Thử nghiệm dự tính số ngày nắng nóng khu vực Việt Nam bằng mô hình clWRF
Ngưỡng nắng nóng của mô hình tại
mỗi trạm sau đó được dùng để tính số ngày nắng nóng trong tương lai.
Kết quả dự tính cho thấy, vào giữa thế kỷ 21, theo kịch bản trung bình RCP4.5, số ngày nắng
nóng trung bình năm tăng phổ biến 20-40 ngày so với thời kỳ cơ sở 1986-2005 trên hầu hết phạm
vi cả nước. Theo kịch bản cao RCP8.5, số ngày nắng nóng tăng phổ biến 30-60 ngày trên phạm vi
cả nước, phổ biến 30-40 ngày đối với các vùng khí hậu phía Bắc, phổ biến 50-70 ngày đối với các
vùng khí hậu phía Nam. Theo cả hai kịch bản RCP4.5 và RCP8.5, vào giữa thế kỷ 21, số ngày nắng
nóng ở các vùng khí hậu phía Nam tăng nhanh hơn so với các vùng khí hậu phía Bắc.
Bạn đang xem tài liệu "Thử nghiệm dự tính số ngày nắng nóng khu vực Việt Nam bằng mô hình clWRF", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thử nghiệm dự tính số ngày nắng nóng khu vực Việt Nam bằng mô hình clWRF
28 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI THỬ NGHIỆM DỰ TÍNH SỐ NGÀY NẮNG NÓNG KHU VỰC VIỆT NAM BẰNG MÔ HÌNH clWRF Phạm Quang Nam, Vũ Văn Thăng, Trương Bá Kiên, Mai Văn Khiêm Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Bùi Phong, Đàng Hồng Như, Lã Thị Tuyết, Nguyễn Thị Hoan và Ngô Tiền Giang Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Bài báo này trình bày kết quả mô phỏng và dự tính số ngày nắng nóng cho khu vực ViệtNam bằng mô hình clWRF. Ngưỡng nắng nóng của mô hình được xác định dựa vàophân vị quan trắc của ngưỡng nắng nóng nhiệt độ cực đại ngày ≥ 350C tại 65 trạm quan trắc khí tượng bề mặt của Việt Nam thời kỳ 1986-2005. Ngưỡng nắng nóng của mô hình tại mỗi trạm sau đó được dùng để tính số ngày nắng nóng trong tương lai. Kết quả dự tính cho thấy, vào giữa thế kỷ 21, theo kịch bản trung bình RCP4.5, số ngày nắng nóng trung bình năm tăng phổ biến 20-40 ngày so với thời kỳ cơ sở 1986-2005 trên hầu hết phạm vi cả nước. Theo kịch bản cao RCP8.5, số ngày nắng nóng tăng phổ biến 30-60 ngày trên phạm vi cả nước, phổ biến 30-40 ngày đối với các vùng khí hậu phía Bắc, phổ biến 50-70 ngày đối với các vùng khí hậu phía Nam. Theo cả hai kịch bản RCP4.5 và RCP8.5, vào giữa thế kỷ 21, số ngày nắng nóng ở các vùng khí hậu phía Nam tăng nhanh hơn so với các vùng khí hậu phía Bắc. Từ khóa: Dự tính khí hậu, nắng nóng, clWRF Người đọc phản biện: TS. Lương Tuấn Minh 1. Giới thiệu Trong những thập kỷ gần đây, những thay đổi của cực đoan khí hậu đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước do những ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường và con người. Nắng nóng là một trong những hiện tượng cực đoan khí hậu xảy ra trên hầu hết các vùng khí hậu Việt Nam, nắng nóng gây tác động xấu tới nhiều lĩnh vực sản xuất và đời sống. Theo chỉ tiêu hiện đang áp dụng tại Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương, một đợt nắng nóng xuất hiện trên một khu vực nào đó nếu một nửa số trạm trở lên trong khu vực đó có nhiệt độ cực đại ngày (Tx) ≥ 350C và độ ẩm tương đối (RH) ≤ 55% và xuất hiện từ hai ngày trở lên. Một chuỗi ngày nắng nóng có xen kẽ một ngày chưa đạt tiêu chuẩn nắng nóng nhưng trong ngày đó có ít nhất một nửa số trạm có Tx xấp xỉ 350C và RH ≤ 55% vẫn được xem là một đợt nắng nóng liên tục [10]. Theo báo cáo lần thứ 4 của IPCC (AR4, 2007), ngày nắng nóng được xác định khi nhiệt độ cực đại ≥ 350C [6]. Trong nghiên cứu này nắng nóng được xác định theo phương pháp của IPCC. Mô hình clWRF (Climate WRF model) được phát triển cho mục đích dự báo và dự tính khí hậu trên cơ sở mô hình WRF (The Weather Re- search and Forecast) của Mỹ. Mô hình clWRF được nhiều tổ chức nghiên cứu quốc tế và trong nước sử dụng làm công cụ dự báo và dự tính khí hậu. Mô hình này đã được ứng dụng trong dự án CORDEX (The Cordinated Regional climate Downscaling EXperiment) thuộc Chương trình nghiên cứu khí hậu thế giới (WCRP) của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) phối hợp cùng với hơn 30 tổ chức nghiên cứu khác nhau. Dự án đã mô phỏng khí hậu, xây dựng các kịch bản khí hậu cho hầu hết các khu vực trên thế giới như châu Âu, châu Úc, châu Phi, Nam Mỹ, vùng Đông và Trung tâm châu Á,[11]. Gao và cs (2012) ứng dụng mô hình WRF với độ phân giải cao dự tính nắng nóng cho khu vực Bắc Mỹ; kết quả cho thấy, theo kịch bản RCP8.5 vào giai đoạn 2050-2059, nắng nóng trở nên nghiêm trọng hơn ở hâù hêt́ các khu vực phía đông nước Mỹ [8]. Maule và cs (2013) sử dụng 2 mô hình WRF và Earth-Hirham5 dự tính năńg nóng cho khu vực Băć châu Âu cho thấy, tỉ lệ xuât́ hiện năńg nóng ở khu vực này tăng lên 29TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 và các đợt năńg nóng sẽ kéo dài hơn trong tương lai [5]. Ở Việt Nam, những năm gần đây đã có một số kết quả nghiên cứu về mức độ và xu thế biến đổi của nắng nóng. Phan Văn Tân và cs (2010) đã nghiên cứu số ngày nắng nóng dựa trên số liệu quan trắc của một số trạm đại diện cho các vùng khí hậu của Việt Nam thời kỳ 1961-2007. Kết quả cho thấy, hiện tượng nắng nóng ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng dần từ Bắc vào Nam, ở các vùng khí hậu phía Nam lại tăng dần từ Nam ra Bắc và miền Trung là trung tâm nắng nóng của cả nước [4]. Các kết quả dự tính số đợt nắng nóng cho Việt Nam bằng mô hình CCAM và mô hình PRECIS cho thấy, số ngày nắng nóng có xu thế tăng trên quy mô cả nước trong thế kỷ 21, tăng nhanh đáng kể ở các khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ [2, 3]. Các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam xác định nắng nóng trực tiếp từ giá trị mô phỏng nhiệt độ của mô hình. Theo cách tiếp cận này, nếu mô hình có xu thế mô phỏng nhiệt độ thiên thấp, việc xác định số ngày nắng nóng ở một số trạm sẽ không thể thực hiện được. Để khắc phục hạn chế trên, trong bài báo này chúng tôi sử dụng phương pháp xác định nắng nóng của mô hình theo phân vị quan trắc của ngưỡng nắng nóng tại các trạm. 2. Phương pháp và số liệu nghiên cứu 2.1. Phương pháp xác định nắng nóng Ngưỡng nắng nóng mô hình clWRF được xác định từ phân vị quan trắc (percentile) của ngưỡng nắng nóng (Tx ≥ 350C) [7, 9]. Các bước tính toán như sau: 1) Từ số liệu quan trắc Tx tại 65 trạm, xác định phân vị quan trắc của ngưỡng 350C tại 65 trạm đó (P35); 2) Nội suy số liệu nhiệt độ Tx của mô hình về vị trí 65 trạm; 3) Từ phân vị quan trắc P35 của 65 trạm, xác định nhiệt độ Tx của mô hình tại 65 trạm có giá trị bằng P35 tương ứng, được giá trị nhiệt độ T35 tại 65 trạm đó. Giá trị T35 tính được là ngưỡng nắng nóng của mô hình tương ứng tại 65 trạm đó. 2.2. Câú hình mô hình và thiết kê ́ thí nghiệm Mô hình clWRF chạy với 2 miêǹ tính lôǹg nhau. Miêǹ tính 1 (d01) với độ phân giải 90 km bao gôm̀ 58×54 điêm̉ nút lưới, bao phủ từ 90S- 32,50N, 87-134°E. Miêǹ tính 2 (d02) với độ phân giải 30 km, bao gôm̀ 69×90 điêm̉ nút lưới, bao phủ trên phạm vi từ 3,5-270N, 97-1260E (hình 1), trên 27 mưc̣ thăn̉g đứng. Các sơ đô ̀tham sô ́hóa vật lý sử dụng bao gôm̀: Sơ đô ̀tham số hóa vi vật lý WRF Single- Moment 3-class; Sơ đô ̀tham số hóa bức xạ sóng ngăń, sóng dài CAM và sơ đô ̀tham sô ́hóa đôí lưu Old Kain-Fritsch. Số liệu GCM theo CMIP5 của mô hình khí quyển toàn cầu Nauy (NorESM), độ phân giải 2,5 x 1,8947 độ kinh vĩ được sử dụng làm điều kiện ban đầu và điều kiện biên cho mô hình clWRF. Thực hiện mô phỏng khí hậu hiện tại và dự tính tương lai cho khu vực Việt Nam và phụ cận, thời kỳ mô phỏng 2006-2100 theo hai kịch bản RCP4.5 và RCP8.5. Kết quả mô phỏng của mô hình clWRF được nội suy về các điểm trạm quan trắc. Số liệu Tx của 65 trạm quan trắc thời kỳ 1986-2005 được sử dụng để đánh giá khả năng mô phỏng và xác định ngưỡng nắng nóng của mô hình. 3. Kết quả và thảo luận 3.1 Xác định ngưỡng nắng nóng của mô hình clWRF từ số liệu quan trắc Kết quả xác định số ngày nắng nóng từ số liệu quan trắc trên hình 2a cho thấy, số ngày nắng nóng phổ biến 15-25 ngày ở các vùng khí hậu Tây Bắc (TB), Đông Bắc (ĐB), Đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB), nhiều nhất lên đến 40 ngày ở trạm Yên Châu và thấp nhất dưới 5 ngày ở các trạm Văn Lý và Sơn La. Ở Bắc Trung Bộ (BTB), số ngày nắng nóng xuất hiện nhiều hơn so với 3 vùng khí hậu phía Bắc, phổ biến 40 - 60 ngày, nhiều nhất trên 80 ngày (Tương Dương, Nam Đông) và ít nhất dưới 25 ngày (Quỳnh Lưu, Thanh Hóa). Ở Nam Trung Bộ (NTB), số ngày nắng nóng phổ biến từ 40 - 50 ngày, nhiều nhất NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI 30 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI trên 70 ngày (Ba Tơ) và ít nhất dưới 5 ngày (Nha Trang, Phan Thiết). Ở Tây Nguyên (TN), số ngày nắng nóng biến động khá mạnh giữa các trạm trong vùng, trên 50 ngày ở A Yun Pa và dưới 5 ngày xuất hiện ở những nơi có địa hình cao như Pleiku và Đắk Tô. Ở Nam Bộ (NB), số ngày nắng nóng thấp, phổ biến dưới 10 ngày. Kết quả tính phân vị của ngưỡng nắng nóng của các trạm trên cả nước (hình 2b) cho thấy, các vùng khí hậu phía Bắc phổ biến từ 92 - 96%, trên 96% ở một số trạm như Điện Biên, Sơn La (TB), Phủ Liễn, Văn Lý (ĐBBB). Ở Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ phổ biến từ 85 - 90%, cao nhất trên 98% ở trạm Nha Trang, Phan Thiết và thấp nhất dưới 80% ở trạm Tương Dương và Nam Đông (BTB). Ở Tây Nguyên và Nam Bộ phổ biến trên 94%, riêng trạm A Yun Pa (TN) dưới 85%. Ngưỡng nắng nóng của mô hình xác định được từ phân vị ngưỡng nắng nóng của quan trắc tại các trạm trên hình 2c cho thấy, ngưỡng nắng nóng của mô hình phổ biến từ 32 - 330C đối với các vùng khí hậu phía Bắc và Nam Bộ. Ở Nam Tây Nguyên và Nam Trung Bộ phổ biến 30 - 310C. Từ ngưỡng nắng nóng của mô hình có thể thấy rằng, mô hình clWRF mô phỏng nhiệt độ cực đại thấp hơn so với giá trị quan trắc trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các vùng Tây Nguyên và Nam Bộ. 3.2 Kết quả dự tính tương lai số ngày nắng nóng tại trạm từ mô hình clWRF Với kịch bản phát thải trung bình thấp RCP4.5, vào giữa thế kỷ 21 (2050), số ngày nắng nóng tăng 20 - 40 ngày so với thời kỳ cơ sở 1986 - 2005 trên đa số các trạm của Việt Nam. Ở các vùng khí hậu phía Bắc, số ngày nắng nóng tăng phổ biến từ 20 - 30 ngày, trên 40 ngày ở các trạm Huế, Nam Đông và dưới 15 ngày ở các trạm Lạng Sơn, Thái Bình. Ở các vùng khí hậu phía Nam, số ngày nắng nóng tăng nhanh hơn so với các vùng khí hậu phía Bắc (hình 3a). Với kịch bản phát thải cao RCP8.5, vào giữa thế kỷ 21, trên đa số các trạm của Việt Nam, số ngày nắng nóng trung bình năm tăng 30 - 60 ngày so với thời kỳ cơ sở 1986-2005. Ở các vùng khí hậu phía Bắc, số ngày nắng nóng tăng phổ biến 30-40 ngày, trên 40 ngày ở các trạm Lai Châu, Yên Châu (TB); Huế, Nam Đông (BTB). Ở các vùng khí hậu phía Nam, số ngày nắng nóng tăng phổ biến 50-70 ngày; trên 70 ngày ở các trạm Quy Nhơn, Tuy Hòa (NTB), A Yun Pa (TN); trên 90 ngày ở Cà Mau, Cần Thơ (NB). Riêng các trạm Pleiku (TN) và Vũng Tàu (NB) có số ngày nắng nóng tăng ít nhất, dưới 15 ngày (hình 3b). Sự tăng mạnh về số ngày nắng nóng ở khu vực phía Nam trong tương lai ở cả hai kịch bản phát thải có thể do nền nhiệt độ khu vực này gần với ngưỡng nắng nóng, khi nhiệt độ tăng 2-30C, một lượng lớn số ngày gần ngưỡng sẽ đạt tới nhiệt độ nắng nóng 350C. 4. Kết luận Số ngày nắng nóng từ số liệu quan trắc trung bình thời kỳ 1986 - 2005 ở Việt Nam phổ biến từ 20 - 40 ngày, nhiều nhất trên 60 ngày ở Bắc Trung Bộ và ít nhất dưới 15 ngày ở khu vực Nam Bộ. Kết quả phân tích khả năng mô phỏng và dự tính tương lai số ngày nắng nóng trung bình năm cho khu vực Việt Nam bằng mô hình clWRF cho thấy, mô hình mô phỏng Tx thấp hơn so với quan trắc trên tất cả các trạm của Việt Nam. Đối với các vùng khí hậu phía Bắc (TB, ĐB, ĐBBB, BTB), mô hình mô phỏng thấp hơn khoảng 2- 30C và mô phỏng thấp hơn 3 - 50C ở các vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Vào giữa thế kỷ 21, theo kịch bản trung bình RCP4.5, số ngày nắng nóng trung bình năm tăng phổ biến 20 - 40 ngày trên đa số các trạm của Việt Nam, trên 40 ngày ở các trạm thuộc các vùng khí hậu phía Nam. Theo kịch bản cao RCP8.5, số ngày nắng nóng tăng phổ biến 30 - 60 ngày trên phần lớn lãnh thổ cả nước, phổ biến 30 - 40 ngày đối với các vùng khí hậu phía Bắc và 50 -70 ngày đối với các vùng khí hậu phía Nam. Như vậy, vào giữa thế kỷ 21, số ngày nắng nóng của các vùng khí hậu phía Nam tăng nhanh hơn các vùng khí hậu phía Bắc theo cả hai kịch bản RCP4.5 và RCP8.5. 31TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI Hình 3. Dự tính biến đổi số ngày nắng nóng trung bình năm tại các trạm thời kỳ giữa thế kỷ 21 so với thời kỳ 1986-2005, theo kịch bản RCP4.5(a) và RCP8.5 (b) Hình 2. Số ngày nắng nóng tại 65 trạm quan trắc (a); Phân vị Tx của 350C tại 65 trạm quan trắc tương ứng (b); Ngưỡng nắng nóng của mô hình clWRF (c), thời kỳ 1986-2005 Hình 1. Miêǹ tính của mô hình clWRF 32 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI Tài liệu tham khảo 1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2014); Ứng dụng mô hình hệ thống Trái Đất của Na Uy xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu, hệ thống gió mùa và các hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam; Báo cáo tổng kết dự án 2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2013); Dự tính khí hậu tương lai với độ phân giải cao cho Việt Nam; Báo cáo kết quả Dự án 3. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, (2015). Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về Quản lý rủi do thiên tai và hiện tượng cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu; NXB Tài nguyên-Môi trường và Bản đồ Việt Nam. 4. Phan Văn Tân và cs, (2009); Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến các yếu tố và hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam, khả năng dự báo và giải pháp chiến lược ứng phó. Báo cáo Tổng kết đề tài NCKH cấp nhà nước. 5. Cathrine Fox Maule et. al, (2013); Assessing projected changes in heat waves over Northern Europe using two regional climate models at 8-km resolution, Geophysical Research Abstracts Vol. 15, EGU2013-8836. 6. IPCC: Climate Change 2007; - The Physical Science Basis. Cambridge University Press., 996 p. 7. Ngar-Cheung Lau and Mary Jo Nath, (2012); A Model Study of Heat Waves over North Amer- ica: Meteorological Aspects and Projections for the Twenty-First Century. J. Climate, 25, 4761– 4784. 8. Y Gao et. al, (2012); Projected changes of extreme weather events in the eastern United States based on a high resolution climate modeling system, Invironmental Research Letters, t. 7; 044025 (12pp). 9. Zacharias, S., Koppe, C., Mücke, H.-G, (2015); Climate Change Effects on Heat Waves and Future Heat Wave-Associated IHD Mortality in Germany; Climate 2015, 3, 100-117. 10. 11. Projection of heat waves over Vietnam by using clWRF model Pham Quang Nam, Vu Van Thang, Truong Ba Kien, Mai Van Khiem Nguyen Van Hiep, Nguyen Bui Phong, Dang Hong Nhu, La Thi Tuyet Nguyen Thi Hoan and Ngo Tien Giang Institute of Meteorology, Hydrology and Climate Change (IMHEN) Abstract: This study presents verification and projection of heat waves for Vietnam by clWRF model. Heat wave threshold of the model is determined based on the observation percentile of heat wave threshold from observed daily maximum temperature at 65 meteorological stations for the pe- riod from 1986 to 2005. Heat wave threshold of the model at each station is applied to calculate the number of hot days in the future. Projection in the middle of the 21st century for Vietnam shows that under the medium scenario RCP4.5 the number of hot days increases from 20-40 days compared to the baseline period (1986- 2005). Under high scenarios RCP8.5, the number of hot days increases about 30-60 days averag- ing over Vietnam. It is about 30-40 for Northern Vietnam and 50-70 days for the Southern Vietnam. Key words: climate projection, heat wave, clWRF. Lời cảm ơn: Bài báo hoàn thành trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước:“Nghiên cứu luận cứ khoa học cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam”, mã số BĐKH43, thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, mã số KHCN - BĐKH/11-15. 33TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI ĐÁNH GIÁ XU THẾ HIỆN TƯỢNG NẮNG NÓNG Ở KHU VỰC BẮC TRUNG BỘ TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Đặng Văn Trọng và Vũ Ngọc Linh - Trung tâm Mạng lưới Khí tượng Thủy văn và Môi trường T rên cơ sở tính toán các đặc trưng của hiện tượng nắng nóng dựa trên bộ số liệu nhiệtđộ không khí tối cao ngày Tmax (oC) giai đoạn 1961 – 2014 của các trạm khí tượng điểnhình của khu vực Bắc Trung Bộ. Bài báo trình bày kết quả xu thế của các đặc trưng nắng nóng như: Ngày bắt đầu mùa nắng nóng, ngày kết thúc mùa nắng nóng, độ dài mùa nắng nóng, tần số nhịp nắng nóng, cường độ nắng nóng. Kết quả cho thấy, sự biến đổi các đặc trưng có xu thế cực đoan hơn, điều này phù hợp với xu thế gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Từ khóa: Biến đổi khí hậu và nắng nóng, xu thế nắng nóng, nắng nóng ở Bắc Trung Bộ. Người đọc phản biện: TS. Lương Tuấn Minh 1. Đặt vấn đề Nằm trọn trong vùng nội chí tuyến, là nơi giao tranh của các hệ thống gió mùa điển hình nhất trên thế giới, sự tương tác giữa hoàn lưu gió mùa và kiểu địa hình đồi núi chạy dọc từ Bắc xuống Nam đã tạo cho Việt Nam một kiểu khí hậu có một không hai trên thế giới, với diện tích nhỏ bé (trên 3 triệu km2) nhưng được chia tới 7 vùng khí hậu có các đặc tính khác nhau. Với vị trí địa lý giáp biển, lại nằm ở khu vực có nhiều trung tâm khí áp quy mô lớn tác động, hàng năm Việt Nam phải chịu rất nhiều các loại hình thời tiết cực đoan tác động, các hiện tượng như bão, mưa lớn, rét đậm rét hại, nắng nóng, hạn hán, ngập lụt, gây ra rất nhiều thiệt hại về kinh tế và tính mạng con người. Trong khi đó, tác động của biến đổi khí hậu làm cho diễn biến của các loại hình thời tiết cực đoan trở nên phức tạp, cường độ và số lượng tăng lên, sự xuất hiện không còn tuân theo quy luật mùa. Bắc Trung Bộ là khu vực có kiểu khí hậu khắc nghiệt nhất ở Việt Nam, vào mùa đông do chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc gây ra hiện tượng rét đậm, vào mùa hè lại trở thành “chảo lửa”, với hiện tượng phơn làm cho khu vực này hạn hán nghiêm trọng trong mùa hè. 2. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu 2.1. Phương pháp xác định các đặc trưng nắng nóng - Ngày có nắng nóng: Tmax > 350C - Ngày bắt đầu mùa nóng: Là ngày đầu tiên trong chuỗi số liệu xuất hiện hiện tượng nóng. - Ngày kết thúc mùa nóng: Là ngày cuối cùng trong chuỗi số liệu còn xuất hiện hiện tượng nóng. - Thời gian kéo dài mùa nóng: Là khoảng thời gian từ ngày bắt đầu đến ngày kết thúc - Nhịp nắng nóng: Là số lần chuyển tiếp từ đợt nắng nóng sang ngày không nắng nóng. - Số ngày có nắng nóng: Là tổng số ngày có nhiệt độ Tmax > 350C của một năm. Sau khi xác định được các đặc trưng đã lựa chọn ở trên, sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính bậc nhật Y = ax + b để đánh giá xu thế biến đổi của các đặc trưng trên. 2.2. Nguồn số liệu Số liệu dùng để tính toán là chuỗi số liệu nhiệt độ cực đại ngày của các trạm khí tượng: Tương Dương, Vinh, Hương Khê, Kỳ Anh, Đồng Hới và Tuyên Hóa giai đoạn 1961– 2014 3. Kết quả thảo luận 3.1. Ngày bắt đầu nắng nóng Hình 1 là đồ thị mô tả ngày bắt đầu nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014. Trạm Tương Dương có ngày bắt đầu nắng nóng sớm nhất vào ngày thứ 14 của năm 1998. Trạm Vinh có ngày bắt đầu nắng nóng muộn nhất vào năm 1963 (ngày thứ 151). Tất cả các trạm đều có xu thế ngày bắt đầu nắng nóng sớm, hay nói cách khác ngày bắt đầu nắng nóng càng ngày càng xuất hiện sớm hơn. 34 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI Hình 1. Ngày bắt đầu xuất hiện nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014 3.2. Ngày kết thúc nắng nóng Biến động ngày kết thúc nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014 được mô tả trên hình 2, theo đó trạm Tương Dương có ngày kết thúc nắng nóng muộn nhất vào ngày thứ 341(năm 2002); trạm Vinh có ngày kết thúc nắng nóng sớm nhất vào ngày thứ 188 (năm 1995). Tất cả các trạm có xu thế ngày kết thúc nắng nóng muộn, hay nói cách khác ngày kết thúc nắng nóng có xu thế ngày càng dịch chuyển về cuối năm. So với ngày bắt đầu nắng nóng thì tốc độ dịch chuyển là gần như nhau với mức trung bình khoảng gần 22 ngày trong 52 năm (hình 2). Hình 2. Ngày kết thúc nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014 35TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 3.3. Độ kéo dài mùa nóng Thời gian kéo dài mùa nắng nóng tại 6 trạm ngày càng tăng từ năm 1961 đến 2014. Nhận định trên được thể hiện qua xu thế tuyến tính trên hình 3 với mức tăng khoảng hơn 38 ngày trên 50 năm. Riêng trạm Hương Khê năm 1992, 2002 và 2004 không có nắng nóng. Những năm có mùa nắng nóng dài nhất đều ở đầu và cuối giai đoạn, vào các năm 1968, 1998, 1999, 2002, 2012, 2010 đặc biệt năm 1998 tại trạm Tương Dương có mùa nắng nóng kéo dài cực đại với 322 ngày tương đương với hơn 10 tháng. Hình 3. Độ kéo dài mùa nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014 3.3. Số nhịp nắng nóng Số nhịp nắng nóng chính là số lần chuyển từ ngày nắng nóng sang ngày không nắng nóng trong mùa nắng nóng. Số nhịp là số nguyên có giá trị với khoảng dao động từ 0 đến ½ số ngày của mùa nắng nóng, giá trị số nhịp càng lớn tính liên tục của nắng nóng càng kém hay nói cách khác nắng nóng càng hay gián đoạn. Trong giai đoạn 1961 - 2014, số nhịp nắng nóng có xu thế tăng, cực đại số nhịp 32, 32, 31 tương ứng vào các năm 2002, 2009, 1999 tại trạm Tương Dương và Tuyên Hóa (những năm đầu và giai đoạn cuối). Cực tiểu số nhịp vào những năm 1963, 1971, 1984 tương ứng với 6, 6, 7 nhịp (những năm giữa và giai đoạn đầu). Đặc biệt năm 1992, 2002, 2004 tại trạm Hương Khê không hề có nắng nóng (hình 4). 3.4. Số ngày có nắng nóng Hình 5 là đồ thị mô tả số ngày có nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014 tại các trạm. Năm 1992, 2002 và 2004 tại trạm Hương Khê có thể thấy không có ngày nào có nắng nóng, đó cũng là các năm nằm trong khoảng thời gian gần đây. Năm có số ngày nắng nóng nhiều nhất là năm 1986 với 122 ngày tại trạm Tương Dương. Xu thế số ngày có nắng nóng trong năm tăng với mức tăng tương đối nhanh, trung bình khoảng hơn 17 ngày trong 52 năm. NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI 36 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI Hình 4. Số nhịp nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014 Hình 5. Số ngày có nắng nóng giai đoạn 1961 - 2014 37TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 08 - 2015 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI 4. Kết luận Sự ấm lên toàn cầu đang diễn ra và tăng nhanh hơn trong những thập kỷ gần đây, trong khoảng 50 năm gần đây tốc độ tắng nhiệt độ là 0,13 ± 0,030C/thập kỷ, trong khuôn khổ nghiên cứu cũng chưa thể kết luận một cách chính xác liệu biến đổi khí hậu có tác động tới các đặc trưng nắng nóng hay không, nhưng qua nghiên cứu phân tích số liệu Tx của các trạm nêu trên thì rõ ràng cảm nhận được một số dấu hiệu nắng nóng trong khu vực Bắc Trung Bộ có dấu hiệu biến đổi đối với một số đặc trưng như: ngày bắt đầu, ngày kết thúc, thời gian kéo dài đợt, số nhịp, số ngày có nắng nóng. Với những tính toán ban đầu đối với một số đặc trưng nêu trên trong giai đoạn 1961-2014, có thể rút ra một số kết luận sau: Thời điểm bắt đầu nắng nóng ngày càng đến sớm hơn, thời điểm kết thúc ngày càng đến muộn hơn, xu thế thời gian nắng nóng kéo dài hơn. Mức độ tăng ngày bắt đầu và kéo dài ngày kết thúc tương đương nhau. Số ngày có nắng nóng ngày càng tăng, trung bình đợt nắng nóng ngày càng tăng lên. Có vẻ như tính liên tục của nắng nóng trong khu vực rất bất thường trong giai đoạn cuối. Xu thế tăng, giảm số nhịp nắng nóng không rõ ràng trong cả giai đoạn. Số ngày có cường độ nắng nóng gay gắt tăng mạnh hơn về giai đoạn cuối. Có thể nói cường độ nắng nóng ngày càng cực đoan hơn. Tài liệu tham khảo 1. Chu Thị Thu Hường (2014), Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến một số cực trị khí hậu và một số hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam; Luận án tiến sĩ Mã số 62440222, Viện Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu 2. Phan Văn Tân (2003), Các phương pháp thôńg kê trong khi ́hâụ, NXB Đại học Quôć gia Hà Nội. 3. Phan Văn Tân và cs (2010), Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến các yếu tố và hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam, khả năng dự báo và giải pháp chiến lược ứng phó, Chương trình KC08.29/06-10, Bộ Khoa học Công nghệ. ASSESSMENT OF HEATWAVE IN CONDITIONS OF CLIMATE CHANGE IN THE NORTH CENTRAL VIETNAM Dang Van Trong and Vu Ngoc Linh - Hydrometeorology and Environment Network Center Astract: Based on calculations of the characteristics of the phenomenon of heat based on the air temperature daily Tmax (° C) from 1961 to 2014 of the typical stations in the North Central Vietnam. This paper presents the results of the typical trend heat such as heat season start date, heat season end date, heat season length, frequency rhythms heat, heat day number. The results showed that the characteristics change with more extreme trends, which is consistent with the trend of increasing ex- treme weather events in the context of climate change. Keyword: Climate change and heat event, trend of heat event, heat event in North Central Viet- nam.
File đính kèm:
- thu_nghiem_du_tinh_so_ngay_nang_nong_khu_vuc_viet_nam_bang_m.pdf