Thơ Tứ Thú trong Hồng Đức quốc âm thi tập

Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQÂTT) là tập thơ của trƣờng thơ cung đình thời

Hồng Đức, đứng đầu là Lê Thánh Tông; là cột “mốc” thứ hai (sau Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi) trong tiến trình thơ Nôm Đƣờng luật, khẳng định sự tồn tại không thể

thay thế của dòng thơ tiếng Việt bên cạnh thơ Đƣờng luật Hán.

Xét trên phƣơng diện nội dung, vì tập thơ của nhiều tác giả, cho nên khả năng

chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống khá đa dạng: Từ hình ảnh cuộc sống cung đình cho đến

cuộc sống ở thôn quê; từ hình ảnh của “minh quân lƣơng tƣớng”, “hiếu tử trung thần”

cho đến hình ảnh của “ngƣ tiều canh mục” hay ngƣời phụ nữ bình dân xấu số. Trong

khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu nhóm bài thơ về “Tứ thú” vừa

mang tính ƣớc lệ, điển phạm của văn chƣơng nhà nho, vừa thể hiện xu hƣớng dân tộc

hóa thể loại của thơ Đƣờng luật.

pdf 6 trang kimcuc 10980
Bạn đang xem tài liệu "Thơ Tứ Thú trong Hồng Đức quốc âm thi tập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thơ Tứ Thú trong Hồng Đức quốc âm thi tập

Thơ Tứ Thú trong Hồng Đức quốc âm thi tập
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
16 
THƠ TỨ THÚ TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP 
Trần Quang Dũng1 
TÓM TẮT 
Cùng với thơ ngâm vịnh, trong “Hồng Đức quốc âm thi tập” còn xuất hiện lối thơ 
xướng họa trong không khí “vương xướng thần tùy”, “đồng thanh tương ứng”, vừa vận 
động theo hướng “đồng tâm” với văn chương nhà nho, vừa vận động theo hướng “li tâm” 
theo cảm quan thẩm mỹ của văn hóa Việt, trong đó tiêu biểu là chùm thơ “Tứ thú”. 
Từ khóa: Thơ “Tứ thú”, Hồng Đức quốc âm thi tập 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQÂTT) là tập thơ của trƣờng thơ cung đình thời 
Hồng Đức, đứng đầu là Lê Thánh Tông; là cột “mốc” thứ hai (sau Quốc âm thi tập của 
Nguyễn Trãi) trong tiến trình thơ Nôm Đƣờng luật, khẳng định sự tồn tại không thể 
thay thế của dòng thơ tiếng Việt bên cạnh thơ Đƣờng luật Hán. 
Xét trên phƣơng diện nội dung, vì tập thơ của nhiều tác giả, cho nên khả năng 
chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống khá đa dạng: Từ hình ảnh cuộc sống cung đình cho đến 
cuộc sống ở thôn quê; từ hình ảnh của “minh quân lƣơng tƣớng”, “hiếu tử trung thần” 
cho đến hình ảnh của “ngƣ tiều canh mục” hay ngƣời phụ nữ bình dân xấu số... Trong 
khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu nhóm bài thơ về “Tứ thú” vừa 
mang tính ƣớc lệ, điển phạm của văn chƣơng nhà nho, vừa thể hiện xu hƣớng dân tộc 
hóa thể loại của thơ Đƣờng luật. 
2. NỘI DUNG 
Hồng Đức quốc âm thi tập (Nxb Văn học, 1982) hiện có 328 bài thơ và đƣợc chia 
làm năm phần: “Thiên địa môn” (59 bài), “Nhân đạo môn” (46 bài), “Phong cảnh môn” 
(66 bài), “Phẩm vật môn” (69 bài) và “Nhàn ngâm chƣ phẩm” (88 bài), trong đó chùm thơ 
về “Tứ thú” (10 bài) đƣợc xếp trong mục “Phong cảnh môn”. Tập thơ chủ yếu đƣợc viết 
theo lối đề vịnh và xƣớng họa nhƣng không phải là những sáng tác tùy hứng, cá nhân, mà 
là một thi xã có tuyên ngôn văn học, có in ấn tác phẩm, hƣớng đến những nhiệm vụ chính 
trị mà chế độ phong kiến đƣơng thời quan tâm. Vì thế, tính chất quan phƣơng, thù phụng 
và mục đích giáo hóa là những đặc điểm nổi bật của HĐQÂTT. 
1 TS. Giảng viên khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Hồng Đức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
17 
2.1. Thơ Tứ thú mang tính chất ƣớc lệ và mục đích giáo hóa của văn chƣơng 
nhà nho 
Theo số liệu thống kê, thơ xƣớng họa trong HĐQÂTT bao gồm hai hệ thống đề tài 
lớn: đề tài thiên nhiên (Tết Nguyên Đán (4 bài); Năm canh (10 bài); Bốn mùa (16 bài); 
Trăng (11 bài); Hoa viên cảnh (2 bài)) và đề tài cuộc sống xã hội và con ngƣời (Tứ thú 
(16 bài); Phu xuất (2 bài) và Nhất thủy (2 bài)). Trong các cụm bài xƣớng họa, các bài 
xƣớng thƣờng đƣợc đoán định là của Lê Thánh Tông. Cũng có nghĩa từ đề tài, thể 
cách, giọng điệu cho đến cảm xúc của thơ xƣớng họa HĐQÂTT đều do sự “ra đề vận 
hạn” của nhà vua. Còn các bài họa của các văn thần chủ yếu là sự lặp lại theo một “sơ 
đồ công thức” định sẵn, tạo ra sự đồng thanh tƣơng ứng về nhiều mặt, thể hiện những 
nỗi niềm chung, âm điệu chung. 
Thơ Tứ thú có 16 bài (12 bài vịnh họa về Tứ thú, 1 bài về Tứ thú tương thoại và 
3 bài vịnh về Thuyền người đánh cá). Thật ra, lựa chọn đề tài Tứ thú với các nhà thơ 
Hồng Đức là xuất phát từ thế giới quan Nho giáo về ngƣời bình dân, vì thế tính 
khuôn sáo, ƣớc lệ và mục đích giáo hóa đƣợc thể hiện khá rõ. Những con ngƣời 
“bình dân” ấy, trong nhiều trƣờng hợp đƣợc phác thảo theo những khuôn mẫu nghệ 
thuật có sẵn. Chẳng hạn, về Ngư: “Chờ thuở nguồn Đào tiên lại gặp - Cùng nhau cặn 
kẽ buổi đầu mom” (Bài 54); về Tiều: “Trời Nghiêu, ngày Thuấn mình ăn ở - Đỉnh 
Thạch non Thai mặt ngƣớc nhòm” (Bài 55); về Canh: “Cày Y cúi đỡ dân Thƣơng 
ngóng - Lều Cát nằm lui chúa Hán nhòm” (Bài 56); về Mục: “Tiếng ca Nịch Thích kề 
tai ngóng - Khúc địch Hoàn Y nghển cổ nhòm” (Bài 57),... Với cách nhìn ấy, dễ tạo 
cho ngƣời đọc cảm giác: những con ngƣời bình dân ấy, lao động với họ không phải 
để sinh tồn mà là để thƣởng ngoạn cảnh sắc trời mây, sông nƣớc. Họ xuất hiện trong 
tƣ thế của ngƣời thƣởng ngoạn, ung dung thƣ thái, chứ đâu phải trong công việc vất 
vả nhọc nhằn nhƣ chính ngƣời bình dân viết về công việc của họ: “Trên đồng cạn, 
dƣới đồng sâu, chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa” (Ca dao). Hình tƣợng thơ, cảm 
xúc thơ trong một số trƣờng hợp, vì thế cũng mất đi tính “chân thực” vốn có của nó 
và trở trở thành những lời tán tụng về mỹ đức của “minh quân lƣơng tƣớng”. 
Đơn cử: 
Nọ nọ Bàn Khê công nghiệp cả, 
Xuân thu lần kể tám mƣơi dƣ. 
(Vịnh người đánh cá. Bài 59) 
Hoặc: 
Công A Hành đến trời biếc, 
Tiết Tử Lăng còn núi xanh. 
(Vịnh người đi cày. Bài 61) 
Nhƣ vậy, tính công thức, khuôn sáo gắn với mục đích giáo hóa của Tứ thú trong 
HĐQÂTT dƣới sự ảnh hƣởng trực tiếp của hệ tƣ tƣởng thời đại và quan niệm văn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
18 
chƣơng nhà nho đƣợc thể hiện ở đề tài và nghệ thuật thể hiện của các tác gia Hồng 
Đức là rất rõ. Các nhà thơ, vì thế trong nhiều trƣờng hợp mất đi những rung cảm 
thực, những sáng tạo nghệ thuật độc đáo: “Ý thức công thức, khuôn sáo làm cho kiểu 
tác giả này rất khó sử dụng các chi tiết đời sống mới và các chi tiết nghệ thuật bất ngờ” 
[1; tr69]. Tất nhiên cũng cần thấy: tính điển phạm, ƣớc lệ của thơ Tứ thú đã giữ cho thi 
tập tính cô đọng, hàm súc cùng vẻ đẹp cổ điển, Đƣờng thi, hợp với văn phong của một 
tác phẩm cung đình. 
Mặt khác cũng cần thấy, phần lớn các bài xƣớng trong các chùm thơ xƣớng họa 
HĐQÂTT thƣờng đƣợc đoán định là của Lê Thánh Tông, vì thế họa lại thơ vua, trong 
trƣờng hợp này với các tác gia Hồng Đức, biết đâu có phần giống với dâng thơ trƣớc đây ở 
đời Hán (Trung Quốc), là “phƣơng tiện để gây chú ý, đạt đƣợc sự công nhận tài năng mình 
và thu đƣợc những món bổng lộc đáng kể” [1;tr 262]. Hay nữa, chính Hoàng Đế đã ra lệnh 
cho những ngƣời thân cận ngợi ca những “điều trông thấy” về Tứ thú bằng thơ để mua vui 
cho nhà cầm quyền và giữ gìn, lƣu giữ mỹ đức của “minh quân lƣơng tƣớng” cho các thế 
hệ mai sau? Đúng hơn, với các tác gia Hồng Đức, ca tụng sự hùng mạnh của vƣơng triều, 
mỹ đức của nhà vua và cuộc sống thái bình thịnh trị của muôn dân đã hoàn toàn đƣợc biện 
hộ về mặt nghệ thuật trên cơ sở tƣ tƣởng của thời đại mình. 
2.2. Thơ Tứ thú theo xu hƣớng dân tộc hóa thể loại Đƣờng luật 
Tất nhiên cũng không nên phiến diện cho rằng, các nhà thơ Hồng Đức khi họa lại thơ 
vua không để lại những dấu ấn nghệ thuật độc đáo. Và vì thế, thơ xƣớng họa Tứ thú chỉ là 
những cuộc “đùa gió cợt trăng”, tán tụng mỹ đức “minh quân lƣơng tƣớng” và thuyết giáo đạo 
lý Nho gia. Nếu đi sâu tìm hiểu nội dung cảm xúc ở các bài thơ trong chùm thơ vịnh họa này, 
chúng ta thấy xuất hiện khá rõ xu hƣớng dân tộc hóa thể loại thơ Đƣờng luật, thể hiện một 
“cái nhìn tinh tế, cách tả tinh tế, qua trí tƣởng tƣợng dồi dào” [2; tr20]. 
Nói cách khác, bên cạnh những chuẩn mực định sẵn, những đề tài công thức, những 
quy định về thể cách, giọng điệu của lối thơ xƣớng họa Đƣờng luật, thơ xƣớng họa Tứ thú 
trong HĐQÂTT còn chứng minh cho khả năng to lớn trong nghệ thuật tiếp cận hiện thực 
đời thƣờng dân dã, hƣớng về ngƣời bình dân với công việc đồng áng, sông nƣớc, chài lƣới, 
câu đầm... Cụ thể hơn, bên cạnh những con ngƣời công thức, trong một số trƣờng hợp, 
hình ảnh ngƣời bình dân hiện lên khá ấn tƣợng, giàu chất hiện thực của cuộc sống đời 
thƣờng. Chẳng hạn, là hình ảnh người kiếm cá: “Manh áo quàng, mang lụp xụp - Quai 
chèo xách, đứng lom khom” (Bài xƣớng), “Nửa tấm áo tơi che lủn củn - Một cần câu 
trúc uốn khom khom” (Bài họa); Người hái củi: “Có thuở xa trông vầng áo xế - Dé 
chân nheo nhéo đứng đầu mom” (Bài xƣớng), “Đầu non đã tạnh khói còn om - Mấy gã 
tiều phu đã sớm nom” (Bài họa); Người đi cày: “Tấc đất, tấc vàng yêu bấy tá - Mồ hôi 
dồn dõi thuở đầu mom” (Bài xƣớng), “Có thuở nông nhàn khi việc giãn - Đèo heo 
hóng mát ở ngoài mom” (Bài họa); Người chăn trâu: “Mũi nghé lui chân đứng nhảy - 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
19 
U trâu vịn cật ngồi khom” (Bài xƣớng), “Bạn xúm nội bằng cƣời khặc khặc - Trâu về 
ngõ hẹp cƣỡi khom khom” (Bài họa),... Đúng hơn, ở đề tài Tứ thú nói riêng và hệ 
thống đề tài văn chƣơng nhà nho nói chung trong HĐQÂTT, các tác gia Hồng Đức đã 
kết hợp hài hòa giữa cảm xúc Nho giáo với nội dung dân tộc trong nghệ thuật miêu tả, 
thể hiện. Vì thế, có những hình ảnh ƣớc lệ đi liền với hình ảnh của cuộc sống đời 
thƣờng: “Nửa bó yên hà / mang đủng đỉnh, Đòi bên phong nguyệt / quảy khom khom 
(Họa bài người hái củi); Đồi Vũ tắm mƣa / tai nhấp nhấp, Nội Châu cuốc nguyệt / cật 
khom khom (Họa bài người đi cày); Tiếng ca Nịch Thích / kề tai ngóng, Khúc địch 
Hoàn Y / nghển cổ nhòm (Họa bài người chăn trâu),... Trong nhiều trƣờng hợp, yếu tố 
hiện thực thể hiện khá đậm nét: “manh áo quàng, mang lụp xụp”, “Nửa tấm áo tơi che 
lủn củn”, “Mồ hôi dồn dõi thuở đầu mom”, “Tấc đất, tấc vàng yêu bấy tá”, “Trâu về 
ngõ hẹp”, “cƣỡi khom khom”, “cƣời khặc khặc”, “Dé chân nheo nhéo”, “Đèo heo hóng 
mát”, “Thả thả, chăn chăn”, “ngấp nghé nhòm”, “vịn cật ngồi khom”,... 
Hoặc về Thuyền người đánh cá: 
Mui rách dập dềnh dăm bảy chiếc, 
Chèo cùn nối nắm một đôi đai. 
 (Bài 63) 
Và đây nữa là cuộc hội ngộ của “Tứ thú” trong những ngày nông nhàn: 
Đêm rƣợu, ngày rồi họp bốn ngƣời, 
Cùng bày sở thú bảo nhau chơi. 
Con trâu tớ béo cơm ngƣơi trắng, 
Đon củi ngƣơi nhiều cá tớ tƣơi. 
Gặp thuở thái bình ngƣơi mến tớ, 
Chứa lòng ƣu ái tớ cùng ngƣơi. 
Cắp cầm, con Tuyết tình cờ đến, 
Bỏ nón, lùi chân khặc khặc cƣời. 
(Tứ thú tương thoại) 
Những câu thơ đã tạo dựng cuộc hội ngộ của Tứ thú hiện lên thật tự nhiên mà cũng 
thật hồn nhiên thông qua các hình tƣợng nghệ thuật: “con trâu béo” - “cơm trắng”, “đon 
củi nhiều”, “cá tƣơi”... Cũng thật khó “phân định” về thành phẩm của “ngƣơi” và “tớ”... 
Và thật bất ngờ “con Tuyết đến”, dƣờng nhƣ mọi thứ đã đƣợc giải tỏa, mọi tập trung 
hƣớng về “con Tuyết”: con Tuyết cắp “cầm”, “bỏ nón”; con Tuyết “lùi chân” và “khặc 
khặc cƣời”. Hình tƣợng “con Tuyết” cụ thể tên, cụ thể dáng vẻ, động tác, tình cảm chẳng 
phải đã vƣợt lên trên tính ƣớc lệ, điển phạm của văn chƣơng cổ điển để phản ánh hiện thực 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
20 
cuộc sống nhƣ nó vốn tồn tại đó sao? Đúng nhƣ tác giả Lã Nhâm Thìn đã nhận xét: 
“Mặc dù còn giới hạn bởi công thức “ngƣ tiều canh mục” nhƣng những cảnh và ngƣời 
trong chùm thơ Tứ thú không phải là cảnh trong tranh, in sẵn hàng trăm bản giống 
nhau. Đó là cảnh và ngƣời trong cuộc sống, trong sinh hoạt xã hội” [3; tr 109]. 
Khẳng định xu hƣớng dân tộc hóa thể loại của thơ Tứ thú trong HĐQÂTT còn 
phải nói đến chức năng mở hướng của Đƣờng luật Nôm: Ấy là dùng Đường luật để 
trào phúng. Trong tiến trình TNĐL, có nhà nghiên cứu nhận xét: “Ở thời Trần, Nguyễn 
Sĩ Cố có làm thơ hài hƣớc, nhƣng hiện nay thơ quốc âm của ông không còn. Riêng 
trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi chỉ mới có đôi nét trào phúng thoang thoảng mà 
thôi” [2; tr 26]. Đến HĐQÂTT đã có cả một loạt bài thơ trào lộng rải rác trong các mục 
của tập thơ, nhất là ở các cụm bài xƣớng họa. Tuy nhiên, đối sánh với nghệ thuật trào 
phúng trong văn học truyền thống, nghệ thuật trào lộng trong HĐQÂTT mang một đặc 
điểm riêng: ấy là tiếng cƣời chƣa phải với tƣ cách là tiếng nói phê phán, tố cáo xã hội 
mà phần nhiều là tiếng cƣời lạc quan của tinh thần Việt Nam, mang tính chất giải trí, 
tạo một không khí gần gũi chân tình giữa vua tôi, giảm cái không khí cách bức, khuôn 
sáo của tập thơ. Chẳng hạn: 
Họa bài Người hái củi: 
Nửa bó yên hà mang đủng đỉnh, 
Đòi bên phong nguyệt quảy khom khom 
Người đi cày: 
Đồi Vũ tắm mƣa tai nhấp nhấp, 
Nội Châu cuốc nguyệt cật khom khom 
... 
Nguyên tắc đặc thù của bút pháp trào lộng là tạo mâu thuẫn giữa hiện tƣợng và 
bản chất, giữa cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt để gây cƣời. Vì thế, hình ảnh của Tứ 
thú, qua nghệ thuật trào lộng bỗng trở thành những “hiền nhân quân tử”: 
Dong thuyền đợi tiên Tô Tử, 
Nêm chèo ca khúc Sở Từ. 
Nọ nọ Bàn khê công nghiệp cả, 
Xuân thu lần kể tám mƣơi dƣ. 
 (Vịnh người đánh cá. Bài 59) 
Thành “tƣớng quốc công hầu”: 
Diệt, vắt, tay cầm quyền tƣớng súy, 
Thừa lƣa thóc chứa lộc công khanh. 
 (Vịnh người đi cày. Bài 61) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
21 
Dùng lối nói ngoa dụ, phóng đại để đối lập cái chân và giả, hài và bi của hình 
tƣợng cũng là nghệ thuật trào lộng đƣợc dùng phổ biến trong thơ ca dân gian, vừa hợp 
với tƣ duy trực cảm của ngƣời Việt, vừa bớt đi cái vẻ bác học, điển nhã của thể Đƣờng 
luật. Đúng nhƣ nhận xét: “Trong HĐQÂTT đã hình thành một hệ thống thơ trào 
phúng, có chỗ tiếp cận với thơ ca trào phúng dân gian” [2; tr 26]. 
3. KẾT LUẬN 
Trong dòng thơ Nôm Đƣờng luật thời trung đại, bên cạnh lối thơ đề vịnh, 
HĐQÂTT là tập thơ duy nhất còn xuất hiện hình thức thơ xƣớng họa trên tinh thần 
“vua xƣớng thần tùy” của thi đàn Hồng Đức. Vẫn nằm trong khuôn khổ của văn 
chƣơng nhà nho nhƣng thơ xƣớng họa trong HĐQÂTT nói chung và chùm thơ Tứ thú 
nói riêng đã thể hiện khá rõ xu hƣớng dân tộc hóa thể loại, gió phần làm thay đổi cảm 
quan thẩm mỹ thơ luật Đƣờng theo tinh thần của văn hóa Việt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] L.I. Lixêvich (2002), Tư tưởng văn học Trung Quốc trong buổi giao thời giữa cổ 
xưa và trung cổ”, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội. 
[2] Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên (1982), Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb. 
Văn học, Hà Nội. 
[3] Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội. 
TU THU POETRY IN HONG DUC NOTIONAL LANGUAGE POEM 
COLLECTION 
Tran Quang Dung 
ABSTRACT 
Along with poetry reciter, there is another kind of poetry in Hong Duc National 
Language Poem Collection called responsive poetry. Not only does responsive poetry 
move in the “concentric” direction with scholarly literature but it also moves in the 
“centrifugal” direction following aesthetic sense of Vietnamese culture, in which there 
are poems called “Tu thu” poetry. 
Key words: “Tu thu” poetry, Hong Duc National Language Poem Collection 

File đính kèm:

  • pdftho_tu_thu_trong_hong_duc_quoc_am_thi_tap.pdf