Thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX nhìn từ phương diện nghệ thuật

Thành quả của thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay

không thể không nhắc đến sự góp mặt của các cây

bút nữ qua từng thời kỳ. Tuy chưa có sự đông đảo

về lực lượng sáng tác nhưng thành tựu của các nhà

thơ nữ trong những năm đầu thế kỷ XX là không

thể phủ nhận. Nghiên cứu thơ nữ giai đoạn này để

thấy được những đóng góp của họ về phương diện

nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là

một trong những cách tiếp cận văn học, có khả năng

tái hiện đúng và đa dạng diện mạo thơ nữ Việt Nam

giai đoạn đầu thế kỷ XX.

pdf 10 trang kimcuc 7840
Bạn đang xem tài liệu "Thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX nhìn từ phương diện nghệ thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX nhìn từ phương diện nghệ thuật

Thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX nhìn từ phương diện nghệ thuật
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
103 
THƠ NỮ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX NHÌN TỪ 
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 
Đặng Thị Ngọc Phượng1 
1Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 10/07/2016 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
28/08/2016 
Ngày chấp nhận đăng: 04/2017 
Title: 
Feminist poems in the early 20th 
century through artistic 
perspectives 
Keywords: 
Feminist poems, poetic genres, 
lyrics, rhythms 
Từ khóa: 
Thơ nữ, thể thơ, ngôn ngữ, 
giọng điệu 
ABSTRACT 
Feminist poems is an indispensable part among the Vietnamese poems. It is 
clearly seen that the appearance of numerous female poets in the early 20th 
century confirmed their contribution to the innovation of poem arts, including 
poetic genres, lyrics, and rhythms. It is needed to do research on the works of 
the female poets during the periods to reveal how Vietnamese spirits were 
connected the society and could also start a new phase of life. 
TÓM TẮT 
Thơ nữ là một bộ phận không thể thiếu trong nền thơ ca dân tộc. Sự ra đời của 
đội ngũ đông đảo các nhà thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX khẳng định đóng 
góp của họ về những đổi mới trên phương diện nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, 
giọng điệu. Nghiên cứu thơ của các nhà thơ nữ giai đoạn này để thấy được tâm 
hồn Việt đã gắn kết, khơi nguồn từ cuộc sống và mang hơi thở thời đại. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thành quả của thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay 
không thể không nhắc đến sự góp mặt của các cây 
bút nữ qua từng thời kỳ. Tuy chưa có sự đông đảo 
về lực lượng sáng tác nhưng thành tựu của các nhà 
thơ nữ trong những năm đầu thế kỷ XX là không 
thể phủ nhận. Nghiên cứu thơ nữ giai đoạn này để 
thấy được những đóng góp của họ về phương diện 
nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là 
một trong những cách tiếp cận văn học, có khả năng 
tái hiện đúng và đa dạng diện mạo thơ nữ Việt Nam 
giai đoạn đầu thế kỷ XX. 
2. NỘI DUNG 
2.1 Thể thơ đa dạng 
Mỗi thời kỳ văn học, thể loại có những phân định 
và đặc trưng khác nhau; thể hiện thái độ, cách 
nhìn nhận, cảm thụ về thế giới và con người. Đây 
là nơi tích luỹ và đúc kết những giá trị nhận thức 
thẩm mỹ về thế giới sáng tác của nhà thơ, nhà 
văn. Theo Bakhtin, thể loại chính là nhân vật thứ 
nhất, nhân vật chính của văn học. Nhà nghiên cứu 
Mã Giang Lân lại cho rằng: “Mỗi thời đại, mỗi 
giai đoạn lịch sử thường sử dụng những thể loại 
thích hợp mà ở đấy chúng ta có thể thấy được sự 
vận động trong tư duy sáng tạo của nhà thơ” (Mã 
Giang Lân, 2005, tr. 19). Nhìn lại lịch sử thơ ca, 
các thể thơ truyền thống của dân tộc ta là những 
thể thơ được sử dụng phổ biến và làm cơ sở cho 
sự ra đời của những thể Thơ mới sau này (từ năm 
1932 trở đi). 
Sang thế kỉ XX, quá trình hiện đại hoá văn học đã 
làm cho văn học Việt Nam thay đổi một cách cơ 
bản. Thể loại thơ ca luôn có những yếu tố vận động, 
biến đổi. Do đó, nó vừa có tính truyền thống, vừa 
mang tính cách tân hiện đại. Thơ nữ cũng không 
nằm ngoài những quy luật ấy. 
Thơ Đường luật vốn là thể thơ được sử dụng nhiều 
nhất trong thơ trung đại, thể loại thơ đã sản sinh ra 
nhiều thi tài ở Trung Quốc, Việt Nam... Đó cũng là 
nền thơ có thi pháp riêng được quy định bởi thế giới 
quan, nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của thời đại 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
104 
phong kiến Á Đông. Thi pháp đó có nhiều đặc điểm 
như sự tôn sùng thiên nhiên, tính quy phạm, tính ước 
lệ, tính phi ngã. Những nữ sĩ đứng ở giai đoạn giao 
thời như: Đạm Phương, Sương Nguyệt Anh sử 
dụng hầu hết các thể thơ truyền thống như: tứ 
tuyệt, thất ngôn bát cú Đường luật, ngũ ngôn, 
song thất lục bát, lục bát và từ khúc. 
Đạm Phương là người góp phần duy trì một 
hướng sáng tác thơ Đường luật bằng chữ Quốc 
ngữ, mở đầu cho một hướng đi mới của nhiều nhà 
thơ về sau. Bài thơ Nhớ bạn, Nhớ cảnh núi của 
Đạm Phương; Đáp Hồ Bá Xuyên, Tỏ chí, Tự thán 
của Sương Nguyệt Anh cho thấy sự tài hoa và tố 
chất nghệ sĩ của họ. Thể từ gần như ít xuất hiện 
trên văn đàn nhưng những bài thơ của Đạm 
Phương và Sương Nguyệt Anh là những bài đầu 
tiên viết bằng chữ Quốc ngữ theo đúng điệu: 
Mảnh trăng đêm dọi bóng quanh thềm 
Bóng dọi quanh thềm giấc khó êm. 
Giấc khó êm vì thương nhớ bạn 
Vì thương nhớ bạn, mảnh trăng đêm. 
(Nhớ bạn - Đạm Phương) 
Năm canh thức nhắp, năm canh những, 
Nửa gối so le, nửa gối chờ. 
Vườn én rủ ren trên lối cũ, 
Canh gà xao xác giục tình xưa. 
 (Tự thán - Sương Nguyệt Anh) 
 Thơ của Cao Ngọc Anh gồm thơ viết bằng 
chữ Hán và thơ viết bằng chữ Quốc ngữ. Những 
bài thơ tứ tuyệt cho thấy tài thơ chữ Hán của bà 
Cao Ngọc Anh quả không tầm thường, bài thơ 
Đào hoa khẩu chiếm là một bài thơ tiêu biểu: 
Tích niên lang tháp song đào thụ 
Kim kiến đào hoa bất kiến lang 
Giả sử hoa thần như hữu thức 
Vị lang tiều tuỵ giảm dung quang. 
Tác giả đã tự dịch ra tiếng Việt như sau: 
Bói hoa đào 
Song đào chàng mới trồng năm trước 
Nay thấy đào hoa chẳng thấy chàng 
Ví khiến thần hoa như có biết, 
Vì chàng nhan sắc giảm phần chăng? 
Ngoài thơ thất ngôn tứ tuyệt, thơ thất ngôn bát cú 
của bà có phần đặc sắc, gợi tả tâm trạng của nhà 
thơ trước cuộc đời. Các bài thơ Hoàng hôn, Vịnh 
đêm thu, Vịnh cảnh Ngũ Hành sơn tiêu biểu cho 
lối thơ truyền thống, giàu chiêm nghiệm. 
Trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh 
hưởng của văn chương phương Tây thì Ngân Giang 
vẫn gắn bó với thơ Đường luật và các thể thơ dân tộc. 
Thơ của Ngân Giang gồm các thể: tứ tuyệt, lục bát, 
Đường thi thất ngôn bát cú... Bài Xuân mong đợi, 
Mười bài tâm sự... được dùng để ký thác niềm riêng 
của tác giả. Thơ Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ 
khó làm nhất nhưng với Ngân Giang bỗng trở nên “dễ 
dàng” như bất cứ thể thơ nào khác. Người đọc bắt gặp 
trong Xuân chiến địa: 
Lành lạnh bên sông một quán nghèo 
Đèn lay dáng trúc gió hiu hiu 
Hướng dương trà vẫn thơm như cũ 
Khói toả tương tư đượm ít nhiều? 
Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ thích hợp 
với nữ sĩ. Đọc thơ bà khiến ta thấy nhẹ nhàng, 
được sống thoải mái trong không gian cổ kính đầy 
yêu thương Bài thơ Trưng Nữ Vương là một ví 
dụ tiêu biểu. Bài thơ hoàn thành vào năm 1939, 
thoạt nhìn hình thức vẫn là thể thức của Thơ mới, 
gồm có năm đoạn, mỗi đoạn bốn câu, mỗi câu bảy 
chữ. Hình thức mới nhưng vẫn còn mang nặng sắc 
thái khí vị của thơ Đường, đầy nhạc điệu: Lạc 
tướng quên đâu lời tuyết hận/ Non hồng quét sạch 
bụi trần ai/ Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận/ 
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời 
Về mặt thể loại, các nhà thơ nữ đã vận dụng thành công 
các thể thơ dân tộc nhưng không gò bó trong khuôn khổ 
những quy phạm chặt chẽ của thể loại mà luôn có 
những phá cách và thể nghiệm mới. Với thể thơ lục bát, 
thơ nữ đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo của mình. 
Không mô phỏng hoàn toàn ca dao và lục bát dân tộc, 
các bà lựa chọn những đặc điểm, yếu tố thích hợp của 
lục bát, ca dao để sáng tác cho phù hợp với tâm hồn 
của con người thời đại. Các bà biết phát huy giá trị tích 
cực của thơ ca dân tộc để đem đến cho thơ ca những giá 
trị phù hợp với thực tế đời sống và thế giới nội tâm của 
nhà thơ. Cấu trúc câu thơ được sắp xếp theo quy luật 
của cảm xúc và dòng chảy của tâm thức. Lục bát, song 
thất lục bát cũng là thể thơ quen thuộc được các nhà thơ 
nữ sử dụng với tỷ lệ cao. Những bài thơ lục bát, song 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
105 
thất lục bát nhẹ nhàng, giàu cảm xúc: Sóng thơ của Thu 
Hồng; Âm thầm, Tơ sầu của Mai Đình; Lòng quê, 
Quán cũ trong sương của Hằng Phương; Thuyền đi của 
Vân Đài; Vườn trưa, Bóng ai của Cẩm Lai; Ru con, 
Ngõ chơ Khâm Thiên của Anh Thơ 
Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, thể thơ song thất 
lục bát tạo nên những dòng cảm xúc riêng biệt, không 
hoà lẫn. Để khai thác trọn vẹn hơn những khát khao 
thầm kín trong hành trình đi tìm hạnh phúc, các nhà 
thơ nữ đã khai thác và khám phá một cách toàn vẹn 
nhất trái tim của những người phụ nữ yêu thương và 
khát khao được sẻ chia, bày tỏ trong thể thơ song thất 
lục bát. 
Bao thế sự xoá nhoà rêu phủ, 
Còn lại đây quán cũ vài gian, 
Trong sương lặng đứng mơ màng. 
Gợi lòng cho khách qua đàng nhớ nhung 
(Quán cũ trong sương - Hằng Phương) 
Các nhà thơ nữ hầu như sử dụng các thể thơ quen 
thuộc như thơ năm chữ, bảy chữ, lục bát, thơ tám chữ. 
Sự tìm tòi, đổi mới trong thơ thể hiện ở việc gia tăng 
các khổ thơ, câu thơ hoặc thay đổi nhịp thơ, vần điệu, 
từ ngữ Sự đổi mới ấy tuy không đặc biệt nhưng cho 
thấy ít nhiều nét sáng tạo, thấy được ý thức và nỗ lực 
kiếm tìm cách thức để làm mới thơ. Nhưng sự đổi 
mới đó vẫn không làm thay đổi lối thơ trong sáng, 
chân thành; giọng thơ uyển chuyển, êm đềm của các 
nhà thơ nữ. 
Sáng tác của các nhà thơ nữ trong khuôn thơ 
tương đối ổn định: thơ thất ngôn, thơ tám chữ và 
vận dụng thể thơ lục bát và thơ ngũ ngôn một 
cách điêu luyện. Thơ tám chữ là thể thơ có nguồn 
gốc từ thể hát nói. Thể thơ này có sức dung chứa 
lớn, lời thơ, ý thơ gần với lời kể, giàu yếu tố tự sự, 
thi nhân tự do biểu hiện cảm xúc đối với làng quê. 
Cuộc sống thường nhật đi vào trong thơ các tác 
giả nữ một cách sinh động, cụ thể, neo giữ hồn 
người. 
Còn có gì hơn thầm lặng anh ơi... 
Dồn thương nhớ vào tận cùng cân não 
Để đêm nay xây đắp mộng luân hồi 
Anh hãy cùng em về căn nhà nhỏ 
 (Bên mồ Hàn Mặc Tử - Mai Đình) 
Kìa trăng vỡ trong hồ khi nước động, 
Sóng lao xao lấp loáng, ánh xa ngời. 
Và búp hoa nghểnh dậy đón hương trời, 
Cây tuôn bóng, lửng lơ, đò chẳng lướt! 
(Tơ lòng với đẹp - Thu Hồng) 
Anh Thơ sáng tác ở nhiều thể thơ và hầu như thể 
loại nào cũng thể hiện sự thành công của tác giả. 
Thể thơ tám chữ là thể thơ được Anh Thơ sử dụng 
tương đối nhiều, qua thể thơ này, Anh Thơ đã 
giúp cho chúng ta có thêm những hiểu biết, những 
cảm nhận về bức tranh phong cảnh, bức tranh 
cuộc sống của con người; giúp người đọc như 
đang được đắm mình vào cảnh quê, được sống lại 
không khí của thôn quê hay cuộc sống lao động, 
chiến đấu của con người mới. Tiêu biểu là các bài: 
Trưa hè, Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh 
đèo Ngang, Mùa chiêm mới, Theo cánh chim 
câu 
Trời trong biếc không qua mây gïợn trắng, 
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa. 
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng, 
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua. 
(Trưa hè) 
Được cách tân và sáng tạo, thể thơ tám chữ là phương 
tiện để các nhà thơ nữ biểu hiện tâm trạng, bộc lộ cái 
tôi. Thể thơ này có sự phóng túng trong câu chữ, nhịp 
điệu linh hoạt, có sức dung chứa cuộc sống, có khả 
năng giãi bày tiếng nói sâu kín trong tâm hồn con 
người, thích hợp với kiểu con người tự do, con người 
tâm linh, con người cá nhân thành thực với lòng mình 
và cuộc sống. Thể thơ này là cơ sở để các nhà thơ nữ 
thể hiện những quan niệm của cá nhân về tình yêu, về 
lẽ sống, về cái đẹp, về cuộc đời. Bên mồ Hàn Mặc Tử 
của Mai Đình; Tơ lòng với đẹp, Lịch của Thu Hồng; 
Khúc nhạc bên đường của Hằng Phương; Trưa hè, 
Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh đèo Ngang, 
Mùa chiêm mới, Theo cánh chim câu của Anh Thơ... 
là minh chứng cho những thành công ấy. Những bài 
thơ của các bà thể hiện tinh thần, khát vọng tự do 
mạnh mẽ nhất, là sản phẩm tinh thần của tầng lớp trí 
thức nói chung và các nhà Thơ mới nói riêng. 
Thơ bảy chữ là thể thơ ra đời khá sớm trong lịch sử 
thơ ca của dân tộc. Thơ bảy chữ gồm tứ tuyệt (bốn 
câu bảy chữ), bát cú (tám câu bảy chữ). Gọi thơ bảy 
chữ (thất ngôn) vì đặc điểm chính của câu thơ là mỗi 
câu có bảy chữ. Bài thơ bảy chữ ngắn nhất cũng phải 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
106 
là bốn câu: thất ngôn tứ tuyệt (Mời trầu, Bánh trôi 
nước, Con ốc nhồi của Hồ Xuân Hương)..., thất ngôn 
bát cú Đường luật (Thăng Long thành hoài cổ, Qua 
đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan)... 
Thơ thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú Đường 
luật có yêu cầu về niêm luật chặt chẽ. Các nhà thơ 
nữ ít sử dụng lại thể thơ Đường luật. Họ chủ yếu 
sử dụng thơ bảy chữ theo kiểu cổ phong, do ảnh 
hưởng của xon-nê Pháp nên cấu tạo lại thành 
những khổ thơ có bốn câu. Nếu các thi gia xưa 
sáng tác thơ Đường đã dùng nhiều Hán tự, điển tích 
cho bài thơ hàm súc, chặt chẽ và có phần nặng nề 
thì thơ bảy chữ của các nhà thơ nữ gần gũi với cuộc 
sống. Các nhà thơ nữ làm thơ bảy chữ không hạn 
định số dòng, số câu, gởi gắm vào đó những tư 
tưởng mới mẻ, với những lời thơ trong sáng nên rất 
rõ ràng, khúc chiết. Vần, nhịp trong thơ vừa tiếp 
nối thơ truyền thống, vừa linh hoạt, phản ánh hơi 
thở của cuộc sống, diễn tả cảm xúc của thi nhân: 
Ngắt theo nhịp 2/2/3: 
Lại thoảng tình hương ở các bông 
Bay ra lan đượm khắp không trung; 
Trong cơn ngây ngất say sưa ấy 
Chợt động cành cây tiếng lá rung. 
 (Tiếng đêm - Vân Đài) 
Thể thơ thất ngôn được các nhà thơ nữ cách tân, phá 
vỡ niêm luật, khổ thơ, vần điệu tạo nên thể thơ bảy 
chữ. Đây chính “là sự hoà giải tỉnh táo của ý thức thể 
loại” (Lê Duy Anh, Lê Quang Vinh, 2006, tr. 36). Chính 
vì thế, thể thơ này trở nên phổ biến rộng rãi, câu thơ 
tự do hơn: Ai cấm người thơ yêu quá độ?/ Ai ghì gió 
lốc giữa không gian?/ Và ai đặt chữ tình dang dở/ 
Mà để so le nghĩa thiếp chàng? (Căm giận - Mai 
Đình). 
Thể thơ bảy chữ chiếm một số lượng không nhỏ trong 
sáng tác của Anh Thơ. Với thể thơ này, Anh Thơ đã 
có sự cách tân qua kết cấu, ngắt nhịp, hiệp vần linh 
hoạt. Sự điêu luyện đó không chỉ diễn tả cảnh vật 
phong phú, đa dạng mà còn thể hiện tình cảm, tâm 
trạng của tác giả. Có thể kể đến các bài thơ: Chớp 
mắt, Chiếc cáng thơ, Xuân quê, Nắng 
Có những ngày buồn chả ước mơ 
Bỏ ăn, quên ngủ, biếng làm thơ. 
Cứ ngồi ngơ ngẩn bên song cửa 
Nhìn liễu rơi vàng lá báo thu... 
 (Chớp mắt) 
Thơ năm chữ là thể thơ liên quan đến việc thể 
hiện cảm xúc, nội dung giãi bày tâm trạng. Thơ 
năm chữ thường ngắt nhịp 2/3 tạo cho câu thơ 
chất luyến láy hoặc 3/2 tạo âm hưởng mênh mang, 
trầm lắng của nỗi nhớ mong. Vốn có nguồn gốc từ 
thơ ca dân gian, hát dặm Nghệ Tĩnh và loại thơ 
ngũ ngôn, đến các nhà Thơ mới, thơ năm chữ đã 
mở rộng hơn, tự do hơn cho tứ thơ để dễ dàng 
diễn tả tâm hồn, cảm xúc mới của thi nhân. Thể 
thơ năm chữ cũng được Anh Thơ sử dụng nhiều 
như các bài: Tiếng chim tu hú, Vá áo, Tết về 
Với thể thơ này, Anh Thơ thường chia làm nhiều 
khổ và nối liền mạch thơ để diễn tả cảm xúc. Nhà 
thơ thường thiên về lối kể, tả, để diễn tả tình cảm 
yêu thương, trìu mến của mình. 
Bỗng tiếng chim tu hú 
Đưa từ vườn vải xa 
Quả bắt đầu chín lự 
Ngọt như nỗi nhớ nhà 
Tu hú ơi tu hú! 
Kêu hoài chi vườn xanh? 
Ta còn đi đi nữa 
Như dòng sông trôi nhanh... 
(Tiếng chim tu hú) 
Đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp thơ ca của 
Anh Thơ phải kể đến việc vận dụng thể thơ một 
cách linh hoạt vào sáng tác của bà. Anh Thơ sử 
dụng nhiều thể thơ: thể thơ bốn chữ, năm chữ, bảy 
chữ, tám chữ; thể thơ tự do, thể thơ lục bát... Ở 
bất cứ thể thơ nào, Anh Thơ cũng đạt được thành 
tựu đáng kể. 
Có thể nói, thể thơ truyền thống là thể thơ được các 
tác giả nữ sử dụng nhiều hơn cả. Đó là âm vang quen 
thuộc của thi tứ phương Đông trong dòng chảy mới 
mẻ của thơ ca nữ giai đoạn này. Loại hình câu thơ của 
các nhà thơ nữ sử dụng phong phú đa dạng tùy từng 
thể loại thơ và cảm xúc thơ. Câu thơ vừa m ... 
“lon ton”, cái đĩ”, “nhớn nhác”, “bà lão”, “bới 
rác” nhưng cũng rất mộc mạc, chân chất như 
chính con người quê: 
Mụ bán cá đặt thúng ngồi chửi đổng 
Chị hàng rau mất chỗ chạy lon ton. 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
109 
(Họp chợ) 
Tác giả sử dụng từ ngữ, khéo léo dùng ngòi bút 
của mình vẽ nên những hình ảnh bình dị nhưng 
thật ấm áp và chan chứa vẻ đẹp cuộc sống. Bên 
cạnh đó, theo dòng thơ, mạch cảm xúc của người 
đọc được dâng lên và nhờ đó ta cảm nhận sâu nhất 
cảm xúc của nhà thơ. 
Hòa vào trong dòng Thơ mới, ngôn ngữ của Anh Thơ 
vừa kế thừa truyền thống, vừa sáng tạo, cách tân. 
Ngôn ngữ của Anh Thơ trong sáng, giàu màu sắc dân 
gian. Thơ của Anh Thơ sử dụng rất nhiều lời ăn tiếng 
nói hàng ngày của người dân quê: “ngủ khò bên 
nhau”, “nhà ai đã cháy rồi”, “thế cũng hơi nhiều” 
chân chất, đậm hồn quê. Ngôn ngữ trong thơ bà đã tái 
hiện bức tranh quê cụ thể, sinh động. Hình ảnh các 
phiên chợ quê: họp chợ, đông chợ, tàn chợ, bến đò 
ngày phiên chợ gợi lên chất quê trong thơ, cứ để lại 
trong lòng người đọc nỗi nhớ da diết về quê hương, 
đặc biệt là những người con xa quê. 
Đến với thơ Anh Thơ là đến với ngôn ngữ giản dị, đời 
thường. Những từ ngữ, hình ảnh giàu tính tượng hình, 
gợi tả được Anh Thơ tái hiện về cảnh vật, phong 
cảnh: vườn chuối, nương dâu, cánh đồng, rặng tre, 
bến sông Đó là những từ ngữ đậm tính dân gian. 
Người dân quê đã rất đỗi thân thuộc với những rặng 
tre, khóm tre, những đường quê, con đê, bến vắng, bờ 
tre, chòm xoan, hương hồng, hương lý, khóm tre, hoa 
mướp, hoa lựu, vườn cải, đầm sen, lũ chuồn chuồn, 
tàu chuối láng Tất cả cứ đi vào thơ bà tự nhiên, 
dung dị. Vì vậy, khi đọc thơ của bà chúng ta luôn bắt 
gặp những từ ngữ mang màu sắc đời thường. 
Âm thanh của cuộc sống thường nhật được Anh Thơ 
sử dụng bằng một hệ thống ngôn ngữ giàu tính tượng 
thanh. Đó là tiếng véo von của sáo diều bay lượn, 
tiếng mưa xuân, tiếng phấp phới của cánh cò trắng, 
tiếng chuông chùa yên bình, tiếng hát đúm, tiếng ồn 
ào của những người mua bán, tiếng gọi nhau ơi ới, 
tiếng cuốc gọi bạn, tiếng gà chiêm chiếp, lợn kêu ủn 
ỉn, xao xác tiếng gà gáy, tiếng dế kêu, tiếng ếch ộp 
muôn thuở của làng quê, tiếng pháo đì đạch, âm thanh 
buồn của tiếng vạc kêu đêm Đó là thanh âm của 
miền quê thôn dã. Không chỉ động mà bắt gặp trong 
những câu thơ là sự lặng lẽ, buồn vắng trong một 
không gian mơ màng: sự lặng im của chòm tre, của 
quán hàng vắng lặng, dòng sông cũng im ắng Vẫn 
bình dị, êm ả và nhẹ nhàng, một sắc thái không lẫn 
với một không gian nào. Anh Thơ đã tâm sự: “Lời 
thơ trong Bức tranh quê có những vần còn thô sơ, 
những có những câu hay mà đến bây giờ trình độ có 
vượt hơn trước rất nhiều tôi cũng không làm được” 
(Lưu Khánh Thơ, 2005, tr. 11). 
Ý thức sáng tạo, ý thức về sự độc đáo đã tạo nên 
những vần thơ đầy cá tính. Thơ của các tác giả nữ 
cởi mở cho những tiếng lòng gần gũi, diễn tả 
những thổn thức, dào dạt của đời vào thơ. Nó mở 
ra cho các hình thức tư duy mới mẻ, sử dụng các 
ẩn dụ, liên tưởng đầy nghịch lý và dĩ nhiên nó cho 
phép cá tính nhà thơ bộc lộ đậm nét trong hình 
thức thơ, thể loại thơ. Những tác phẩm của các 
nhà thơ nữ là một minh chứng. 
2.3 Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng 
Mỗi một nhà văn, nhà thơ đều có giọng điệu riêng, 
hơn thế nữa giọng điệu còn được biểu hiện khác 
nhau qua từng tác phẩm. “Giọng điệu cá nhân nghệ 
sĩ là sự tụ kết của nhiều yếu tố: cá tính sáng tạo, 
quan niệm nghệ thuật, thái độ đối với đời sống, tài 
nghệ tổ chức ngôn từ trong quá trình tạo giọng để 
thu hút và thuyết phục độc giả thì giọng điệu của 
mỗi một thời đại thơ ca là sự thể hiện một cách sống 
động kiểu tư duy nghệ thuật và khuynh hướng thẩm 
mỹ chung của thời đại ấy” (Nguyễn Đăng Điệp, 
2002, tr. 872). Giọng điệu là chất riêng của thanh âm 
để tác giả thể hiện một cảm xúc vào tác phẩm. Nó 
vừa là nội dung, vừa là hình thức để tác giả thể hiện 
cảm xúc. 
Sương Nguyệt Anh thuộc thế hệ nhà thơ cuối thế 
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Bà làm thơ bằng chữ 
Hán, chữ Nôm và cả chữ Quốc ngữ. Thơ chữ Hán 
của Sương Nguyệt Anh hầu hết tập trung vào các 
chủ đề của thơ cổ. Thơ Sương Nguyệt Anh để lại 
không nhiều nhưng giọng thơ đầy duyên ngầm 
với hồn thơ chân thật, thanh cao vẫn mang đến 
cho đời những bài thơ ngắn ngủi ấy một đời sống 
rất dài trong lịch sử văn học dân tộc. Giọng thơ 
Sương Nguyệt Anh cổ kính nhưng tha thiết, tràn 
trề nỗi niềm nhân thế trong sự cảm nhận sâu sắc 
(Thơ Chinh phụ, Họa thơ ông Phủ Học). 
Sự nghiệp thơ của Cao Ngọc Anh gồm thơ viết 
bằng chữ Hán và thơ viết bằng chữ Quốc ngữ. 
Trong phần thơ viết bằng Quốc ngữ, chỉ đọc bài 
Vịnh cảnh hoàng hôn, bạn đọc thấy được giọng 
điệu thơ của bà cùng một khẩu khí với thơ của bà 
Huyện Thanh Quan: 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
110 
Còn trời, còn đất, hãy còn ta. 
Chân cứng lo chi bóng xế tà, 
Nhớ mẹ thêm rầu khi sớm tối 
Thương con nào quản nỗi gần xa. 
Dám sai lời hẹn cùng non nước, 
Cũng gượng vui cười với cỏ hoa 
Phong cảnh buồn trông nơi đất khách, 
Chiều hôm lác đác hạt mưa sa. 
(Vịnh cảnh hoàng hôn - Cao Ngọc Anh) 
Cách ngắt nhịp trong thơ thường phụ thuộc vào 
cảm xúc thơ và ý thơ. Nhịp điệu theo cảm xúc vừa 
thể hiện ý thơ theo chiều ngang, vừa gắn kết mạch 
theo chiều dọc. Nhịp của cảm xúc, của tâm trạng 
hòa vào nhịp thơ là nét mới lạ trong thơ của Cao 
Ngọc Anh. Bởi sự hài hòa trong cảm xúc và nhịp 
điệu mà âm hưởng bài thơ êm đềm, ý tình hòa hợp 
lan toả nhẹ nhàng, sâu lắng đã thể hiện tự nhiên, 
chân thật cảm xúc thơ. 
Một trong những đặc điểm giọng điệu của thơ nữ 
giai đoạn này là trữ tình tha thiết. Không nổi bật 
như các nhà thơ nam cùng thời với những cách tân 
táo bạo, những liên tưởng dồi dào hay cách thể hiện 
cuồng nhiệt với tình yêu tận hưởng, quằn quại trong 
tình yêu tan tác (Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích 
Khê...), thơ của các bà (Hằng Phương, Ngân Giang, 
Vân Đài, Anh Thơ, Thu Hồng...) tỏa hương 
sắc bình dị, khiêm nhường. Chính sự bình dị, nhẹ 
nhàng, nữ tính ấy đã trở thành những đặc trưng của 
thơ nữ. 
Những bài thơ của Vân Đài nhẹ nhàng, êm ái, 
nhằm diễn tả những cảm xúc rạo rực, những xôn 
xao e ấp trong tình cảm, trong tâm trạng của người 
đang yêu. Tình yêu ở đây mong manh không bền, 
để lại những dư vị cay đắng. Những bài thơ của 
bà: Đêm tàn, Tả cảnh, Chiều thu, Họa mười bài 
Khuê phụ thán, Xuân sang, Dục Thúy sơn mang 
âm hưởng cô đơn, u hoài, buồn bã. Nỗi nhớ mãnh 
liệt, da diết nên phù hợp với giọng thơ nhẹ nhàng, 
đều đặn. Sự nhẹ nhàng, truyền cảm, gợi cảm giác 
man mác, bàng bạc trong thơ. “Lời thơ bao giờ 
cũng nhẹ nhàng êm ái. Ít khi tiếng Nam có vị ngọt 
ngào như thế” (Hoài Thanh, 2000, tr. 249). 
Đồng điệu cảm xúc với thơ Vân Đài, thơ Hằng 
Phương trong tập Hương xuân có nhiều bài là sự 
hồi tưởng đầy xúc cảm của tác giả về quá khứ. Đó 
là những ngày Tết thuở bé (Tết xưa), là hình ảnh 
người mẹ thương yêu đã mất (Nhớ mẹ), là quê nhà 
đã xa (Tư cố hương, Thu nhớ nhà, Chiều hè đứng 
bên sông). Hằng Phương đã vẽ nên cảnh sắc của 
thiên nhiên (Bình minh, Trăng lên, Tịch mịch) 
bằng sự nhạy cảm trong quan sát, cảm nhận. 
Những hình ảnh thơ thấm đẫm cảm xúc của nhà 
thơ tạo nên sự da diết, dào dạt trong lời thơ. 
Giọng thơ đó đã làm nên sức quyến rũ lắng sâu 
của thơ Hằng Phương. 
Sương đêm còn đọng trên cành, 
Rưng rưng hạt ngọc long lanh nhìn trời. 
Sẽ sàng chiếc lá vông rơi, 
Thương tâm ngành liễu tơi bời lệ sa. 
Bên hiên chúm chím nụ trà, 
Vừng đông vừa ló, ngoảnh ra mỉm cười. 
Cánh hồng đài điếm khoe tươi 
Dường như mới gặp được người tình xưa 
(Bình minh - Hằng Phương) 
"Thơ Hằng Phương cùng một giọng êm dịu, ngọt 
ngào như Vân Đài. Nhưng ít dấu tích thơ Đường 
và thành thực hơn. Như đoạn cuối trong bài Lòng 
quê trích theo đây lời thơ thực yểu điệu, dễ 
thương. Hằng Phương mượn lời chim để nói nỗi 
lòng mình. Nhưng thực ta không còn biết đây là 
lời người hay lời chim. Bởi mối tình ở đây nhẹ 
nhàng quá, trong trẻo quá" (Hoài Thanh, 2000, tr. 
340). Bài thơ được biết đến nhiều nhất của Hằng 
Phương là Lòng quê tặng người bạn đời Vũ Ngọc 
Phan với nỗi niềm: “... Đường xa ngoảnh lại ngẩn 
ngơ/ Trông theo mây trắng thẫn thờ mắt xanh”. 
Âm điệu chính trong thơ Hằng Phương là “êm dịu 
ngọt ngào”. Nhưng đôi khi trong thơ bà, ta thấy 
ánh lên những nét triết lý của một tâm hồn đầy 
trải nghiệm, suy tư. Trong bài thơ Tết xưa nhà thơ 
dường như đã thấy trong cái hiện tại, những quy 
luật của sự sống: 
Những ngày vui sao chẳng được bao lăm 
Vừa mới đó, cuộc đời đã khác trước. 
Vì có cánh tôi bay theo chim Phượng, 
Tới Bồng lai, xem mẹ ở nơi nao. 
Và quay đầu về dãy núi cao cao, 
Tìm quê cũ dưới nắng xuân rực rỡ. 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
111 
Bắt gặp trong những bài thơ của Mộng Tuyết là 
giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng. Chất liệu làm nên 
giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng trong thơ tác giả là 
cách tạo nên nhạc tính bằng việc dùng từ ngữ. Âm 
điệu nhẹ nhàng có được sự cân đối của âm thanh. 
Nét phá cách trong ngắt nhịp không nhiều, phần lớn 
là nhịp của cảm xúc. Sự cộng hưởng của nhịp điệu 
và cảm xúc tạo nên hiệu quả đặc biệt trong thơ. So 
với thơ của các nhà thơ nữ trong phong trào Thơ 
mới, thơ Mộng Tuyết có nhiều đổi mới và sáng tạo 
hơn hết, tiêu biểu là ở mặt phá cách về số chữ trong 
câu thơ và sự đổi nhịp trong câu thơ, đoạn thơ. 
Những bài thơ của Mộng Tuyết trong tập Hương 
xuân: Em xấu hổ, Chơi vơi, Phấn hương rừng, 
Ngấn yêu, Lời hoa dại, Đêm sóng gió... là minh 
chứng. Đó là tình yêu trong sáng, chân thành của 
một trái tim yêu hồn nhiên, ngây thơ được thể hiện 
trong dòng cảm xúc dạt dào, nồng nàn bởi những 
lời thơ rất đỗi đằm thắm, dịu dàng. 
Việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ góp phần quan 
trọng trong việc lột tả sâu sắc thế giới nội cảm của nhà 
thơ, giọng điệu thơ có sức chi phối rất lớn trong việc 
lựa chọn ngôn ngữ thể hiện. Tâm tình trong thơ Ngân 
Giang chất phác, đậm đà như những hình ảnh phản 
chiếu từ chiếc gương trong sáng. Trong thơ bà, người 
đọc thấy thấp thoáng những “bến nước”, “con đò” gợi 
lên sự biệt li của người bạn đời Ngân Giang: “Từ buổi 
sang sông với chuyến đò/ Vui gì khi lỡ mối duyên tơ” 
(Sang sông) 
Người buồn, cảnh như buồn theo lòng người. 
Cảnh vật phủ màu ảm đạm, niềm thương nỗi nhớ 
xâm chiếm tâm hồn nhà thơ. Nàng mượn cảnh để 
tỏ lòng mình: 
Đề thơ nước mắt ứa theo dòng 
Non nước ai người có biết không? 
Một kẻ đương ngồi bên cánh cửa 
Mà bao mưa gió ở trong lòng. 
(Chiều nay - Ngân Giang) 
Không gian trống trải, cánh bướm bay thẩn thơ, 
lòng nàng dậy lên bao xúc cảm, ngậm ngùi. Những 
năm tháng chờ đợi, giảm đi xuân sắc nhưng tình 
người vẫn dạ thủy chung. Niềm nhớ thương đã 
chôn chặt cõi lòng mấy thu. Nàng một mình âm 
thầm, lòng ngổn ngang biết giãi bày cùng ai Thơ 
của Ngân Giang đậm đà tình ý, lời thơ thanh thoát, 
chất giọng nhẹ nhàng rung cảm người đọc. 
Chủ âm chính của Thơ mới là giọng điệu buồn 
thương nhưng bên cạnh đó vẫn vang lên những giai 
điệu yêu đời, những nguồn sống dạt dào mê say. 
Cùng với Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, thơ của 
Anh Thơ là bức tranh tươi tắn về làng quê. Bức 
tranh quê của Anh Thơ vẽ nên bức tranh làng quê 
tĩnh lặng, dấu ấn văn hóa của nền nông nghiệp đậm 
đặc trong những vần thơ của nữ sĩ. Bắt gặp trong 
bức tranh thơ là chất giọng nhẹ nhàng, tâm tình của 
người con trở về phong cảnh làng quê. Đó là lời kể 
lể thỏ thẻ giàu nữ tính trong Chợ ngày xuân: 
Trên những giải lưng chiều bay phất phới 
Các cô nàng lơ lẳng nón quai thao 
Các cô gái chen nhau vào vui vẻ 
Nghe thánh truyền sắp dắt mối lương duyên. 
 Hay chất giọng mềm mại, êm ái giàu tính nữ: 
Tre lả lướt nghiêng đầu cho nước gội 
Cau thẳng mình dang lá đón mưa rơi. 
(Mưa - Anh Thơ) 
Những cơn mưa mềm mại, tưới mát những khóm 
tre, cây cau, bụi chuối Tất cả được cảm nhận 
bằng những ánh nhìn rất nữ tính. Đây đó, ta bắt 
gặp nét yểu điệu duyên dáng của những cô thôn 
nữ làm cho những câu thơ thêm uyển chuyển 
duyên dáng. 
Thơ Anh Thơ hấp dẫn bạn đọc ở sự đa dạng của 
giọng điệu: có lúc giọng thơ mềm mại, nhẹ nhàng, 
sâu lắng rất gần với ca dao dân ca; có lúc là giọng 
điệu trữ tình, tha thiết; lúc khác, ta lại bắt gặp một 
giọng thơ trẻ trung, khỏe khoắn, tự tin, tràn đầy lạc 
quan. Có sự khác nhau đó là do yêu cầu thể hiện 
của mỗi đề tài và cung độ cảm xúc của tác giả - 
điều này cũng đã tạo nên nét riêng, nét đáng quý 
để làm nên một Anh Thơ độc đáo trên thi đàn văn 
học Việt Nam. 
Ghi nhận đóng góp của những gương mặt thơ ca 
nữ trong phong trào Thơ mới, có thể bạn đọc 
không nhắc đến họ như những cây đại thụ, như 
những phong cách nghệ thuật mang đậm dấu ấn 
cá tính. Nhưng họ đã hiện diện trong phong trào 
Thơ mới bằng dấu ấn của một hồn thơ mang đậm 
phong vị Á Đông ngọt ngào, êm dịu, với những 
tình cảm nồng ấm về tình yêu gia đình, con người 
và làng quê đất Việt. Họ tạo dấu ấn riêng biệt, làm 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112 
112 
nên nét độc đáo trong phong cách sáng tạo của 
các nhà thơ nữ. 
3. KẾT LUẬN 
Cảm hứng sáng tác khơi nguồn từ cuộc sống, từ 
những chi tiết đời thường, thơ nữ luôn mang hơi thở 
thời đại. Thơ nữ vừa hiện đại, vừa quen thuộc gần 
gũi mà vẫn chuyển tải trọn vẹn cảm xúc của cá nhân, 
của thời đại. Những nỗi niềm sâu kín, những trăn 
trở, băn khoăn, những cảm xúc tinh tế, những vẻ đẹp 
thoáng qua của đời thường đã được gửi gắm qua 
những câu thơ ngắn ngủi mà lay động lòng người. 
Nghiên cứu thơ của các nhà thơ nữ để thấy được tâm 
hồn Việt đã gắn kết sống động, nhuần nhuyễn. 
Những bài thơ của các nhà thơ nữ kết đọng cảm xúc, 
tạo nên giọng điệu nồng nàn, tha thiết bởi vần điệu, 
ngôn ngữ, kết cấu bài thơ đa dạng. 
Hiển hiện trong thơ của mỗi nhà thơ nữ là giọng 
điệu, tình ý riêng của mỗi người. Dẫu có bài chưa 
hay, chưa gợi cảm xúc nhưng người yêu thơ 
không khó nhận ra vẻ đẹp chung của tập thơ từ 
những bài thơ cụ thể: cảm hứng thổ lộ, giãi bày; 
cảm xúc chân thành, đằm sâu và giọng thơ uyển 
chuyển, nhẹ nhàng, thủ thỉ Thơ nữ là tiếng 
nói bình dị, khiêm nhường nhưng lạ và riêng 
trong phong trào Thơ mới. Đó chính là nền tảng, 
nguồn mạch xuyên suốt, ý thơ dân dã, hồn thơ 
dung dị, chân chất; giọng điệu thanh thoát, thâm 
trầm được vun đắp từ truyền thống, khơi mạch 
nguồn cho thơ nữ hiện đại hôm nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Hoài Thanh, Hoài Chân. (2000) (Tái bản). Thi nhân 
Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học. 
Lại Nguyên Ân. (Tập hợp và biên soạn). (1998). 
Thơ mới 1932 - 1945, Tác giả và tác phẩm. Hà 
Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà văn. 
Lê Duy Anh, Lê Quang Vinh. (2006). Nữ lưu đất Việt (từ 
cổ đại đến cận đại). Nhà xuất bản Đà Nẵng. 
Lưu Khánh Thơ. (2005). Thơ và một số gương mặt 
thơ Việt Nam hiện đại. Hà Nội: Nhà xuất bản 
Khoa học Xã hội. 
Mã Giang Lân. (2005). Những cuộc tranh luận văn 
học nửa đầu thế kỷ XX. Hà Nội: Nhà xuất bản 
Văn hoá Thông tin. 
Nguyễn Đăng Điệp. (2002). Nhìn lại văn học Việt 
Nam thế kỷ XX. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị 
Quốc gia. 
Phạm Xuân Độ. (1959). Nữ thi hào Việt Nam. Sài Gòn: 
Trung tâm học liệu xuất bản. 
Vũ Văn Sỹ. (2005). Mạch thơ trong nguồn thế kỷ. 
Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội
. 

File đính kèm:

  • pdftho_nu_nhung_nam_dau_the_ky_xx_nhin_tu_phuong_dien_nghe_thua.pdf