Thực trạng về nhu cầu thông tin và công tác đảm bảo thông tin tại trung tâm thông tin thư viện, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Trong các nguồn lực phát triển xã hội, thông tin được

coi là nguồn tài nguyên quan trọng. Thông tin là tri thức, là

sức mạnh và là bí quyết góp phần định hướng, giúp người

quản lý ra các quyết định chính xác. Mọi hoạt động kinh tế -

xã hội đều liên quan đến thông tin.

Nhu cầu thông tin là đòi hỏi khách quan của con người

(cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng

thông tin để duy trì hoạt động sống. Khi đòi hỏi về thông

tin trở nên cấp thiết thì nhu cầu thông tin xuất hiện. Nhu

cầu thông tin là nhu cầu của con người, là một dạng của

nhu cầu tinh thần, nhu cầu bậc cao của con người. Nhu cầu

nảy sinh trong quá trình thực hiện các loại hoạt động khác

nhau của con người, thông tin về đối tượng hoạt động, về

môi trường và các phương tiện hoạt động, là yếu tố quan

trọng tạo nên hiệu quả hoạt động của con người. Bất kỳ

hoạt động nào muốn có kết quả tốt cũng cần phải có

thông tin. Con người càng tham gia nhiều hoạt động khác

nhau thì nhu cầu thông tin càng đa dạng hơn, tham gia

hoạt động phức tạp thì nhu cầu thông tin càng chuyên sâu hơn.

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có lịch sử 120 năm

hình thành và phát triển, không những là chiếc nôi đào tạo

ra các thế hệ cha ông như: đ/c Hoàng Quốc Việt (Ủy viên bộ

chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt

Nam), đ/c Nguyễn Thanh Bình (Ủy viên Bộ chính trị Ban

chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam). mà còn

từng ngày đóng góp vào công cuộc công nghiệp hóa hiện

đại hóa trong thời kỳ đổi mới đất nước. Trung tâm Thông

tin Thư viện là một đơn vị luôn sát cánh cùng Nhà trường từ

những ngày đầu thành lập, phát triển cùng với sự phát

triển chung của Nhà trường. Với sự quan tâm, chỉ đạo sát

sao của lãnh đạo Trường, đến nay Trung tâm đã có một cơ

cở hạ tầng khang trang, rộng rãi, cơ sở vật chất hiện đại. Số

lượng người dùng thông tin ngày càng tăng, chất lượng

thông tin ngày càng cao đòi hỏi Trung tâm phải có một

chiến lược phát triển hợp lý nhằm đảm bảo nguồn thông

tin chính xác, kịp thời, chính vì vậy, công tác đảm bảo

thông tin tại Trung tâm được đặt lên hàng đầu. Nghiên cứu

này được thực hiện nhằm phân tích, đánh giá thực trạng

nhu cầu thông tin, công tác đảm bảo thông tin tại Trung

tâm Thông tin Thư viện, góp phần nâng cao chất lượng đào

tạo và nghiên cứu khoa học của trường Đại học Công

nghiệp Hà Nội.

pdf 6 trang kimcuc 6780
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng về nhu cầu thông tin và công tác đảm bảo thông tin tại trung tâm thông tin thư viện, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng về nhu cầu thông tin và công tác đảm bảo thông tin tại trung tâm thông tin thư viện, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Thực trạng về nhu cầu thông tin và công tác đảm bảo thông tin tại trung tâm thông tin thư viện, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 150
KINH TẾ
THỰC TRẠNG VỀ NHU CẦU THÔNG TIN VÀ CÔNG TÁC 
ĐẢM BẢO THÔNG TIN TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN, 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI 
STATUS OF INFORMATION DEMAND AND INFORMATION ASSURANCE 
AT THE INFORMATION AND LIBRARY CENTER OF HANOI UNIVERSITY OF INDUSTRY 
Nguyễn Thị Thanh Thủy1*, Đỗ Thị Thanh Lương1, 
Vũ Thị Thu Hiền1, Trần Thị Anh Đào1, Đặng Quang Thạch1, 
Nguyễn Thị Tâm1, Nguyễn Thị Nguyệt Minh1 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày nghiên cứu về nhu cầu thông tin và hoạt động thông tin, 
thư viện tại Trung tâm Thông tin Thư viện, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. 
Áp dụng phương pháp nghiên cứu điều tra khảo sát, kết quả nghiên cứu đã phân 
tích, đánh giá thực trạng về nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng tại 
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội; tuy nhiên, công tác đảm bảo thông tin của 
Trung tâm Thông tin Thư viện vẫn chưa tương xứng và đáp ứng được nhu cầu 
thực tiễn. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm đáp ứng tốt hơn 
nhu cầu sử dụng thông tin, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin, 
thư viện của Trung tâm Thông tin Thư viện Nhà trường. 
Từ khóa: nhu cầu thông tin; hoạt động thông tin, thư viện; Trung tâm Thông 
tin Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội 
ABSTRACT 
The article presents research on information needs and information library 
activities at the Information and Library Center, Hanoi University of Industry. 
Applying the survey methodology, the results of the study have analyzed and 
assessed the actual situation of information needs at Hanoi University of 
Industry. However, information assurance activities at the Center have not yet 
met the practical needs. Accordingly, the authors propose some solutions to 
better meet the information needs as well as improve the center's performance. 
Keywords: information demand; information assurance; The Information and 
Library Center of Hanoi University of Industry 
1Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*E-mail: thanhthuy79.dhcnhn@gmail.com 
Ngày nhận bài: 10/01/2018 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 29/03/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 15/06/2018 
1. GIỚI THIỆU 
Trong các nguồn lực phát triển xã hội, thông tin được 
coi là nguồn tài nguyên quan trọng. Thông tin là tri thức, là 
sức mạnh và là bí quyết góp phần định hướng, giúp người 
quản lý ra các quyết định chính xác. Mọi hoạt động kinh tế - 
xã hội đều liên quan đến thông tin. 
Nhu cầu thông tin là đòi hỏi khách quan của con người 
(cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng 
thông tin để duy trì hoạt động sống. Khi đòi hỏi về thông 
tin trở nên cấp thiết thì nhu cầu thông tin xuất hiện. Nhu 
cầu thông tin là nhu cầu của con người, là một dạng của 
nhu cầu tinh thần, nhu cầu bậc cao của con người. Nhu cầu 
nảy sinh trong quá trình thực hiện các loại hoạt động khác 
nhau của con người, thông tin về đối tượng hoạt động, về 
môi trường và các phương tiện hoạt động, là yếu tố quan 
trọng tạo nên hiệu quả hoạt động của con người. Bất kỳ 
hoạt động nào muốn có kết quả tốt cũng cần phải có 
thông tin. Con người càng tham gia nhiều hoạt động khác 
nhau thì nhu cầu thông tin càng đa dạng hơn, tham gia 
hoạt động phức tạp thì nhu cầu thông tin càng chuyên sâu hơn. 
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có lịch sử 120 năm 
hình thành và phát triển, không những là chiếc nôi đào tạo 
ra các thế hệ cha ông như: đ/c Hoàng Quốc Việt (Ủy viên bộ 
chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt 
Nam), đ/c Nguyễn Thanh Bình (Ủy viên Bộ chính trị Ban 
chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam)... mà còn 
từng ngày đóng góp vào công cuộc công nghiệp hóa hiện 
đại hóa trong thời kỳ đổi mới đất nước. Trung tâm Thông 
tin Thư viện là một đơn vị luôn sát cánh cùng Nhà trường từ 
những ngày đầu thành lập, phát triển cùng với sự phát 
triển chung của Nhà trường. Với sự quan tâm, chỉ đạo sát 
sao của lãnh đạo Trường, đến nay Trung tâm đã có một cơ 
cở hạ tầng khang trang, rộng rãi, cơ sở vật chất hiện đại. Số 
lượng người dùng thông tin ngày càng tăng, chất lượng 
thông tin ngày càng cao đòi hỏi Trung tâm phải có một 
chiến lược phát triển hợp lý nhằm đảm bảo nguồn thông 
tin chính xác, kịp thời, chính vì vậy, công tác đảm bảo 
thông tin tại Trung tâm được đặt lên hàng đầu. Nghiên cứu 
này được thực hiện nhằm phân tích, đánh giá thực trạng 
nhu cầu thông tin, công tác đảm bảo thông tin tại Trung 
tâm Thông tin Thư viện, góp phần nâng cao chất lượng đào 
tạo và nghiên cứu khoa học của trường Đại học Công 
nghiệp Hà Nội. 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Công tác đảm bảo thông tin đã nhận được sự quan tâm 
của các nhà nghiên cứu, như: nghiên cứu nhu cầu hứng thú 
đọc tài liệu của bạn đọc tại Thư viện Trung ương Quân đội 
của Nguyễn Thị Phương Nhung (2003); Hoàng Thị Thu 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 151
Hương (2005), đã nghiên cứu nhu cầu thông tin và giải 
pháp đảm bảo thông tin tại Trung tâm tin học Bộ thuỷ sản. 
Một số nghiên cứu liên quan đến Trung tâm Thông tin Thư 
viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội, như: Đỗ Thị Thanh 
Lương (2007); Nguyễn Thị Thanh Thủy (2017). Tuy nhiên, 
các nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến các khía cạnh mang 
tính đặc thù của đơn vị nơi tác giả đó công tác mà chưa có 
nghiên cứu nào một cách tổng thể về công tác đảm bảo 
thông tin nói chung. Trên cơ sở đó, thông qua phương 
pháp nghiên cứu điều tra khảo sát với đối tượng là người 
dùng thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học 
Công nghiệp Hà Nội, nghiên cứu này phân tích: (i) các đặc 
điểm của người dùng thông tin; (ii) nhu cầu thông tin của 
người sử dụng; (iii) thực trạng công tác đảm bảo thông tin 
của Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội. 
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính, tác giả 
tổng quan các nghiên cứu có liên quan, thu thập dữ liệu 
thứ cấp. Đồng thời, sử dụng kết hợp phương pháp điều 
tra khảo sát bằng bảng hỏi, phỏng vấn trực tiếp. Khảo sát 
được thực hiện thông qua bảng câu hỏi. Mẫu nghiên cứu 
được xác định theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. 
Số phiếu được gửi theo cơ cấu sau: mỗi khoa phát ra 100 
phiếu (trong đó 1/3 phiếu dành cho cán bộ giảng dạy và 
nghiên cứu; 2/3 số phiếu còn lại dành cho sinh viên); mỗi 
trung tâm phát ra 50 phiếu (trong đó 1/3 phiếu dành cho 
cán bộ giảng dạy; 2/3 số phiếu còn lại dành cho sinh viên). 
Tổng số phiếu phát ra là 1750 phiếu, số phiếu thu về hợp 
lệ là 1375 phiếu (trong đó 75 phiếu lãnh đạo quản lý, tổ 
chuyên môn, chiếm 6%; 375 phiếu cán bộ giáo viên, 
chiếm 27%; 925 phiếu sinh viên, chiếm 67%). Trên cơ sở 
dữ liệu từ phiếu điều tra thu về, tiến hành thống kê, phân 
tích đánh giá. 
4. KẾT QUẢ 
Đặc điểm của người dùng thông tin 
Kết quả thống kê mô tả mẫu nghiên cứu cho thấy, 
người dùng thông tin tại Trung tâm, gồm: cán bộ lãnh đạo, 
quản lý; cán bộ nghiên cứu, giảng viên; học sinh, sinh viên. 
Người dùng thông tin dù ở vị trí công tác nào cũng đều 
tiếp nhận và sử dụng thông tin nhằm mục đích phục vụ 
cho công tác chuyên môn và nâng cao kiến thức. Người 
dùng thông tin đều cho rằng, quá trình phát triển đổi mới 
kinh tế xã-hội có tác động đến nhận thức của họ. 
Hình 1. Kết quả thống kê mục đích, nhu cầu sử dụng thông tin của người dùng 
Người dùng thông tin tại Trung tâm được chia thành 03 
nhóm trên cơ sở kết quả thống kê về mục đích sử dụng 
thông tin mà họ đã cung cấp trong phiếu trả lời: Nhóm (1), 
nhu cầu thông tin của cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nhóm (2), 
nhu cầu thông tin của cán bộ nghiên cứu, giảng viên; Nhóm 
(3), nhu cầu thông tin của học sinh, sinh viên (hình 1). 
Nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý: Mặc dù, chỉ chiếm 6% 
trong tổng số người dùng thông tin nhưng đây là những 
người có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển của 
Trường. Kết quả thống kê cho thấy, đội ngũ này gồm ban 
giám hiệu, cán bộ lãnh đạo (trưởng, phó các đơn vị). Họ vừa 
là khách thể, vừa là chủ thể của thông tin trong Trường. 
Nhóm này vừa mang chức năng quản lý, vừa xây dựng 
chiến lược phát triển của Nhà trường, do đó, thông tin phục 
vụ nhóm đối tượng này là những thông tin có tính tổng 
hợp và chính xác cao. Kết quả điều tra cũng cho thấy, nhu 
cầu thông tin của nhóm này rất đa dạng, phong phú. Với 
công việc là cán bộ lãnh đạo, vì vậy, họ có nhu cầu thông 
tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà 
nước, của Bộ Công Thương để phục vụ cho công tác của 
họ. Bên cạnh đó, học cũng quan tâm đến những thông tin 
chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên môn mà họ phụ trách. 
Hình thức thông tin phục vụ nhóm đối tượng này thường là 
các bản tin chuyên đề, tổng quan, tin nhanh, tin vắn 
Nhóm cán bộ nghiên cứu, giảng viên chiếm 27% trong 
tổng số người dùng thông tin. Đây là nhóm có trình độ 
chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học cao do yêu cầu 
của công việc. Họ là những người tham gia trực tiếp vào 
hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của Trường. Vì 
vậy, đòi hỏi họ phải thường xuyên cập nhật kiến thức 
chuyên ngành, kiến thức khoa học, đồng thời, bổ sung 
những thông tin xã hội mang tính thời sự mới. Giảng viên là 
những người truyền đạt tri thức, kích thích sự sáng tạo, để 
sinh viên chủ động, tích cực trong học tập và nghiên cứu. 
Do vậy, nhu cầu thông tin của nhóm này là những thông 
tin chuyên sâu, có tính thời sự, có tính lý luận, tính thực tiễn 
cao về các ngành, lĩnh vực Nhà trường đang đào tạo, như: 
Kinh tế, Thời trang, Điện tử, Công nghệ thông tin, Du lịch 
Hình thức thông tin phục vụ nhóm đối tượng này thường là 
các thông tin chuyên đề, chọn lọc, thông tin tài liệu mới 
về các chuyên ngành, các tạp chí khoa học trong nước và 
quốc tế, cơ sở dữ liệu, tài liệu điện tử. 
Nhóm học sinh, sinh viên, chiếm 67% nhóm này bao 
gồm cả sinh viên chính quy, sinh viên vừa học vừa làm và 
sinh viên liên thông. Đây là nhóm người dùng thông tin 
chiếm tỷ lệ cao nhất, điều này cũng phù hợp với thực tế 
quy mô đào tạo hiện nay của Trường (hơn 24 nghìn học 
sinh, sinh viên), chính vì vậy, nhu cầu thông tin của nhóm 
này rất lớn. Việc đổi mới từ đào tạo theo niên chế sang đào 
tạo tín chỉ đã khiến nhóm này có nhiều thay đổi về phương 
pháp học tập. Hiện nay, phương pháp tự học, tự nghiên 
cứu là chủ yếu, do vậy cần nhiều thông tin, tài liệu trong 
quá trình học tập phù hợp với chuyên ngành cũng như hệ 
đào tạo của họ. Hình thức thông tin phục vụ chủ yếu dưới 
dạng sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo. 
Thực trạng về nhu cầu thông tin của người dùng tin 
Nhu cầu sử dụng thông tin theo dạng tài liệu: Kết quả 
điều tra cho thấy, trước đây, các dạng tài liệu truyền thống 
như sách, báo, tạp chí được sử dụng khá nhiều, còn các 
loại tài liệu hiện đại hơn như các cơ sở dữ liệu, CD-ROM hầu 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 152
KINH TẾ
như không có. Tuy nhiên, hiện nay, do sự phát triển của 
khoa học và công nghệ, nhu cầu thông tin của con người 
cũng thay đổi theo hướng đa dạng hơn, tiện ích hơn, đặt ra 
yêu cầu đối với các cơ sở cung cấp thông tin là phải nâng 
cấp trang thiết bị hiện đại, cải tiến chất lượng phục vụ, 
nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên phục vụ để đáp ứng 
được nhu cầu ngày càng cao của người dùng thông tin. 
Nhu cầu về tài liệu truyền thống đang giảm dần, thay vào 
đó là nhu cầu đối với các dạng tài liệu hiện đại, trong đó 
Internet được ưa chuộng nhất, giúp người dùng thông tin 
có thể tiếp cận với kho tàng thông tin rộng lớn của thế giới. 
Hiện nay, Trung tâm Thông tin Thư viện đang xây dựng 
Thư viện điện tử bên cạnh các dạng tài liệu truyền thống 
như: sách, báo, tạp chí vẫn được người dùng thông tin 
quan tâm và sử dụng, đặc biệt là dạng tài liệu luận văn, luận án. 
Thời gian thu thập thông tin của người dùng thông tin: 
Kết quả điều tra cho thấy, nhu cầu thông tin của người 
dùng tin tại Trung tâm khá lớn, người dùng thông tin cần 
từ 1 đến 4 tiếng trong ngày để nghiên cứu và tìm kiếm 
thông tin. Tùy theo đối tượng của từng nhóm, thời gian 
người dùng thông tin sử dụng để thu thập thông tin cũng 
khác nhua, cụ thể: với nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý, do 
công việc bận rộn nên thời gian để thu thập thông tin của 
họ không nhiều (85,34% người trả lời trong nhóm này cho 
biết, họ dành từ 1 đến 2 tiếng cho việc thu thập, tìm kiếm 
thông tin); nhóm cán bộ nghiên cứu và giảng viên có nhiều 
thời gian hơn, vì vậy thời gian dành cho tìm kiếm, thu thập 
thông tin cũng dài hơn, trung bình khoảng từ 2 đến 4 tiếng, 
tuy nhiên, theo kết quả phỏng vấn, họ cho biết, thường tìm 
kiếm thông tin tại nhà chứ không lên thư viện; với nhóm 
người dùng thông tin là học sinh, sinh viên, đây là những 
người dùng thông tin chủ yếu và chiếm số lượng đông 
nhất của Trung tâm, kết quả thống kê 925 câu trả lời trong 
nhóm này thì 100% cho biết, họ đều dành thời gian cho 
việc thu thập, tìm kiếm thông tin trong khoảng 2 đến 4 
tiếng, đặc biệt 20% trong số đó dành trên 5 tiếng. 
Nhu cầu thông tin theo ngôn ngữ xuất bản: Theo xu 
hướng thời đại, việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh trở nên 
phổ biến. Vì vậy nhu cầu sử dụng các dạng tài liệu tiếng 
Anh phục vụ học tập, giải trí cũng ngày càng phát triển. 
Bên cạnh đó, Thư viện đã cập nhật bổ sung các dạng tài 
liệu có ngôn ngữ khác như: Trung Quốc, Nhật Bản để phục 
vụ nhu cầu đa dạng của người dùng thông tin trong toàn trường. 
Nhu cầu thông tin theo lĩnh vực đào tạo: Đại học Công 
nghiệp Hà Nội là một trường đào tạo đa ngành, đa nghề 
(hơn 33 ngành đào tạo hệ đại học chính quy) với 14 khoa-
viện, 10 trung tâm, quy mô đào tạo hơn 24.000 học sinh, 
sinh viên. Với số lượng sinh viên lớn, nhiều ngành đào tạo 
khác nhau đã tạo ra sự đa dạng về nhu cầu thông tin của 
người dùng thông tin tại Trung tâm. Kết quả điều tra cho 
thấy, ngành được người dùng thông tin quan tâm, sử dụng 
nhiều nhất, đó là: cơ khí, công nghệ thông tin, ô tô, tiếng 
Anh, kế toán. 
Thực trạng công tác đảm bảo thông tin 
Công tác tổ chức các nguồn lực thông tin: Trong hoạt 
động thông tin thư viện, nguồn lực thông tin đóng vai trò 
quan trọng, là cơ sở để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ 
thông tin, làm công cụ tra cứu như thư mục, mục lục và các 
cơ sở dữ liệu dạng thư mục. Khả năng bao quát nguồn lực 
thông tin được xử lý là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất 
lượng một sản phẩm Thông tin Thư viện cho dù sản phẩm 
đó là ấn phẩm thông tin, các hệ thống tra cứu hay cơ sở dữ 
liệu. Kết quả điều tra về nguồn lực thông tin hiện có của 
Trung tâm cho thấy, (i) Cơ cấu vốn tài liệu của Trung tâm 
hiện nay bao gồm: sách, báo, sách tham khảo, chuyên khảo, 
tài liệu tra cứu, giáo khoa, giáo trình, luận văn, luận án, các 
loại báo tạp chí trong và ngoài nước, cơ sở dữ liệu và các tài 
liệu điện tửTính đến tháng 7/2017, tổng số nguồn tài liệu 
của Trung tâm có gần 8.000 đầu sách với 110.000 bản sách; 
trên 100 đầu báo, tạp chí (hình 2). Kết quả thống kê vốn tài 
liệu theo ngành/ chuyên ngành cho thấy, tài liệu về các 
ngành: cơ khí, điện, điện tử, công nghệ thông tin, khoa học 
cơ bản (Toán, Lý, Hóa) chiếm tỷ lệ lớn, tài liệu về cơ khí 
chiếm đa số, đặc biệt là tài liệu về công nghệ thông tin 
(chiếm 17,9% trên tổng số vốn tài liệu) Một số ngành/ 
chuyên ngành như Ngoại ngữ, Du Lịch, May và Thiết kế thời 
trang, số lượn ... ận, đồ án, luận văn, luận 
án được bảo vệ tại trường), tạp chí, tập san Ngoài ra, 
Trung tâm còn nhận được tài liệu tài trợ từ Quỹ châu Á 
thông qua Thư viện Quốc Gia Việt Nam, từ Dự án Jica của 
Nhật Bản; dự án hợp tác với Tập đoàn Hồng Hải 
Hoạt động chia sẻ nguồn lực thông tin: Trong thời đại 
công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, vấn 
đề chia sẻ nguồn lực thông tin của Trung tâm vẫn còn 
nhiều hạn chế. Mặc dù là thành viên của Hội liên hiệp Thư 
viện phía Bắc, Trung tâm có nhiều thuận lợi trong việc trao 
đổi thông tin giữa các thư viện trong khu vực, thông qua 
phần mềm Libol 6.0 với phân hệ ILL quản lý giao dịch, trao 
đổi tư liệu với các thư viện khác theo chuẩn quốc tế dưới 
vai trò là thư viện cho mượn và thư viện yêu cầu mượn, cho 
phép các bạn đọc của thư viện này có thể mượn sách tại 
các thư viện khác. Đây là một phần mềm hữu ích đối với 
Trung tâm trong việc thực hiện các hoạt động liên thư viện 
trong thời gian tới. Tuy nhiên, việc trao đổi thông tin với 
các thư viện trên toàn quốc vẫn còn hạn chế. 
Sản phẩm và dịch vụ thông tin, thư viện của Trung tâm 
Loại hình sản phẩm thông tin, thư viện: (i) Danh mục 
tra cứu tài liệu được xây dựng giúp tra tìm tài liệu một cách 
nhanh chóng, cung cấp danh mục, thông tin cơ bản về tài 
liệu như đăng ký cá biệt, tài liệu xếp giá năm xuất bản để 
người dùng lựa chọn và yêu cầu mượn. Tuy nhiên, danh 
mục tài liệu không tóm tắt nội dung tài liệu như việc tra 
cứu tài liệu thông qua cơ sở dữ liệu. (ii) Cơ sở dữ liệu: Từ cuối 
năm 2009, Trung tâm đã tiến hành cài đặt phầm mềm Libol 
6.0. Đặc điểm của phần mềm là chuẩn hóa, tuân thủ các 
quy trình nghiệp vụ, khả năng tùy biến, cho phép thư viện 
quản lý các dạng tài liệu số (âm thanh, hình ảnh, text) 
phổ biến, cung cấp tài liệu số đến mọi đối tượng người 
dùng, đồng thời các thư viện có thể thực hiện việc mua 
bán, trao đổi và cung cấp tài liệu điện tử một cách dễ dàng. 
(iii) Các phân hệ chức năng chính: Phân hệ tra cứu trực tuyến 
OPAC, là cổng thông tin dành cho mọi đối tượng để khai 
thác tài nguyên và dịch vụ thư viện; Phân hệ bổ sung là quy 
trình quản lý ấn phẩm chặt chẽ và xuyên suốt kể từ lúc phát 
sinh nhu cầu bổ sung tới lưu kho và đưa ra khai thác; Phân 
hệ biên mục là công cụ mạnh, thuận tiện và mềm dẻo giúp 
biên mục mọi dạng tài nguyên thư viện theo các tiêu chuẩn 
thư mục quốc tế; Phân hệ ấn phẩm định kỳ là tự động hóa 
và tối ưu hóa các nghiệp vụ quản lý đặc thù cho mọi dạng 
ấn phẩm định kỳ (báo, tạp chí, tập san); Phân hệ bạn đọc 
là quản lý thông tin cá nhân và phân loại bạn đọc giúp thư 
viện áp dụng được những chính sách phù hợp với mỗi 
nhóm bạn đọc; Phân hệ lưu thông là tự động hóa những 
thao tác thủ công lặp đi lặp lại trong quá trình mượn trả và 
tự động tính toán, áp dụng mọi chính sách lưu thông do 
thư viện thiết đặt.; Phân hệ sưu tập số là theo dõi và xử lý 
các yêu cầu đặt mua tài liệu điện tử qua mạng, quản lý kho 
tư liệu số hóa; Phân hệ mượn liên thư viện là quản lý những 
giao dịch trao đổi với các thư viện khác theo chuẩn quốc tế 
dưới các vai trò là thư viện cho mượn và thư viện yêu cầu 
mượn; Phân hệ quản lý là quản lý và phân quyền người 
dùng và theo dõi toàn bộ hoạt động của hệ thống. 
Dịch vụ thông tin, thư viện: (i) Dịch vụ cho mượn tài liệu 
với hai hình thức là cho mượn đọc tại chỗ và cho mượn về 
nhà. Dịch vụ đọc tại chỗ là hình thức phục vụ truyền thống 
của Trung tâm. Việc tạo ra chỗ ngồi để bạn đọc sử dụng 
dịch vụ đọc tại chỗ luôn được Trung tâm ưu tiên bởi đọc tại 
chỗ là nhu cầu không thể thiếu đối với người dùng dịch vụ 
thông tin, thư viện. Dịch vụ này đáp ứng nhu cầu tra cứu, 
tìm kiếm các thông tin ngắn gọn như dữ kiện, số liệu hoặc 
tra cứu trên các báo, tạp chí Dịch vụ đọc tại chỗ của 
Trung tâm được cung cấp theo các phòng đọc: Phòng đọc 
tại chỗ, Phòng ngoại văn; Phòng mở - tự chọn; Phòng đọc 
điện tử; Phòng báo- tạp chí. Dịch vụ cho mượn về nhà cho 
phép người dùng thông tin mang tài liệu về nhà sử dụng 
trong một thời hạn nhất định. Các tài liệu cho mượn về nhà 
chủ yếu là sách, giáo trình, đề cương bài giảng về các 
ngành/ chuyên ngành Nhà trường đào tạo. Quy định cho 
mượn tài liệu về nhà như sau: đối với cán bộ, giảng viên, 
được mượn tài liệu tham khảo mỗi lần không quá 05 đơn vị 
tài liệu và giữ trong sổ mượn không quá 10 đơn vị tài liệu; 
thời gian mượn tối đa là 01 tháng, với những tài liệu dùng 
làm giáo trình giảng dạy, được mượn trong suốt quá trình 
giảng dạy môn học đó; đối với học sinh, sinh viên, được 
mượn mỗi lần 02 đơn vị tài liệu và giữ trong sổ không quá 
06 đơn vị tài liệu, thời gian giữ không quá 02 tuần, đối với 
tài liệu là giáo trình môn học, được mượn trong suốt quá 
trình học môn đó và khi trả hết tài liệu của phần môn học 
đã kết thúc mới được mượn cho học phần sau. Dịch vụ cho 
mượn về nhà tạo điều kiện cho người dùng chủ động về 
thời gian, địa điểm nghiên cứu tài liệu, vì vậy, hoạt động 
này tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong hoạt động thông 
tin, thư viện của Trung tâm. (ii) Dịch vụ sao, chụp tài liệu 
cung cấp tài liệu gốc cho người dùng thông tin trong 
trường hợp họ muốn có tài liệu để sử dụng lâu dài hoặc tài 
liệu đó không được phép mang về nhà. (iii) Dịch vụ trao đổi 
thông tin với một số cơ quan tổ chức trong nước như: Hội 
liên hiệp Thư viện các trường đại học khu vực phía Bắc, Thư 
viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện của các trường đại học có 
cùng chuyên ngành Tuy nhiên, số lượng và chất lượng 
chưa đem lại hiệu quả thực tế. (iv) Dịch vụ học nhóm, với 12 
phòng học nhóm cung cấp cho sinh viên có nhu cầu sử 
dụng loại hình này. Phòng được trang bị đầy đủ bàn, ghế, 
bảng, bút viết, máy lạnh Tuy nhiên, tần suất sử dụng 
chưa nhiều, dịch vụ này chỉ đáp ứng một bộ phận nhỏ 
người dùng thông tin có nhu cầu học và nghiên cứu theo nhóm. 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 154
KINH TẾ
Đánh giá của người dùng thông tin về dịch vụ thông 
tin, thư viện của Trung tâm 
Điểm mạnh: (i) Về nguồn lực thông tin, Trung tâm đã 
xây dựng được nguồn lực thông tin phong phú về các lĩnh 
vực khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội, chính trị - văn 
hóa. Nguồn thông tin truyền thống ngày càng được mở 
rộng, khối lượng tài liệu tương đối lớn, đảm bảo đáp ứng 
nhu cầu dạy, học và nghiên cứu của cán bộ, giảng viên, học 
sinh, sinh viên trong toàn trường. Nguồn lực thông tin được 
người dùng đánh giá cao về nội dung, đa dạng về hình 
thức và có tính cập nhật (bảng 1). Việc bổ sung và cập nhật 
nguồn tài liệu của Trung tâm trong thời gian qua đã được 
người dùng tin trong toàn trường đánh giá cao, 28% người 
dùng tin đánh giá Trung tâm đã đáp ứng tốt nhu cầu thông 
tin của họ; 42% cho rằng nguồn thông tin của Trung tâm 
đáp ứng được phần nào nhu cầu; tuy nhiên, 30% người 
dùng tin chưa thỏa mãn với sự đáp ứng của Trung tâm. (ii) 
Về cơ sở vật chất, Trung tâm đã trang bị một cơ sở hạ tầng 
rộng rãi, khang trang, thoáng mát, một hệ thống cơ sở vật 
chất được đầu tư mới và hiện đại. (iii) Về nguồn nhân lực, 
Trung tâm hiện có 26 cán bộ. Trung tâm thường xuyên tổ 
chức các buổi học tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ cán bố, tạo đà 
cho sự phát triển của Trung tâm trong tương lai. (iv) Về 
hướng dẫn, đào tạo người dùng thông tin, được Trung tâm 
thực hiện thường xuyên. Chương trình, tài liệu hướng dẫn 
sử dụng và khai thác thông tin tại Trung tâm được trường 
xét duyệt và chính thức đưa vào thực hiện từ năm học 
2005-2006. 
Bảng 1. Đánh giá của người dùng tin về nguồn lực thông tin của Trung tâm 
Điểm yếu: (i) Về nguồn lực thông tin, mặc dù Trung tâm 
đã nỗ lực bổ sung vốn tài liệu, song chưa đảm bảo được tối 
đa nhu cầu của người dùng tin. Trong thời đại bùng nổ 
thông tin như hiện nay, vấn đề cập nhật thông tin của tài 
liệu còn chưa kịp thời; lựa chọn nguồn tài liệu bổ sung còn 
nhiều hạn chế, nhiều tài liệu chưa thực sự bám sát chương 
trình học; vẫn còn hiện tượng có tên sách rất cần nhưng số 
lượng ít, trong khi sách có ít nhu cầu sử dụng thì số lượng 
lại quá nhiều, điều này đã làm giảm hứng thú đọc của 
người dùng thông tin. (ii) Nguồn tài liệu điện tử hiện nay đã 
được đưa vào phục vụ, tuy nhiên do kinh phí bổ sung hạn 
hẹp, vì vậy số lượng bổ sung chưa nhiều và chỉ tập trung 
vào một số ngành thiết yếu, do vậy, chỉ phục vụ được một 
phần nhu cầu của người dùng tin, không thỏa mãn được 
nhu cầu thông tin của người dùng trong toàn trường, nhất 
là trong bối cảnh Trung tâm đang hướng người dùng 
thông tin đến một trình độ mới: Thư viện điện tử, người 
dùng thông tin điện tử. (iii) Với số lượng người dùng thông 
tin đông đảo như hiện nay, việc đáp ứng tốt nhất mọi nhu 
cầu thông tin là việc làm tương đối khó. Trung tâm phải 
thỏa mãn nhu cầu của không chỉ cán bộ, giảng viên mà của 
học sinh, sinh viên tất cả các hệ đào tạo trong toàn trường, 
vì vậy, không phải học sinh, sinh viên nào đến thư viện 
cũng hiểu được và quý trọng Thư viện. Trình độ công nghệ 
thông tin của sinh viên để tìm kiếm, thu thập thông tin 
cũng còn nhiều hạn chế. (iv) Máy móc, thiết bị phục vụ việc 
tra cứu, tìm kiếm tại Trung tâm, hiện chủ yếu vẫn là thông 
qua cơ sở dữ liệu và thông qua danh mục tài liệu. Cả hai 
hình thức này đã biểu hiện sự lỗi thời, chưa đáp ứng được 
tối đa nh cầu của người sử dụng. Với danh mục sách, một 
quyển chỉ một người được sử dụng, thời gian tra cứu lâu, 
mất thời gian, trong quá trình sử dụng có thể bị mất trang, 
rách, sách được bổ sung trong kho có thể chưa được bổ 
sung trong danh mục dẫn đến tình trạng để sách ‘chết’ 
trong kho một thời gian, làm ảnh hưởng đến nhu cầu của 
người dùng thông tin cũng như giá trị thời sự của tài liệu; 
với cơ sở dữ liệu người dùng có thể tìm kiếm thông tin 
nhanh, hiệu quả, khá thân thiện, là giao diện thông minh và 
thỏa mãn nhu cầu tìm kiếm thông tin của hầu hết người 
dùng, tuy nhiên, do hạn chế về số máy tính phục vụ tra cứu 
nên thường xuyên xảy ra tình trạng quá tải, vị trí tra cứu lộn 
xộn, ồn ào gây mất trật tự trong Trung tâm. (v) Sản phẩm 
dịch vụ thông tin, thư viện, mặc dù Trung tâm đã rất cố 
gắng đưa ra các hình thức dịch vụ mới, phục vụ nhu cầu đa 
dạng của người dùng thông tin trong toàn trường, tuy 
nhiên, công tác này chưa thực sự hiệu quả, nhiều sản phẩm 
dịch vụ còn thiếu và yếu; thông tin tóm tắt, tổng luận, dịch 
tài liệu, dịch vụ tư vấn và những sản phẩm dịch vụ thông 
tin thư viện có giá trị gia tăng cao, hữu ích với người dùng 
tin nhưng hiện vẫn chưa được triển khai thực hiện tại Trung 
tâm. Dịch vụ in ấn, sao chép, dịch vụ học nhóm mặc dù 
đã thực hiện, song chất lượng, hiệu quả chưa cao, chưa thu 
hút người dùng thông tin đến sử dụng. Một số dịch vụ khác 
còn rất nghèo nàn, lỗi thời. (vi) Chia sẻ nguồn lực thông tin 
còn nhiều hạn chế, chưa khai thác triệt để vai trò thành 
viên trong Hội liên hiệp Thư viện phía Bắc. 
5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 
Dựa vào kết quả phân tích thực trạng công tác đảm bảo 
thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện, trường Đại học 
Công nghiệp Hà Nội, nhóm tác giả khuyến nghị một số giải 
pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động thông tin thư 
viện của Trung tâm, thỏa mãn nhu cầu sử dụng thông tin 
của thầy và trò trường Đại học Công nghiệp Hà Nội như 
sau: 
Thứ nhất, phát triển và đa dạng hóa nguồn tài 
nguyên: Có chính sách phát triển nguồn tài liệu và sử dụng 
hiệu quả nguồn tài liệu. Phát triển có chọn lọc các loại hình 
tài liệu mới nhằm đa dạng hóa nguồn tài liệu. Thăm dò ý 
kiến giảng viên, sinh viên nhằm bổ sung tài liệu phù hợp 
với xu hướng đổi mới phương pháp dạy và học. Phân bổ 
hợp lý nguồn ngân sách. Đánh giá tính hiệu quả của nguồn 
tài liệu sau một thời gian sử dụng. 
Thứ hai, chia sẻ nguồn thông tin gặp nhiều khó khăn 
chủ yếu là do: sự khác biệt về trình độ công nghệ, về chi 
phí, chưa có sự liên kết giữa các đơn vị... Vì vậy, tháo gỡ 
SL 
(người)
TL
(%)
SL
 (người)
TL
(%)
SL 
(người)
TL
(%)
SL 
(người)
TL
(%)
Tốt 386 28 15 20 44 11,7 327 35,3
Khá 568 42 56 74,7 225 60 287 31
Trung bình 350 25 4 5,3 98 26,1 248 26,8
Kém 71 5 0 0 8 2,2 63 6,9
Tổng số 1375 100 75 100 375 100 925 100
Tổng số
Cán bộ 
lãnh đạo quản lý
Cán bộ Giáo viên Học sinh, sinh viên
Mức độ đáp ứng 
nhu cầu tin
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 155
những khó khăn trên gợi mở cho Trung tâm giải pháp để 
giải quyết vấn đề về chia sẻ nguồn thông tin. 
Thứ ba, trang bị hạ tầng công nghệ thông tin: Cần lưu 
đảm bảo tính ổn định, tương thích của hệ thống; bảo trì, 
cập nhật mới thường xuyên; tập huấn cho nhân viên của 
Trung tâm về cách thức sử dụng các ứng dụng mới. 
Thứ tư, đa dạng hóa và đẩy mạnh quảng bá các dịch 
vụ thông tin thư viện: Cần chú trọng đến các công cụ của 
quan hệ công chúng hơn là quảng cáo như: tổ chức các 
hoạt động Câu lạc bộ bạn đọc; triển lãm các sảm phẩm 
thông tin mới, độc đáo do chính người dùng tin đóng góp; 
hoặc tổ chức trưng bày/ giới thiệu sách theo chủ đề/ nhân 
vật; xây dựng và duy trì mối liên hệ mật thiết với người 
dùng hoặc nhóm người dùng thông tin của Trung tâm. 
Thứ năm, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên: Có chiến lược 
phát triển chuyên môn liên tục, phù hợp; tạo điều kiện cho 
những nhân viên muốn học thêm để nâng cao trình độ; 
khuyến khích tinh thần tự học của nhân viên; tạo động lực 
cho nhân viên trong công việc cũng như trong đào tạo. 
Đảm bảo thông tin cho người dùng thông tin tại Trung 
tâm Thông tin Thư viện, trường Đại học Công nghiệp Hà 
Nội đòi hỏi hoạt động thông tin phải có sự chuyển biến căn 
bản về chất lượng. Muốn vậy cần thực hiện một cách đồng 
bộ các giải pháp nhằm phát huy tiềm năng và sức mạnh 
của thông tin, phục vụ tốt nhất công tác quản lý, nghiên 
cứu, giảng dạy và học tập của cán bộ, giảng viên, học sinh, 
sinh viên trong toàn Trường./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đặng Quang Hiệp, (2006), Tăng cường hoạt động thông tin thư viện 
Trường Đại học Hàng Hải trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ khoa học Thư 
viện, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn. 
[2]. Đỗ Thị Thanh Lương, (2007), Nghiên cứu nhu cầu thông tin và đảm bảo 
thông tin cho người dùng thông tin tại Trung tâm Thư viện, Đại học Công nghiệp 
Hà Nội, khóa luận tốt nghiệp Thông tin Thư viện, Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn. 
[3]. Hà Thị Huệ, (2005), Tăng cường nguồn lực thông tin tại Trường ĐH Bách 
Khoa Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Khoa học Thư viện, Hà Nội. 
[4]. Hoàng Thị Thu Hương (2005), Nghiên cứu nhu cầu thông tin và giải pháp 
đảm bảo thông tin tại Trung tâm tin học Bộ thuỷ sản, Luận văn thạc sỹ Khoa học 
Thư viện, Đại học Văn hoá Hà Nội 
[5]. Nguyễn Thị Phương Nhung, (2003), Nghiên cứu nhu cầu hứng thú đọc 
tài liệu của bạn đọc tại Thư viện Trung ương Quân đội, luận văn thạc sỹ Khoa học 
Thư viện, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. 
[6]. Nguyễn Thị Thanh Thủy, (2017), Thực trạng và giải pháp phát triển văn 
hóa đọc của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, Tạp chí Khoa học Công 
nghệ, số 38: 147 - 151. 
[7]. Trần Mạnh Tuấn, (1998), Sản phẩm và dịch vụ Thông tin - Thư viện; giáo 
trình, trung tâm Thông tin tư liệu khoa học và công nghệ Quốc gia, Hà Nội. 
[8]. Trường ĐHCNHN, (2008), Dự án xây dựng Thư viện điện tử Trường 
ĐHCNHN. 
[9]. 
[10]. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_ve_nhu_cau_thong_tin_va_cong_tac_dam_bao_thong_ti.pdf