Thẩm định một số phương pháp tách chiết ADN cho phát hiện biến đổi gen
Nghiên cứu này được thực hiện để thẩm định 4 phương pháp tách chiết ADN, trong đó 3 phương pháp theo
TCVN 7606: 2007 (ISO21571: 2005) bao gồm các phương pháp tách chiết ADN bằng phenol/chloroform, polyvinylpyrrovylidon (PVP) và CTAB. Phương pháp thứ tư là tách ADN bằng bộ kit Wizard clean-up (Promega). Tổng số
11 mẫu thí nghiệm chia thành năm nền mẫu hạt, bột, nước, thức ăn chăn nuôi và thực phẩm đã được khảo sát. Mỗi
mẫu được tách chiết lặp lại 2 lần đối với 4 phương pháp, kèm theo các đối chứng dương tính (lá ngô), âm tính (H2O).
Kết quả cho thấy phương pháp tách chiết ADN bằng phenol/chloroform không phù hợp cho các nền mẫu nghiên
cứu, trong khi phương pháp PVP có thể dùng cho nền mẫu hạt. Phương pháp CTAB cho ADN tinh sạch có nồng độ
từ 10,7 ng/µl đến 234,6 ng/µl, tỉ lệ quang phổ A260/280 đạt được từ 1,68 đến 2,27. Phương pháp tách ADN bằng bộ
kit Wizard clean-up (Promega) cho ADN tinh sạch có nồngđộ từ 82,8 ng/µl đến 226,2 ng/µl, tỉ lệ bước quang phổ
A260/280 đạt được từ 1,8 đến 2,07. Hai phương pháp tách ADN bằng CTAB và sử dụng kit Wizard clean-up có thể
sử dụng trong các phòng thí nghiệm để tinh sạch ADN cho phát hiện biến đổi gen.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thẩm định một số phương pháp tách chiết ADN cho phát hiện biến đổi gen
66 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017 Study on technical measures for Ha thu o do [Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson] at Son Dong commune, Son Tay, Hanoi Pham Thanh Huyen, Phan Van Truong Abstract The experiments were designed to evaluate the effects of growing time, planting distance and fertilizer doses on growth, development, yield and quality of F. multiflora. The results showed that the best growing time was in March or in October of the year; the planting distance of 40 ˟ 30 cm and fertilizer dose for 1 ha within 2 year including 4 tons of microbial organic fertilizer + 200 kg N + 400 kg P2O5 + 200 kg K2O. With all the above conditions, the yield of Ha thu o do growng in Son Dong commune, Son Tay district, Hanoi city reached 2600 - 2800 kg/ha and the content of 2,3,5,4'-Tetrahydroxystilbene 2-O-β-D-glucoside was recorded over 2%. Key words: Cultivation, Ha thu o do, Fallopia multiflora, high quality and yield Ngày nhận bài: 13/8/2017 Ngày phản biện: 16/8/2017 Người phản biện: PGS. TS. Ninh Thị Phíp Ngày duyệt đăng: 10/9/2017 1 Viện Di truyền Nông nghiệp THẨM ĐỊNH MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TÁCH CHIẾT ADN CHO PHÁT HIỆN BIẾN ĐỔI GEN Lưu Minh Cúc1 TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện để thẩm định 4 phương pháp tách chiết ADN, trong đó 3 phương pháp theo TCVN 7606: 2007 (ISO21571: 2005) bao gồm các phương pháp tách chiết ADN bằng phenol/chloroform, polyvinyl- pyrrovylidon (PVP) và CTAB. Phương pháp thứ tư là tách ADN bằng bộ kit Wizard clean-up (Promega). Tổng số 11 mẫu thí nghiệm chia thành năm nền mẫu hạt, bột, nước, thức ăn chăn nuôi và thực phẩm đã được khảo sát. Mỗi mẫu được tách chiết lặp lại 2 lần đối với 4 phương pháp, kèm theo các đối chứng dương tính (lá ngô), âm tính (H2O). Kết quả cho thấy phương pháp tách chiết ADN bằng phenol/chloroform không phù hợp cho các nền mẫu nghiên cứu, trong khi phương pháp PVP có thể dùng cho nền mẫu hạt. Phương pháp CTAB cho ADN tinh sạch có nồng độ từ 10,7 ng/µl đến 234,6 ng/µl, tỉ lệ quang phổ A260/280 đạt được từ 1,68 đến 2,27. Phương pháp tách ADN bằng bộ kit Wizard clean-up (Promega) cho ADN tinh sạch có nồngđộ từ 82,8 ng/µl đến 226,2 ng/µl, tỉ lệ bước quang phổ A260/280 đạt được từ 1,8 đến 2,07. Hai phương pháp tách ADN bằng CTAB và sử dụng kit Wizard clean-up có thể sử dụng trong các phòng thí nghiệm để tinh sạch ADN cho phát hiện biến đổi gen. Từ khóa: Tách chiết ADN, loại nền mẫu, nồng độ, chất lượng I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tách chiết ADN là khâu đầu tiên quan trọng nhất trong tất cả các thí nghiệm sinh học phân tử. Các thao tác di truyền của công nghệ gen đều tiến hành với ADN (hay RNA). Nguyên tắc cơ bản của việc tách chiết ADN bao gồm việc giải phóng ADN có mặt trong chất nền và sau đó là tinh sạch ADN khỏi các chất ức chế phản ứng PCR (TCVN 7606:2007 - ISO 21571:2005). ADN tách chiết được cần đảm bảo về độ tinh khiết và độ nguyên vẹn về cấu trúc để thực hiện được các khâu nghiên cứu tiếp theo trong công nghệ gen thực vật. Đặc biệt trong công tác thử nghiệm và giám định biến đổi gen, việc tách chiết được ADN có chất lượng cho phản ứng PCR nghĩa là các ADN làm khuôn có độ dài phù hợp, sạch về mặt hóa học và nguyên vẹn về mặt cấu trúc (TCVN 7608:2007 - ISO 24276:2007), có nồng độ cao từ các nền mẫu khác nhau là vô cùng khó, do trong các sản phẩm chế biến hoặc tinh chế ở mức độ cao, ADN đã bị phân hủy hầu hết. Có rất nhiều phương pháp tách chiết ADN, tuỳ thuộc mục đích nghiên cứu mà lựa chọn các phương pháp tách ADN cho phù hợp. Nghiên cứu này tiến hành thẩm định các phương pháp tách chiết ADN theo Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 7606:2007 (ISO 21571:2005) và phương pháp tách bằng bộ kit của Promega để tìm ra phương pháp thích hợp nhất cho các nền mẫu nghiên cứu phục vụ cho mục đích kiểm tra, xác định biến đổi gen trong mẫu phân tích (ISO/IEC 17025). 67 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017 II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.Vật liệu nghiên cứu -11 mẫu thí nghiệm thuộc năm nền mẫu khác nhau, bao gồm nền mẫu hạt (đậu tương, ngô), bột (bột ngũ cốc, bột đậu xanh, sữa bột), lỏng (sữa đậu nành), 3 loại thức ăn chăn nuôi và thực phẩm (ngô đóng hộp, bim bim). Mẫu đối chứng âm tính: nước cất; mẫu đối chứng dương tính: lá ngô. Tên các loại sản phẩm được nêu trong bảng 1. - Các vật tư, hóa chất đã được liệt kê trong TCVN 7606:2007 (ISO 21571:2005). - Bộ kit Wizard ADN clean-up system của Promega. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Để đảm bảo tính chính xác trong việc thẩm định phương pháp tách ADN (Thompson et al., 2002), các nền mẫu tham gia nghiên cứu đã được xử lý trước khi tách chiết ADN như sau: - Đối với nền mẫu hạt: Nghiền mẫu thành bột mịn. - Đối với nền mẫu lỏng: Tiến hành ly tâm, lấy phần lắng xuống làm mẫu phân tích. - Đối với nền mẫu bột: Nếu bột thô thì xay mịn thành hỗn hợp đồng nhất. - Đối với mẫu thực phẩm bao gói: + Thực phẩm chứa đường: Nghiền thành bột mịn, sau đó cho nước vô trùng vào hòa tan mẫu, đem ly tâm để thu lấy phần lắng xuống dùng cho phân tích. + Thực phẩm chứa muối dạng bánh (bim bim): Tiến hành rửa nhẹ dưới vòi nước chảy, sau đó sấy khô ở 700 C trong 2 giờ. Lấy mẫu ra nghiền thành dạng bột mịn. - Đối với thức ăn chăn nuôi: Nghiền thành dạng bột. - Thí nghiệm sử dụng các phương pháp tách chiết ADN theo TCVN 7606:2007 (ISO 21571:2005) như sau: Phương pháp dựa trên phenol/chlorofom: Gồm các bước phân hủy nhiệt trong sự có mặt của natri dodecyl sunfat và hàm lượng EDTA cao, loại bỏ các tạp chất (như các phân tử ưa mỡ, các chất polisacarit và protein) và các nuclease sử dụng phenol và chlorofom. Kết tủa ADN cuối cùng bằng ethanol, làm cô đặc DNA và loại trừ các muối và chlorofom còn dư. Phương pháp dựa trên polyvinyl-pyrrovylidon (PVP) bao gồm bước phân giải bằng nhiệt với sự có mặt của natri dodexyl sunfat và EDTA hàm lượng cao, tiếp theo là bước loại bỏ các tạp chất như các phân tử polyphenol, polysacarit, các chất trao đổi và các protein hòa tan ra khỏi pha lỏng chứa DNA bằng việc kết hợp PVP và amoni axetat. Bước kết tủa bằng ancol cuối cùng để thu lấy DNA và loại bỏ các muối. Phương pháp dựa trên CTAB: Qua bước phân giải bằng nhiệt với sự có mặt của CTAB, tiếp theo là các bước loại bỏ các tạp chất như polisacarit, protein để thu được ADN tổng số tinh sạch. - Phương pháp tách chiết ADN bằng bộ kit Wizard ADN clean-up system của Promega: theo hướng dẫn của nhà sản xuất (Wizard® ADN Clean- Up System). - So sánh nồng độ và chất lượng của các loại ADN đã chiết tách bằng đo quang phổ trên máy nanodrop và điện di trên gel agarose 0,8%. Nồng độ ADN: CADN = A260 nm ˟ 50 ˟ độ pha loãng. Một dung dịch nucleic acid được xem là sạch (không tạp nhiễm protein) khi tỷ số A260/280 nằm trong khoảng 1,8 đến 2. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: Tháng 1/2017 đến tháng 6/2017. - Địa điểm: Phòng Giám định Sinh vật và Sản phẩm biến đổi gen, Viện Di truyền Nông nghiệp. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Tiến hành so sánh các phương pháp tách chiết ADN: ADN tổng số sau khi đã tách chiết bằng 4 phương pháp, phenol/chlorofom, PVP, CTAB và kit Wizard, được đo nồng độ và độ tinh sạch bằng máy NanoDrop. Kết quả đo được hiển thị trên bảng 1. Kết quả đo nồng độ ADN đối với phương pháp tách chiết sử dụng phenol/chloroform như bảng trên cho thấy, chỉ số A260/280 của tất cả các loại chất nền đều <1,8, chỉ có mẫu đối chứng dương tính (+) đạt trong mức độ cho phép. Như vậy ADN không đủ độ tinh sạch để có thể thực hiện thí nghiệm tiếp theo. Các nền mẫu khác tuy nồng độ cao nhưng lại quá nhiều chất ức chế khác ngoài ADN nên chỉ số A260/280 thấp hơn giá trị 1,8. Kết quả đo nồng độ ADN đối với phương pháp tách chiết sử dụng PVP cho thấy, chỉ số A260/280 của hạt ngô và hạt đậu tương là >1,8; các mẫu còn lại đều <1,8. Chỉ có ADN chiết được từ hạt đậu tương là tinh sạch, A260/280 trong khoảng cho phép từ 1,98 - 1,99, mẫu ngô có độ tinh sạch kém hơn với A260/280 từ 2,1 - 2,48. Điều đó chứng tỏ phương pháp PVP thích hợp cho tách hạt đậu tương. 68 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017 Đối với phương pháp tách chiết ADN bằng CTAB, với kết quả đo như bảng trên, chỉ số A260/280 của tất cả các mẫu đều nằm trong khoảng từ 1,68 đến 2,27. Như vậy, ADN tổng số tách chiết được từ tất cả các mẫu bằng phương pháp CTAB là tinh sạch hơn nhiều so với hai phương pháp trước. Riêng đối với phương pháp sử dụng bộ kit Wizard ADN clean-up system, kết quả đo như bảng 1, chỉ số A260/280 của tất cả các mẫu đều nằm trong khoảng từ 1,8 đến 2,07. Như vậy, ADN tổng số tách chiết được từ tất cả các mẫu bằng phương pháp sử dụng bộ kit Wizard ADN clean-up system là tinh sạch hơn so với phương pháp CTAB, không còn lẫn tạp chất và protein. ADN tổng số của các các mẫu sau khi tách chiết bằng phương pháp phenol/chlorofom được vào điện di trên gel agarose 0,8% trong 30 phút ở 100 miliAmp và đưa vào soi dưới tia cực tím. Ảnh chụp bằng Hệ thống xử lí hình ảnh gen - VisionCapt cho kết quả như sau: Bảng 1. Kết quả đo nồng độ ADN (độ tinh sạch) tách chiết trên máy NanoDrop STT Tên chất nền Số lần lặp Phương pháp phenol/ chlorofom Phương pháp PVP Phương pháp CTAB Phương pháp kit Wizard Nồng độ ADN (ng/µl) A260/280 Nồng độ ADN (ng/µl) A260/280 Nồng độ ADN (ng/µl) A260/280 Nồng độ ADN (ng/µl) A260/280 1 Hạt ngô 1 78,5 1,52 5,5 2,48 78,5 2,1 176,3 1,82 2 123,8 1,63 8,5 2,1 54,2 2,07 184,4 2,02 2 Hạt đậu tương 1 176,3 1,07 89,5 1,98 156,5 1,85 163,5 1,88 2 177,1 1,14 88 1,99 163,9 1,92 177,1 1,96 3 TACN C20 con cò 1 405,7 1,46 263,2 1,66 234,6 2,02 226,2 1,87 2 408,3 1,58 205,2 1,46 209,1 2,07 159,1 2,01 4 TACN554 - HiGro 1 281,6 1,24 307,3 1,58 89,5 1,90 169,5 1,98 2 320,5 1,32 321,3 1,53 94,8 1,81 154,2 2,01 5 TACN VH - 20S - Viethope 1 736,9 1,73 443,4 1,69 113,4 1,68 143,4 1,98 2 648,3 1,69 426,2 1,55 106,2 1,76 126,2 1,86 6 Bim bim Ostar 1 9,9 1,12 20,9 1,23 40,7 2,27 120,7 2,07 2 111,4 1,29 31,8 1,36 40,5 1,80 140,5 1,86 7 Sữa đậu nành Fami 1 158,6 1,25 34,9 1,76 74,9 2,26 134,9 2,06 2 104,5 1,07 32,2 1,63 72,2 2,13 152,2 2,03 8 Bột đậu xanh Rồng Vàng 1 22,4 1,09 360,9 1,12 161,2 2,06 179,1 2,03 2 18,6 1,1 354,4 1,15 154,4 2,13 156,3 2,03 9 Sữa bột 1 18,5 1,15 2,3 1,69 48,7 1,93 122,7 1,82 2 18,6 1,19 8,8 1,08 48,8 1,97 116,8 1,88 10 Ngô đóng hộp 1 688,5 1,67 3,5 1,67 58,6 1,97 88,6 1,91 2 685,3 1,47 10,1 1,47 52,8 1,8 82,8 1,9 11 Bột ngũ cốc 1 13,5 1,21 22,9 1,36 68,4 1,76 88,4 2,01 2 10,1 1,45 18,7 1,29 75,6 1,79 85,6 1,96 H2O ĐC (-) 1 1,8 4,01 0 -0,11 0 -0,11 0,1 -0,06 Mẫu lá ngô ĐC (+) 1 201,2 1,86 259 1,91 151 1,97 158,9 1,91 69 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017 Hình 1. Kết quả điện di ADN trên gel agarose 0,8% đối với phương pháp phenol/chlorofom Giếng M: marker λ ADN chuẩn nồng độ 200 ng; 1: ĐC (-); 2-3: Hạt ngô; 4-5: Hạt đậu tương; 6-7: TACN C20 Con cò; 8-9: TACN554 Higro; 10-11: TACN VH20S; 12-13: Bim bim Ostar; 14-15: Sữa đậu nành Fami; 16-17: Bột đậu xanh Rồng Vàng; 18-19: Sữa bột; 20-21: Ngô đóng hộp; 22-23: Bột ngũ cốc; 24: ĐC (+) Hình 2. Kết quả điện di ADN trên gel agarose 0,8% đối với phương pháp PVP Giếng M: marker λ ADN chuẩn nồng độ 200 ng; 1-2: Hạt ngô; 3-4: Hạt đậu tương; 5-6: TACN C20 Con cò; 7-8: TACN554 Higro; 9-10: TACN VH20S; 11-12: Bim bim Ostar; 13-14: Sữa đậu nành Fami; 15-16: Bột đậu xanh Rồng Vàng; 17-18: Sữa bột; 19-20: Ngô đóng hộp; 21-22: Bột ngũ cốc; 23: ĐC (-); 24: ĐC (+) Hình 3. Kết quả điện di ADN trên gel agarose 0,8% đối với phương pháp CTAB Giếng M: marker λ ADN chuẩn nồng độ 200 ng; 1-2: Hạt ngô; 3-4: Hạt đậu tương; 5-6: TACN C20 Con cò; 7-8: TACN554 Higro; 9-10: TACN VH20S; 11-12: Bim bim Ostar; 13-14: Sữa đậu nành Fami; 15-16: Bột đậu xanh Rồng Vàng; 17-18: Sữa bột; 19-20: Ngô đóng hộp; 21-22: Bột ngũ cốc; 23: ĐC (+); 24: ĐC (-) Kết quả trong hình 1 cho thấy, phương pháp phenol/chlorofom tách chiết ADN không thành công, ADN bị đứt gãy, lượng ADN thu được tương đối ít, sản phẩm ADN thu được là các vạch mờ, hoặc dải dài, không thành băng vạch rõ ràng và cùng kích thước vị trí với λADN chuẩn. Phần băng sáng nhỏ ở phía trước dải màu chất nhuộm là các sản phẩm ARN và các tạp chất còn lại chứ không phải là ADN. Trong quá trình tách chiết, ARN cần được xử lý thêm để loại bỏ hoàn toàn ra khỏi sản phẩm tách ADN. Vậy phương pháp này không thích hợp để tách chiết tinh sạch ADN có nguồn gốc từ các sản phẩm nền mẫu đã bao gồm trong nghiên cứu này. Trong hình 2, có thể nhận thấy ADN thu được ít, có ADN bị đứt gãy, vạch không sáng rõ, khá mờ, còn lẫn nhiều tạp chất. Chỉ tách được ADN của các mẫu hạt ngô và hạt đậu tương. Mẫu 1 (giếng 1, 2) tách chiết ADN chấp nhận được, lẫn tạp ít. Mẫu 2 (giếng 3, 4) tách chiết ADN chấp nhận được. Mẫu 4 (giếng 7, 8), mẫu 8 (giếng 15, 16) và mẫu 11 (giếng 21, 22) có ADN nhưng bị đứt gãy, vạch sáng mờ, không rõ. Các mẫu còn lại tách chiết không thành công. Phía dưới của hình 2, vẫn thấy một số mẫu có vạch sáng như giếng số 3-4; 9-10; 15-16; 21-22; 24. Đó không phải là ADN mà chính là ARN và các tạp chất khác chưa được xử lý hết trong quá trình tách chiết. 70 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017 Từ kết quả trên hình 4 cho thấy phương pháp sử dụng kit Wizard ADN clean-up systemcủa Promega tách chiết ADN rất thành công. ADN không bị đứt gãy, các vạch ADN đều sáng rõ, ngoài ra đều không bị lẫn các tạp chất như protein hay ARN do không bị tạo thành các vệt sáng trên gel điện di. Vậy phương pháp này thích hợp để tách chiết tinh sạch ADN có nguồn gốc đa dạng từ các mẫu hạt (hạt đậu tương, hạt ngô), đến các mẫu chứa nhiều hỗn hợp các loại ADN (thức ăn chăn nuôi), đến các sản phẩm chế biến (sữa đậu nành, sữa bột, bim bim, bột đậu, bột ngũ cốc, ngô đóng hộp). So sánh về tính hiệu quả của 4 phương pháp được khảo sát cho thấy, phương pháp tách chiết ADN bằng phenol/chloroform và PVP cho hiệu quả thấp. Phương pháp tách chiết ADN bằng CTAB thu được ADN nồng độ và chất lượng tốt. Phương pháp sử dụng kit Wizard ADN clean-up system dễ thao tác, thời gian tách nhanh và cho ADN chất lượng cao, nhưng giá thành tương đối cao. Tuy nhiên, khi tách ADN cho phát hiện biến đổi gen, nếu chỉ kiểm tra bằng PCR thường, thì chỉ cần tách chiết bằng phương pháp CTAB là đủ (Amd.1:2013). Nhưng khi kiểm tra định tính, định lượng bằng phương pháp Real time PCR, thì việc sử dụng kit Wizard ADN clean-up system tách chiết ADN là cần thiết để đạt được ADN tinh sạch, đảm bảo chất lượng kết quả thử nghiệm. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ - Phương pháp tách chiết ADN bằng phenol/ chloroform không phù hợp để tách chiết các nền mẫu nghiên cứu. - Phương pháp tách chiết ADN bằng PVP chỉ phù hợp để tách chiết các nền mẫu hạt (đậu tương hạt). - Phương pháp tách chiết ADN bằng CTAB thích hợp dùng để tách chiết ADN tinh sạch từ 5 nền mẫu nghiên cứu,cho nồng độ đạt từ 40,5 ng/µl đến 184,4 ng/µl, chỉ số A260/280 đạt từ 1,68 đến 2,27. - Phương pháp sử dụng bộ kit (Wizard ADN clean-up system) của Promega thích hợp dùng để tách chiết ADN tinh sạch từ 5 nền mẫu nghiên cứu, cho nồng độ đạt từ 82,8 ng/µl đến 184,4 ng/µl, chỉ số A260/280 trong khoảng từ 1,8 đến 2,07. - Hai phương pháp tách chiết ADN bằng CTAB và tách chiết ADN bằng bộ kit (Wizard ADN clean- up system) của Promega có thể được sử dụng trong các phòng thí nghiệm cho mục đích phát hiện biến đổi gen đối với 5 nền mẫu hạt, bột, nước, thức ăn chăn nuôi và thực phẩm. Hình 3 cho thấy ADN không bị đứt gãy, các vạch ADN đều sáng rõ, không bị lẫn các tạp chất như protein hay ARN do không bị tạo thành các vệt sáng. Alpha-amylaza được cho vào dung dịch đệm phân giải đã thủy phân các tinh bột khi các chất nền chứa nhiều tinh bột. Việc xử lí mẫu bằng proteinase K là cần thiết đối với nhiều loại chất nền khi việc kết tủa đồng thời ARN có thể làm nhiễu phép phân tích tiếp theo. Nồng độ muối trong suốt quá trình tách chiết là rất quan trọng trong việc loại bỏ các tạp chất, vì sự kết tủa của axit CTAB-nucleic sẽ xảy ra nếu nồng độ muối giảm xuống thấp khoảng 0,5 mol/l ở nhiệt độ phòng và/hoặc nếu nhiệt độ giảm xuống dưới 16oC. Bằng cách tăng nồng độ muối lên đến 1,4 mol/l, việc loại bỏ các protein đã biến tính và polysacarit được tạo phức với CTAB sẽ xảy ra, lúc đó axit nucleic được hòa tan và dễ dàng thu lại ở bước tủa cuối cùng bằng Isopropanol và ethanol. Như vậy, khi so sánh 3 phương pháp tách chiết ADN thông thường, chỉ có phương pháp tách chiết bằng CTAB theo đúng như TCVN 7606:2007 (ISO 21571:2005) dùng để tách chiết được ADN từ hầu hết các loại chất nền từ các mẫu hạt (hạt đậu tương, hạt ngô), đến các mẫu chứa nhiều hỗn hợp các loại ADN (thức ăn chăn nuôi), đến các sản phẩm chế biến (sữa đậu nành, sữa bột, bim bim, bột đậu, bột ngũ cốc, ngô đóng hộp). Hình 4. Kết quả điện di ADN trên gel agarose 0,8% đối với phương pháp sử dụng bộ kit Wizard ADN clean-up system của Promega Giếng M: marker λ ADN chuẩn nồng độ 200 ng; 1-2: Hạt ngô; 3-4: Hạt đậu tương; 5-6: TACN C20 Con cò; 7-8: TACN554 Higro; 9-10: TACN VH20S; 11-12: Bim bim Ostar; 13-14: Sữa đậu nành Fami; 15-16: Bột đậu xanh Rồng Vàng; 17-18: Sữa bột; 19-20: Ngô đóng hộp; 21-22: Bột ngũ cốc; 23: ĐC (+); 24: ĐC (-)
File đính kèm:
- tham_dinh_mot_so_phuong_phap_tach_chiet_adn_cho_phat_hien_bi.pdf