vật của tiểu thuyết Giấc mộng con I từ đó đƣa ra nhận định về thể loại của tác phẩm này. 2.1. Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Giấc mộng con Giấc mộng con của Tản Đà thực chất là một hành trình phiêu lƣu khắp thế giới của nhân vật tự xƣng Nguyễn Khắc Hiếu. Nói cách khác, tiểu thuyết này, ngay trong cấu trúc đã tiềm ẩn tính chất của một tiểu thuyết phiêu lƣu phƣơng Tây mang màu sắc trinh thám. Nhân vật chính, anh chàng Nguyễn Khắc Hiếu đã đặt chân lên rất nhiều vùng đất trong suốt hành trình này. Anh đã đi đến những miền đất có thật ở Châu Á qua Châu Âu đến Châu Phi, Châu Mỹ. Anh đến cả địa điểm không có thật, địa điểm đƣợc tác giả hƣ cấu nhƣ Cõi đời mới. Về vấn đề thời gian, ngoại trừ mốc xuất phát đƣợc ghi rõ là “Đêm hôm 28 tháng Giêng năm Bính Thìn là năm Duy Tân thứ 10, lấy lịch Tây 1916” (Tản NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – TIỂU THUYẾT GIẤC MỘNG CON CỦA 51 Đà, 2002: 69) và mốc từ Mỹ đi Canada là “Ngày tháng Janvier năm 1922” (Tản Đà, 2002: 98) thì các mốc thời gian trong tiểu thuyết này không đƣợc chỉ rõ cụ thể. Nhiều mốc thời gian quan trọng khác, tác giả đã thống kê tổng thời gian lƣu trú của nhân vật ở từng địa điểm (Bảng 1, 2, 3) qua Giấc mộng con I in trong Tản Đà toàn tập (tập 2) của Nhà xuất bản Văn học do Nguyễn Khắc Xƣơng biên soạn in năm 2002. Thông qua khảo sát tác phẩm, chúng tôi tổng hợp các mốc thời gian diễn ra những sự kiện quan trọng hoặc thời gian lƣu trú ở từng đất nƣớc, từng địa điểm của nhân vật (Bảng 1). Đây là các mốc thời gian có đủ luận cứ trong tác phẩm để chứng minh. Khoảng thời gian chu du cùng quan bác sĩ cũng là một mốc quan trọng nhƣng không đƣợc tác giả đề cập cụ thể. Tuy vậy qua nghiên cứu chƣơng IX. Cố hƣơng và chƣơng X. Cố nhân thƣ, chúng tôi đoán định rằng thời điểm Nguyễn Khắc Hiếu nhận đƣợc bức thƣ của Chu Kiều Oanh là khoảng hơn một năm sau khi nhân vật về nhà. Nhƣ vậy, nhân vật đã chu du cùng quan bác sĩ trong khoảng hơn kém 2 năm. Dựa trên các luận cứ đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng nhân vật đã dành nhiều thời gian nhất ở Saint Etienne, ở Washington và trong cuộc hành trình chu du khắp các châu lục với quan bác sĩ (hơn kém 2 năm). Để làm rõ hơn nữa tần suất di chuyển cũng nhƣ mức độ quan trọng của từng địa điểm trong cuộc hành trình của Nguyễn Khắc Hiếu, chúng tôi đã liệt kê không gian di chuyển của nhân vật (Bảng 2). Bảng 1. Bảng tổng hợp thời gian dịch chuyển của nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu trong tiểu thuyết Giấc mộng con STT Địa điểm/ sự kiện xê dịch Thời gian Trang luận cứ 1 Đi núi Sài Sơn, lên chợ Giời 28 tháng Giêng năm Bính Thìn (tức năm 1916) 69 2 Đi Sài Gòn rồi từ đó sang Pháp Ít ngày sau sự kiện 1 (tức cũng trong năm 1916) 72 3 Sống và làm việc ở Saint Etienne Trong vòng hơn 2 năm 77 4 Trốn ở New York vì bị nghi oan Khoảng 4 tháng 88-89 5 Về Pháp sau khi bị minh oan Không rõ thời gian 6 Sang Washington sống và làm việc Gần 2 năm 97 7 Chu du nhiều châu lục, vùng đất cùng quan bác sĩ Đi tháng Janvier năm 1922 (tức 1/1922) 98 8 Về cố hƣơng và nhận đƣợc thƣ của Chu Kiều Oanh Thƣ viết ngày 11/9/1925 126 Tổng thời gian chu du 8 năm 124 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ “Giấc mộng con I”, in trong Nguyễn Khắc Xƣơng (biên soạn). 2002. Tản Đà toàn tập (tập 2). Nxb. Văn học. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 52 Kết hợp Bảng 1 với Bảng 2, chúng ta có thể thấy ba địa điểm là nƣớc Pháp, Mỹ và Cõi đời mới không chỉ đƣợc tác giả nhắc đến rằng nhân vật đã lƣu lại trong khoảng thời gian lâu nhất mà còn đƣợc tác giả sử dụng để tƣờng thuật cũng nhiều nhất. Hành trình nhân vật đến các địa điểm khác đƣợc viết ngắn hơn. Có những không gian chỉ đƣợc tác giả liệt kê chứ không đƣợc miêu tả cụ thể. Nói cách khác địa điểm nƣớc Pháp (cụ thể là Saint Etienne), nƣớc Mỹ (New York và Washington) và Cõi đời mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng với nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu. Nƣớc Pháp là nơi Bảng 2. Bảng tổng hợp không gian dịch chuyển trong tiểu thuyết Giấc mộng con I STT Không gian xê dịch Trang luận cứ 1 Núi Sài Sơn Từ trang 69 đến giữa trang 72 2 Từ ga Hàng Cỏ đi Hải phòng rồi đi Sài Gòn và sang Pháp Cuối trang 72 3 Từ Marseile đi tàu hoả đến Saint Etienne Trang 73 4 Làm việc tại tiệm Drayon của ông Dravine Từ trang 73 đến trang 83 5 Từ Paris đi Havre đến New York Trang 83 6 Trốn tại một nhà hàng ở Mỹ Trang 84 7 Đến Sầu Thành ở Mỹ Từ trang 84 đến trang 87 8 Từ New York đi khai mỏ ở San Francisco Trang 88 9 Đi với ông chủ mục súc ngƣời Bồ Đào Nha đến Nam Mỹ làm thuê Từ trang 89 đến trang 91 10 Quay về Pháp Trang 92 11 Từ Pháp đi Washington Từ trang 93 đến trang 97 12 Đi Canada với quan bác sĩ Trang 98 13 Đi qua Alaska, thám hiểm Bắc Băng Dƣơng Trang 99 14 Đến Cõi đời mới Từ trang 99 đến trang 114 15 Từ Cõi đời mới đi Thƣợng Hải Trang 115 16 Đi Sơn Đông Trang 116 17 Đi Bắc Kinh rồi đến Tứ Xuyên Trang 117 18 Đi Ấn Độ Trang 118 19 Đi Châu Úc Trang 120 20 Đi Châu Phi Trang 120 21 Đi chơi thành Alger Trang 122 22 Quay lại Saint Etienne Trang 122 23 Về Sài Gòn rồi ra Hàng Cỏ Trang 123 24 Quay về Sơn Tây Từ trang 123 đến 125 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ “Giấc mộng con I”, in trong Nguyễn Khắc Xƣơng (biên soạn). 2002. Tản Đà toàn tập (tập 2). Nxb. Văn học. NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – TIỂU THUYẾT GIẤC MỘNG CON CỦA 53 nhân vật chính gặp đƣợc ngƣời con gái mang tên Chu Kiều Oanh - hồng nhan tri kỷ của cuộc đời mình. Anh và Kiều Oanh có thể đàm đạo những quan điểm sống và quan niệm về văn chƣơng suốt hàng giờ đồng hồ mà không biết chán. Ở Chu Kiều Oanh, Nguyễn Khắc Hiếu tìm thấy sự thấu hiểu mà chính ngƣời vợ của anh ở quê nhà không có đƣợc (nhân vật này sẽ đƣợc chúng tôi phân tích kỹ hơn ở phần sau 2.2. Nhân vật xuất hiện trong quá trình dịch chuyển). Còn nƣớc Mỹ với Nguyễn Khắc Hiếu là nơi đã cƣu mang anh khi anh bị tình nghi là kẻ trộm. Đến với nƣớc Mỹ, nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu không những tìm đƣợc sự an toàn mà còn có nơi để giải sầu (thông qua địa điểm Sầu Thành). Đồng thời đây cũng là nơi tin tƣởng và trọng dụng anh bởi sau khi anh đƣợc giải oan quay lại Pháp thì ông chủ đã đề nghị anh sang Mỹ làm việc do ngƣời chủ bên đó đã thác bởi bệnh. Nếu Pháp và Mỹ là những không gian thực về mặt địa lý thì Cõi đời mới lại là địa điểm đƣợc tạo nên nhờ năng lực hƣ cấu của nhà văn. Nguyễn Khắc Hiếu đến đƣợc Cõi đời mới trong chuyến hành trình chu du khắp nơi cùng quan bác sĩ. Vùng đất này đƣợc miêu tả là “một cù lao mới chƣa ai biết đến”, “đằng xa, tựa nhƣ có rừng cây. Đến nơi, quả là một rừng thông, cành lá lơ thơ, nhƣ cảnh sắc các thứ cây về mùa đông dƣới giải ấm” (Tản Đà, 2002: 99). Khi băng qua băng tuyết, đi hết rừng thông, “lộ ra một chàn hoa, trăm sắc hoa tranh tƣơi, cái khí tƣợng mênh mông nhƣ một cánh đồng mùa của các nhà hầu vƣơng nƣớc chuyên chế Trong chàn hoa, thấy có nhiều cột sắt nhƣ cột dây thép dƣới ta mà cao đến gấp hai Dƣới mỗi lƣới hoa chia làm mỗi khu, có đƣờng đi Đi khỏi một chàn hoa thời ruộng nƣơng lúa mạ đủ cả, thôn lạc cũng không xa” (Tản Đà, 2002: 100). Khí hậu nơi đây đƣợc miêu tả là “toàn nhƣ ở Bắc Kỳ ta trong mấy tháng về mùa xuân” (Tản Đà, 2002: 100). Nếu nƣớc Pháp là nơi gắn với hình ảnh hồng nhan tri kỷ của nhân vật thì Cõi đời mới là biểu tƣợng cho quan niệm về một xã hội lý tƣởng của Tản Đà, nơi mà con ngƣời sống hòa bình, vạn vật đều tốt tƣơi, cơ sở vật chất hiện đại, đủ đầy, con ngƣời đƣợc sống tự do, hạnh phúc. Thông qua hình ảnh Cõi đời mới, Tản Đà đã thể hiện hết sức rõ ràng sự kỳ vọng của mình vào một xã hội phát triển hơn, tiến hóa hơn xã hội mà ông đang sống mà cụ thể là Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó, tiểu thuyết còn có yếu tố của văn học trinh thám khi nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu bị vƣớng vào một vụ trộm tại tiệm vàng của ông chủ Dravine. Mọi bằng chứng tại hiện trƣờng đều dẫn sự nghi hoặc đến Nguyễn Khắc Hiếu. Nhờ sự giúp đỡ của Chu Kiều Oanh và ngƣời bạn thân lâu năm, Woallak, Khắc Hiếu đã trốn sang Mỹ để tránh cảnh tù tội. Sự kiện chạy trốn cũng đƣợc miêu tả kín kẽ, nhanh gọn. Vụ án đƣợc xây dựng có thắt nút, cao trào và cũng có gỡ nút tại thời điểm Khắc Hiếu gặp lại Woallak tại Praha và biết mình đã TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 54 đƣợc giải oan bởi có sự nhầm lẫn. Mặc dù vụ án không đƣợc xây dựng trọn vẹn thành một tiến trình từ nghi vấn đến giải đáp nghi vấn nhƣng nhà văn đã hơi vội vã trong quá trình giải quyết vấn đề. Tác giả đã gỡ nút thắt quá nhanh và đơn giản dẫn đến việc vụ trộm chỉ lƣớt qua nhƣ một cái cớ để Khắc Hiếu có thể sang Mỹ, đến đƣợc Sầu Thành và đi đến đƣợc Nam Mỹ (cụ thể là Brazil). Nhƣ vậy, Giấc mộng con I của Tản Đà có ẩn chứa yếu tố du ký bởi hành trình của Nguyễn Khắc Hiếu đƣợc trải dài khắp các châu lục trên thế giới, đƣợc kể lại dƣới sự chứng kiến của cái tôi trải nghiệm. Tuy nhiên sự phân bố thời gian nhân vật mà nhân vật lƣu lại không đồng đều, thời gian lƣu trú của nhân vật tại các địa điểm phục vụ cho mục đích khác ngoài chu du. Câu chuyện án oan đã đƣợc xây dựng với sự vắng mặt của hung thủ đã đƣợc xây dựng nhƣng chƣa đƣợc khai thác triệt để để tạo nên sự hấp dẫn và sinh động của thể loại trinh thám. Đây là những hạn chế rất lớn của Tản Đà khiến tác phẩm chƣa thể hoàn toàn là tiểu thuyết trinh thám hay du ký. 2.2. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Giấc mộng con I Trong cuộc hành trình dài khoảng tám năm của mình, Nguyễn Khắc Hiếu đã tiếp xúc, gặp gỡ và đã xác lập những mối quan hệ khăng khít với một số Bảng 3. Bảng tổng hợp nhân vật trong tiểu thuyết Giấc mộng con I STT Tên nhân vật Mối quan hệ với nhân vật chính/ vai trò với cốt truyện 1 Nguyễn Khắc Hiếu Nhân vật trung tâm 2 Lệ Trùng Bạn thân 3 Thu Thủy 4 Phạm Duy Tâm Ngƣời giúp Nguyễn Khắc Hiếu quen với quan tây Vinailles 5 Vinailles Ngƣời đƣa Nguyễn Khắc Hiếu sang Pháp 6 Dravine Chủ tiệm vàng bạc Drayon (nơi Nguyễn Khắc Hiếu làm thuê ở Pháp) 7 Chu Văn Lập Chủ tiệm vàng bạc ở Pháp, thân phụ của Chu Kiếu Oanh 8 Chu Kiều Oanh Tri kỷ của Nguyễn Khắc Hiệu tại Pháp 9 Woallak Bạn thƣở nhỏ của Kiều Oanh, ngƣời giúp Nguyễn Khắc Hiếu trốn sang Mỹ khi anh bị nghi oan 10 Ông chủ mục súc ngƣời Bồ Đào Nha Nhận Nguyễn Khắc Hiếu làm thuê trong lúc bị anh đang trốn 11 Quan bác sĩ Ngƣời đƣa Nguyễn Khắc Hiếu chu du nhiều nơi 12 Thống trƣởng Cõi đời mới Nguồn: Tác giả tổng hợp từ “Giấc mộng con I”, in trong Nguyễn Khắc Xƣơng (biên soạn). 2002. Tản Đà toàn tập (tập 2). Nxb. Văn học. NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – TIỂU THUYẾT GIẤC MỘNG CON CỦA 55 nhân vật. Để giúp cho việc hình dung đƣợc dễ dàng, tác giả đƣa ra bảng thống kê các nhân vật đã xuất hiện trong chuyến chu du khắp thế giới này, cả những nhân vật có mặt trƣớc khi cuộc hành trình diễn ra bởi những nhân vật đó có vai trò thúc đẩy sự ra đi của nhân vật trung tâm. Sự sắp xếp này theo thứ tự xuất hiện của nhân vật trong tiểu thuyết (Bảng 3). Theo đó, trong số các nhân vật thì Lệ Trùng, Thu Thủy, Phạm Duy Tâm và ông quan Tây Vinailles đóng vai trò thúc đẩy quá trình xê dịch của Nguyễn Khắc Hiếu. Sau cuộc trò chuyện về giang sơn, đất trời về việc con ngƣời nên “nuôi cái tài sức, theo cái ý thú” (Tản Đà, 2002: 71) thì nhân vật Khắc Hiếu mới tìm đến Phạm Duy Tâm và nhờ đó quen biết ông Vinailles, ngƣời sẽ đƣa anh ta sang Pháp. Nhân vật Phạm Duy Tâm tuy không phải nhân vật chính, không tham gia nhiều vào diễn trình truyện nhƣng lại là một yếu nhân bởi nếu không có nhân vật này thì cuộc hành trình của Nguyễn Khắc Hiếu sẽ không thể thực hiện đƣợc. Nhân vật Phạm Duy Tâm là cầu nối để Khắc Hiếu đến đƣợc những chân trời mới tuy nhiên tác giả không miêu tả cụ thể nhân vật này. Ngoài tên nhân vật, ngƣời đọc không biết thêm thông tin gì khác. Đây cũng là một trong những đặc điểm xuyên suốt tiểu thuyết này của Tản Đà. Nhà văn chƣa có sự chú trọng với những nhân vật xuất hiện, đóng vai trò quan trọng trong những bƣớc ngoặt của cuộc đời nhân vật chính. Điều này cũng xảy ra với nhân vật Vinailles, ngƣời đƣa Khắc Hiếu sang Pháp và Woallak, nhân vật giúp Khắc Hiếu trốn thoát duy chỉ có nhân vật ông quan bác sĩ, nhân vật đƣa Khắc Hiếu đi chu du khắp nơi đã đƣợc chú tâm miêu tả hơn. Đó là một ngƣời đàn ông “đã ngoại 50, cáo hƣu về nhà để làm sách” (Tản Đà, 2002: 94), có mối quan hệ quen biết với ông Dravine. Độc giả cũng hiểu đƣợc sự quan tâm của ông quan bác sĩ với ngƣời An Nam qua các dòng đối thoại với nhân vật chính. Trong hành trình phiêu lƣu của Nguyễn Khắc Hiếu đã xảy ra một sự biến đó là vụ trộm tại tiệm vàng của ông Dravine mà anh là kẻ bị tình nghi số một. Tên trộm vắng mặt từ đầu vụ án và cho đến cuối cùng vẫn không xuất hiện, không đƣợc chỉ rõ. Nhân vật duy nhất có vai trò quan trọng trong một tác phẩm trinh thám là thủ phạm, cuối cùng không đƣợc làm rõ. Đồng thời, để làm nên một tiểu thuyết trinh thám, câu chuyện này còn thiếu hệ thống các nhân vật điều tra nhƣ cảnh sát, thám tử. Truyện chỉ đảm bảo có sự kiện vụ án xảy ra, kẻ bị tình nghi và cuối cùng vụ án đƣợc phá. Nói cách khác, nó chỉ đảm bảo đƣợc về mặt tổng thể khái quát chứ chƣa đi vào chi tiết, cụ thể. Nhân vật đƣợc Tản Đà chú trọng hơn cả là cô gái 17 tuổi Chu Kiều Oanh, con gái ông Chu Văn Lập, “ngƣời Sài Gòn, sang làm ăn buôn bán ở Đại Pháp đã hơn 20 năm” (Tản Đà, 2002: 74). Cô đƣợc miêu tả là “dòng giống Lạc Hồng mà sinh trƣởng đất Đại Pháp; chữ Tây đã biết nhiều, còn đƣơng học chữ nho cũng thông hiểu TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 56 điển tích” (Tản Đà, 2002: 74), đƣợc cha mẹ yêu chiều hết mực. Thông qua các đối thoại, thƣ từ qua lại giữa Kiều Oanh và Khắc Hiếu cho thấy có sự đồng cảm, thấu hiểu không chỉ trong quan điểm sống, thế giới quan mà còn cả trong công việc văn chƣơng. Có phải chăng nhân vật Chu Kiều Oanh không chỉ là hồng nhan tri kỷ của Nguyễn Khắc Hiếu mà kỳ thực cũng chính là bóng hình ngƣời con gái lý tƣởng trong tâm khảm của nhà văn đa tình Tản Đà? Trên còn đƣờng tình duyên, Tản Đà từng gặp một cú sốc lớn khi chứng kiến cảnh ngƣời con gái mình yêu đi lấy chồng. Sau sự biến ấy, Tản Đà từng mất một thời gian để tìm lại sự cân bằng. Ngƣời vợ sau này của ông là do gia đình mai mối để giúp ông ổn định cuộc sống chứ không phải là bóng hồng ông thƣơng nhớ. Có lẽ bởi vậy mà trong lòng Tản Đà luôn chịu một ẩn ức. Hình ảnh Chu Kiều Oanh, một ngƣời con gái hoàn hảo từ nhân thân đến trí tuệ và tinh thần cũng chính là một niềm khao khát thầm kín mà Tản Đà đã ký thác vào đó. “Tản Đà vẫn sống tâm trạng của “khách phong lƣu”, “bậc tài danh” của thời đại trƣớc” (Phan Cự Đệ, 2013: 183). Với ông “ngƣời đàn bà lý tƣởng không phải chỉ là mỹ nhân mà còn là giai nhân” và ông “phân biệt yêu và lấy vợ” hết sức rõ ràng (Phan Cự Đệ, 2013: 183). Có lẽ chính vì lẽ đó mà bóng hình ấy đã đổ dài trên các trang văn của Giấc mộng con. Sau này trong Giấc mộng con II (1932), nhân vật ấy lại một lần nữa xuất hiện cũng với vai trò là tri kỷ của Nguyễn Khắc Hiếu. Các nhân vật khác trong tiểu thuyết hầu hết chỉ đƣợc kể tên hoặc miêu tả về nghề nghiệp mà không có sự hình dung cụ thể nào. Tính cách, phẩm chất của các nhân vật trong Giấc mộng con đƣợc xác định thông qua các hành động, cách ứng xử của họ với nhân vật trung tâm và qua các đối thoại, trao đổi tƣ tƣởng, quan điểm với nhân vật chính. Điều đặc biệt là trong tiểu thuyết này không có nhân vật phản diện. Nhân vật tên ăn trộm thực sự của tiệm vàng Drayon lại không đƣợc chỉ đích danh, không đƣợc miêu tả. Các nhân vật lần lƣợt xuất hiện trong tiểu thuyết để phục vụ cho việc thúc đẩy hành trình phiêu lƣu của Nguyễn Khắc Hiếu cũng nhƣ để anh ta bộc lộ chí nguyện, tâm tình và lý tƣởng của chính mình. Chính trong lúc này, tiểu thuyết Giấc mộng con I với sự manh nha của một tiểu thuyết phiêu lƣu, thậm chí là trinh thám đã biến mất nhƣờng chỗ cho một tiểu thuyết luận đề, triết luận. 3. GIẤC MỘNG CON NHƯ LÀ MỘT TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ Về mặt kết cấu tổng thể, nhƣ chúng ta đã phân tích ngay từ đầu, Giấc mộng con có tố chất của một tiểu thuyết phiêu lƣu với biên độ không gian dịch chuyển hết sức rộng lớn, thời gian chu du của nhân vật khá dài (khoảng 8 năm). Đồng thời tiểu thuyết cũng manh nha màu sắc trinh thám khi xuất hiện một vụ án không dễ đoán kết quả. Tuy nhiên các tổ chức nhân vật của Tản Đà đã dần đƣa tiểu thuyết rời xa khung kết cấu của chính nó và dẫn nó NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – TIỂU THUYẾT GIẤC MỘNG CON CỦA 57 sang một tổ chức kết cấu khác đó là trở thành tiểu thuyết luận đề. Mặc dù tiểu thuyết đƣợc tổ chức nhƣ thể là một tác phẩm phiêu lƣu nhƣng sự xuất hiện, hành động của các nhân vật xoay quanh nhân vật trung tâm đã không thể hiện điều đó. Sự hình dung của tác giả về các nhân vật, về hành động, lời nói của các nhân vật đều phục vụ cho một quan điểm về con ngƣời, về tài năng, về xã hội. Việc bộc lộ những quan điểm, lý tƣởng thông qua cuộc hành trình, đối với tác giả, nhiều khi còn quan trọng hơn cả bản thân hành trình phiêu lƣu của nhân vật. Nhân vật trung tâm Nguyễn Khắc Hiếu lúc này giống nhƣ bức chân dung tự họa chính con ngƣời Tản Đà. Vậy là mặc dù cuộc chu du khắp năm châu của nhân vật là tƣởng tƣợng, là một ảo mộng nhƣng lại là ảo mộng dựa trên thế giới tinh thần khao khát tự do, khao khát đƣợc thoát ly của Tản Đà. Đây là một tâm lý hoàn toàn dễ hiểu trong hoàn cảnh thời đại và hoàn cảnh của bản thân Tản Đà lúc đó. Cuộc đời của Nguyễn Khắc Hiếu - Tản Đà có hai biến cố lớn làm ảnh hƣởng đến tinh thần của ông mà sau này trực tiếp ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng trong thơ văn ông. Đó là việc ông yêu cô gái họ Đỗ ở phố Hàng Bồ, con của nhà tƣ sản Đỗ Thận song nhà gái đòi ông phải có công danh sự nghiệp thì mới cho cƣới. Tản Đà thi cả hai kỳ thi hƣơng năm 1909 và 1912 đều trƣợt. Hỏng thi, Tản Đà quay về Hà Nội thì ngƣời con gái ông yêu đã lên xe hoa về nhà chồng. Hai thất bại lớn này của cuộc đời đã đi vào trong các sáng tác của ông. Nó giải thích cho sự xuất hiện của những mối tình dang dở, việc trốn vào cõi tiên, cõi mộng cũng nhƣ thái độ ngông nghênh trong tác phẩm của Tản Đà. Đồng thời, lúc này đất nƣớc rơi vào ách đô hộ. Tản Đà là một trí thức yêu nƣớc đồng thời cũng là một nhà nho đa tài, thị tình. Ông khao khát đƣợc đi đến những chân trời mới không chỉ để khám phá mà còn để thi triển tài năng. Tâm lý thoát ly khỏi một xã hội đang bị kìm kẹp, đô hộ để đi tìm tự do, tìm nguồn cảm hứng và tìm nơi để tài năng đƣợc thể hiện này đã theo suốt cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Giấc mộng con trở thành một tiểu thuyết luận đề cũng là minh chứng cho những gì còn sót lại của tƣ tƣởng nho gia trong thế giới quan Tản Đà. Văn học nho gia đề cao “chí”, “đạo” (thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo). Nhà nho sáng tác thơ văn không phải để sáng tạo nghệ thuật mà mục đích đầu tiên là để nêu lên quan điểm, để thể hiện ý chí, cốt cách, nhân phẩm của mình. Nhà nho làm thơ, làm văn không phải là thú chơi đơn thuần mà phải có chức năng cảm hóa, giáo dục hoặc cảnh tỉnh nhất định. Sáng tác của họ không phải những tiểu tự sự nhƣ văn học hiện đại mà thiên về những luận điểm mang tính đại tự sự. Giấc mộng con đã bị “kẹt” ở thế đứng giữa hai hệ tƣ duy, văn học trung đại và văn học hiện đại nên mới có sự đứng giữa ngã ba đƣờng thể loại nhƣ vậy. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 58 4. THAY LỜI KẾT Tản Đà là ngƣời chủ trƣơng “bán văn” (trong Hầu trời) nghĩa là ông đã nhận ra sự cần thiết của việc thay đổi trong sáng tác văn học. Văn chƣơng cần phải hiện đại, cấp tiến và phù hợp hơn với độc giả của một xã hội đã xuất hiện hình thái sản xuất đô thị kiểu phƣơng Tây. Tuy nhiên quá trình thực hiện mộng ƣớc thay đổi đó lại bất thành. Tản Đà sáng tác văn học theo một “tiềm thức” sáng tạo rất nho gia đó là tự họa con ngƣời tinh thần, lý trí của chính mình. Tác phẩm của ông phần lớn để nói lên chí nguyện, mong ƣớc của chính tác giả. Trong tiểu thuyết này, giấc mộng lập đại nghiệp, sở thích đƣợc “xê dịch”, ƣớc nguyện về một hồng nhan tri kỷ và giấc mơ về một xã hội lý tƣởng đã đƣợc thể hiện rất rõ. Tản Đà loay hoay ở vạch ranh giới giữa văn học trung đại và văn học hiện đại để cuối cùng ông mắc vào bi kịch “lại giống” (Phan Cự Đệ và nhiều tác giả, 2013: 197). Ông “vừa bƣớc vào thực tế, các ảo tƣởng cứ vỡ dần” (Phan Cự Đệ và nhiều tác giả, 2013: 197), các giấc mộng của ông cứ thế tan vỡ. Tản Đà muốn thay đổi văn chƣơng, muốn lập nên một sự nghiệp mới hiển hách nhƣng con ngƣời văn học gốc nhà nho đã kìm giữ ngòi bút của chính ông để cuối cùng tác phẩm của ông quay trở lại với đặc điểm của văn học nho gia quen thuộc. Cả cuộc đời cầm bút của mình “Tản đà vẫn là một nhà nho, một nhà nho ít thanh thản” (Phan Cự Đệ, 2013: 202-203). Giấc mộng con I chính là một trong số những tác phẩm nằm trong vòng tròn đó. Mặc dù sự cách tân không thành công song không thể phủ nhận công sức của Tản Đà. Những cố gắng của ông đƣợc thừa nhận và đã khơi mạch cảm hứng cho các nhà văn hậu thế. Tản Đà thực sự xứng đáng là ngƣời của hai thời đại văn học, là ngƣời mở cánh cửa giao thời nhƣ Hoài Thanh (1999: 255) trong Thi nhân Việt Nam đã khẳng định: “ Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đƣơng sắp sửa”. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức. 2013. Văn học Việt Nam 1900 - 1945. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 2. Hoài Thanh. 1999. Hoài Thanh toàn tập, tập 2. Hà Nội: Nxb. Văn học. 3. Nguyễn Khắc Xƣơng (biên soạn). 2002. Tản Đà toàn tập, tập 2. Hà Nội: Nxb. Văn học.
File đính kèm:
- tieu_thuyet_giac_mong_con_cua_tan_da_nhin_tu_goc_do_the_loai.pdf