Sử dụng sơ đồ để phát triển kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học Phổ thông
Học là một trong hai hoạt động cơ bản của quá trình
dạy và học. Tự học (TH) cũng là hình thức tổ chức dạy
học, song TH mang tính độc lập và có quan hệ chặt chẽ
với quá trình dạy học. Phát triển kĩ năng TH cho học sinh
(HS) là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả dạy
học và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Vấn đề này
đã được nhiều nhà giáo dục quan tâm và nghiên cứu
nhằm đề xuất các biện pháp để phát huy năng lực TH [1]
qua một số nghiên cứu cụ thể như: sử dụng phiếu học tập
để phát huy năng lực TH; sử dụng sơ đồ tư duy để bồi
dưỡng năng lực TH; sử dụng sách giáo khoa để phát triển
kĩ năng TH. đều khẳng định vai trò, ý nghĩa của hoạt
động TH của HS trong dạy học và đề xuất các biện pháp
để rèn luyện, phát triển năng lực TH cho người học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng sơ đồ để phát triển kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học Phổ thông
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 25-30 25 SỬ DỤNG SƠ ĐỒ ĐỂ PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chu Thị Mai Hương - Trường Đại học Tây Bắc Ngày nhận bài: 22/02/2018; ngày sửa chữa: 25/02/2018; ngày duyệt đăng: 08/03/2018. Abstract: Self-study is one of the skills that contribute to the learning outcomes of students. Starting from the position of self-learning for students, the paper presents the role of the map in developing self-learning skills for students. Thus, propose processes and measures to use the map in teaching history in high schools to improve the efficiency of the learning activities of students and contribute to improving the quality of teaching subject. Keywords: History teaching methods, self-study skills, maps. 1. Mở đầu Học là một trong hai hoạt động cơ bản của quá trình dạy và học. Tự học (TH) cũng là hình thức tổ chức dạy học, song TH mang tính độc lập và có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học. Phát triển kĩ năng TH cho học sinh (HS) là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả dạy học và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Vấn đề này đã được nhiều nhà giáo dục quan tâm và nghiên cứu nhằm đề xuất các biện pháp để phát huy năng lực TH [1] qua một số nghiên cứu cụ thể như: sử dụng phiếu học tập để phát huy năng lực TH; sử dụng sơ đồ tư duy để bồi dưỡng năng lực TH; sử dụng sách giáo khoa để phát triển kĩ năng TH... đều khẳng định vai trò, ý nghĩa của hoạt động TH của HS trong dạy học và đề xuất các biện pháp để rèn luyện, phát triển năng lực TH cho người học. Tuy nhiên vẫn còn ít các công trình nghiên cứu có hệ thống về việc vận dụng sơ đồ để phát triển kĩ năng TH cho HS trong dạy học Lịch sử (LS). Vì vậy, qua phân tích nghiên cứu hoạt động dạy học của giáo viên (GV), bài viết phân tích, đánh giá vai trò của sơ đồ trong quá trình dạy học bộ môn LS; qua đó, đề xuất biện pháp sử dụng sơ đồ phát triển kĩ năng TH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong quá trình học tập, nâng cao hiệu quả bài học và góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Vai trò của việc sử dụng sơ đồ để phát triển kĩ năng tự học Lịch sử cho học sinh TH LS là một hoạt động được HS tự giác, chủ động, tích cực, độc lập tìm hiểu, nghiên cứu, ôn lại những kiến thức LS đã học và tiếp tục tìm tòi, khám phá những kiến thức LS mà HS chưa biết để đạt mục đích và yêu cầu của việc học tập bộ môn LS. Để TH có hiệu quả, HS cần xác định được nội dung TH, phương pháp TH, phương tiện TH sao cho phù hợp với mục đích cần TH. TH bằng sơ đồ không những đóng vai trò là một công cụ hỗ trợ việc TH là còn giữ vai trò là một phương pháp TH hiệu quả cho HS trong quá trình học tập ở trường phổ thông. TH bằng sơ đồ là cách sử dụng sơ đồ nhằm thực hiện các hoạt động sau: Xác định được nhiệm vụ và mục tiêu học tập. Lập được kế hoạch và thực hiện các phương pháp và thủ thuật học tập biểu hiện việc TH LS ở trên lớp như chú ý nghe giảng để chọn lọc những kiến thức cơ bản để tự ghi chép, trả lời các câu hỏi của GV và các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa, tự phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề. Các hình thức của việc TH ở nhà biểu hiện như: tự làm việc với các tài liệu học tập, tự đọc và ghi chép tóm tắt lại những nội dung cơ bản của bài học mới trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, tự trả lời các câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa. Tự đánh giá và điều chỉnh việc học, tự kiểm tra, đánh giá những nội dung kiến thức đã học, tìm kiếm sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến từ người khác, tự điều chỉnh phương pháp học để cải thiện kết quả học tập. Như vậy, TH bằng sơ đồ là thao tác tư duy để xác định nhiệm vụ, mục tiêu học tập, lập kế hoạch học tập, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu, lựa chọn, phân tích, nghiên cứu tài liệu học tập, ghi chép tóm tắt tài liệu đã đọc, xác định vấn đề và tìm ra bản chất của vấn đề... Việc rèn luyện kĩ năng TH qua sơ đồ góp phần tích cực vào đổi mới phương pháp dạy học LS ở trường phổ thông, TH bằng sơ đồ hóa giúp HS dễ nắm bắt và hiểu được bản chất của kiến thức LS trong bài học và trong chương trình môn LS. Vận dụng các thao tác tư duy trong việc so sánh, đối chiếu kiến thức cơ bản để đưa ra đánh giá, nhận xét. Hệ thống hóa được các trả lời cho các câu hỏi, bài tập. Trình bày kiến thức đã thu được một cách trình tự, logic. Phát huy tính tích cực chủ động tham gia học tập của HS, tạo cơ hội cho HS khám phá, sáng tạo trong quá trình thiết kế và sử dụng sơ đồ, tạo hứng thú cho HS trong quá trình học tập. 2.2. Quy trình sử dụng sơ đồ để phát triển kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học Lịch sử VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 25-30 26 Quy trình này được thực hiện qua các bước sau (xem hình 1). Như vậy, quy trình sử dụng sơ đồ theo các bước trên để phát triển kĩ năng TH trong dạy học LS không chỉ giúp HS xác định được mức độ đạt được của kĩ năng TH mà còn giúp các em xác định con đường để hình thành kĩ năng này để giải quyết các nhiệm vụ học tập. 2.3. Biện pháp sử dụng sơ đồ để phát triển kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông 2.3.1. Sử dụng sơ đồ để tự lập kế hoạch học tập Kế hoạch là tập hợp những thao tác, hành động, công việc cụ thể được sắp xếp theo trình tự nhất định nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Việc lập kế hoạch có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn nói chung và trong hoạt động học tập nói riêng. Kế hoạch học tập được hiểu là hoạt động sắp xếp có trình tự những công việc có liên quan đến hoạt động học tập nhằm đem lại kết quả cao nhất trong học tập của HS. Việc sử dụng sơ đồ để lập kế hoạch học tập sẽ hỗ trợ tối đa hiệu quả các bước trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch: Thứ nhất, sơ đồ được dùng để xác định mục tiêu học tập một cách rõ ràng; thứ hai, sơ đồ được dùng để chia nhỏ những công việc cụ thể và đề ra các biện pháp để đạt được mục tiêu đã đề ra trong kế hoạch; thứ ba, sơ đồ dùng để xây dựng bản kế hoạch đầy đủ, hoàn chỉnh giúp cho người thực hiện kế hoạch biết được các công việc, tiến trình thời gian, kết quả đạt được từ đó thuận lợi cho việc đánh giá kế hoạch có đạt được mục tiêu hay đạt được ở mức độ như thế nào? Ví dụ: sau khi dạy xong nội dung “Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam từ 1945 đến 1954” (LS 12), GV vận dụng kĩ thuật dạy học dự án để tổ chức HS TH theo nội dung sau: “Bằng những bức ảnh LS, em hãy xây dựng câu chuyện được ghi lại trong kí ức của nhân vật từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam từ 1945 đến 1954”. GV sử dụng VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 25-30 27 sơ đồ để giới thiệu nhiệm vụ, quy trình nhằm giúp HS lập kế hoạch khi thực hiện dự án (xem hình 2 trang trước). Việc sử dụng sơ đồ để lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ học tập sẽ giúp HS sắp xếp nội dung công việc một cách trình tự, đồng thời thấy được nội dung cụ thể của từng hoạt động trong kế hoạch đó và mức độ đạt được của mỗi công việc trong từng giai đoạn. Từ đó, có thể điều chỉnh nội dung kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ học tập mà GV đã giao cho. 2.3.2. Tự làm việc với sách giáo khoa Sử dụng sơ đồ để tự làm việc với sách giáo khoa được thể hiện bằng những thao tác cụ thể như: đọc hiểu nội dung từng mục của mỗi bài học trong sách giáo khoa để tìm ra những ý chính, nội dung kiến thức cơ bản, những ý cụ thể hóa cho những ý chính, sắp xếp các ý đã đọc theo hệ thống cấu trúc của bài học, xác định mối quan hệ giữ các nội dung kiến thức đó. Việc sử dụng sơ đồ để khái quát các nội dung kiến thức cơ bản đã đọc sẽ giúp HS xác định được kiến thức cơ bản nhất của bài học, biết được những nội dung kiến thức nào khó, chưa hiểu để tìm hiểu, nghiên cứu hay trao đổi, thắc mắc với bạn hoặc với GV. Đồng thời, thông qua việc đọc hiểu và ghi chép lại những nội dung kiến thức cơ bản của bài học trong sách giáo khoa còn giúp rèn luyện năng lực tư duy, khái quát, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu... và kĩ năng ghi nhớ nhanh, hiệu quả. Từ đó, HS có hứng thú hơn trong quá trình TH và tự nghiên cứu của bản thân. Ví dụ, để chuẩn bị học Bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 02/09/1945 đến ngày 19/12/1946” (LS 12), GV tổ chức, hướng dẫn HS TH trước nội dung kiến thức trong bài dưới dạng sơ đồ kiến thức sau (hình 3): Việc sử dụng sách giáo khoa để hoàn thành hệ thống các câu hỏi theo sự hướng dẫn của GV trước khi học bài mới dưới dạng sơ đồ giúp HS dễ dàng bổ sung, thêm bớt nội dung các câu trả lời tương ứng với câu hỏi. Đồng thời, HS dễ dàng quan sát được những câu đã trả lời được và những câu chưa trả lời để khi học bài trên lớp HS trao đổi, thắc mắc với GV trong quá trình học. Như vậy, việc sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa những nội dung đã đọc và ghi chép lại những nội dung đó giúp HS dễ dàng nắm trước được cấu trúc của bài học, biết được những nội dung kiến thức cơ bản, xác định được nhiệm vụ trong quá trình học tập. 2.3.3. Tự làm việc với tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học LS ở trường phổ thông, giúp HS cụ thể hóa, minh họa những nội dung kiến thức có trong sách giáo khoa. Các thao tác của việc tự làm việc với tài liệu tham khảo như: đọc các sách chuyên khảo có liên quan đến nội dung bài học hay vấn đề đang nghiên cứu; xem các phim tư liệu, các tranh ảnh LS, các lược đồ, sơ đồ... Tuy nhiên, để quá trình tự làm việc với tài liệu tham khảo có hiệu quả, HS cần phải ghi chép khoa học các nội dung đã đọc, xem trong tài liệu đó. HS nên sử dụng sơ đồ để ghi chép sao cho ngắn gọn, khoa học, đầy đủ, chính xác. Ví dụ khi dạy Bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954)” (LS 12), trước khi tìm hiểu chiến dịch LS Điện Biên Phủ (1954), GV yêu cầu HS về nhà đọc và sưu tầm tài liệu tham khảo để tìm hiểu những nội dung kiến thức có liên quan đến bài học như: Sưu tầm những thư, lệnh, điều động trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các công tác tư tưởng - văn hóa trong thời gian diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, những thành tích chiến đấu của quân và dân ta trong Đông Xuân 1953-1954, những nhận xét đánh giá của người Pháp về Điện Biên Phủ... Mỗi nội dung đã đọc hoặc sưu tầm GV yêu cầu HS tóm tắt nội dung dưới dạng sơ đồ kiến thức, trong quá trình học bài trên lớp GV cho HS tự trình bày những nội dung đã chuẩn bị ở nhà. 2.3.4. Tự nghe giảng và tự ghi chép Nghe giảng và ghi chép là kĩ năng không thể thiếu ở HS trong quá trình học tập. Để việc VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 25-30 28 nghe và ghi chép có hiệu quả, HS cần xác định phương pháp và phương tiện sao cho ghi nhanh, ghi đúng, ghi đủ nội dung kiến thức mà vẫn không ảnh hưởng đến việc nghe giảng. Việc ghi chép bằng sơ đồ được thực hiện qua các bước: - Xác định nội dung chính để ghi khi nghe giảng; - Đối chiếu những kiến thức trong bài giảng với nội dung kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa; - Sắp xếp những nội dung đó theo trình tự cấu trúc của bài học; - Lựa chọn các kí hiệu, từ khóa và mã hóa chúng trên sơ đồ kiến thức để ghi theo ý hiểu của bản thân; - Đánh dấu những phần kiến thức chưa nghe rõ hoặc chưa hiểu bằng những câu hỏi cụ thể; Đánh dấu những phần kiến thức có thể mở rộng; - Phân tích và kiểm tra lại mối quan hệ giữa các nội dung kiến thức được thể hiện trên sơ đồ; - Đọc lại toàn bộ nội dung kiến thức đã xây dựng một cách hệ thống trên sơ đồ. Ví dụ: sau khi dạy xong Bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925” (LS 12), GV sử dụng sơ đồ để đưa ra hệ thống câu hỏi nhằm củng cố lại nội dung, kiến thức cơ bản của bài học rồi yêu cầu HS nhớ lại những kiến thức đã học trong bài học. Từ các câu trả lời của HS, GV nhận xét và tóm tắt lại câu trả lời dưới dạng sơ đồ kiến thức và ghi lại trên bảng. Yêu cầu HS vẽ lại sơ đồ vào vở để về nhà học bài cũ theo sơ đồ (hình 4). Để làm tốt hoạt động nghe và ghi, HS cần thực hiện các thao tác sau: Tập trung, chú ý, kiên nhẫn lắng nghe bài giảng; lựa chọn phương tiện để ghi chép; nội dung ghi chép phải chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu. Như vậy, việc sử dụng sơ đồ để ghi chép giúp sắp xếp các thông tin có thứ tự và hệ thống, giúp việc ghi nhớ nhanh hơn và lâu hơn. Các kí hiệu, hình ảnh, biểu tượng trên sơ đồ sẽ giúp người học lưu giữ thông tin một cách ngắn gọn, khoa học, dễ nhớ. Cách trình bày nội dung TH bằng sơ đồ hóa giúp người học có cách nhìn bao quát và thấy được mối liên hệ, quan hệ giữa các nội dung quan trọng của một vấn đề, một sự kiện, hiện tượng hay một quá trình LS mà HS đang nghiên cứu; có thể đánh dấu những nội dung kiến thức chưa hiểu để hỏi hoặc nghiên cứu lại. 2.3.5. Tự giải quyết vấn đề Tự mình tìm cách giải quyết vấn đề là một năng lực quan trọng, cần thiết trong quá trình học tập của HS. Việc tự giải quyết vấn đề của HS trong học tập được thể hiện qua các hoạt động như: thắc mắc, đưa ra những ý kiến của bản thân, trao đổi, hỏi ý kiến bạn bè, GV... Từ đó, HS tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề thông qua quá trình tự đọc tự ghi chép nội dung bài giảng, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo. Việc sử dụng sơ đồ để phát hiện và giải quyết vấn đề được thực hiện qua các thao tác như: tự xác định vấn đề, xác định mục tiêu; làm rõ các nguyên nhân dẫn đến vấn đề; đề xuất phương án, lựa chọn biện pháp giải quyết; tiến hành giải quyết vấn đề; tự kiểm tra và đánh giá vấn đề đã giải quyết; báo cáo kết quả đạt được. Ví dụ: Khi dạy xong Chương II “Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945” (LS 12), GV tổ chức ôn lại kiến thức đã học và cho HS quan sát sơ đồ sau (xem hình 5 trang bên). Bước 1: Sử dụng sơ đồ hóa để xác định vấn đề cần giải quyết Qua sơ đồ trên, GV đưa ra câu hỏi để yêu cầu HS xác định vấn đề dân tộc được thực hiện qua mỗi thời kì LS. GV đặt câu hỏi: “Quan sát sơ đồ, em hãy trình bày nhiệm vụ cách mạng của Việt Nam qua mỗi thời kì. Em có nhận xét gì về nhiệm vụ Cách mạng của từng thời kì? Từ đó, xác định nhiệm vụ nào được coi là nhiệm vụ quan trọng và cần giải quyết qua các thời kì đó?”. Qua quan sát sơ đồ và vận dụng những kiến thức đã học, HS tìm câu trả lời để hoàn thành các câu hỏi của GV. Việc xác định vấn đề cần giải quyết là cơ sở để GV tiếp tục tổ chức, hướng dẫn HS xác định mục tiêu và nội dung vấn đề cần giải quyết qua mỗi thời kì cách mạng của dân tộc. GV tiếp tục đưa ra các câu hỏi định hướng để HS giải quyết VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 25-30 29 nhiệm vụ học tập. GV tổ chức cho HS làm việc theo nhóm để giải quyết từng vấn đề mà GV định hướng. Bước 2: Phân tích các nguyên nhân dẫn đến vấn đề cần giải quyết Để hoàn thành câu hỏi “Những yếu tố nào tác động đến việc giải quyết vấn đề dân tộc”, GV tổ chức HS xác định những yếu tố có ảnh hưởng đến vẫn đề cần giải quyết bằng những câu hỏi gợi ý: “Những quan điểm cơ bản của Quốc tế cộng sản, của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc ở các nước thuộc địa được thể hiện như thế nào?”, “Thực tiễn cách mạng Việt Nam qua các thời kì từ 1930-1945?”. Tương tự, với những nội dung khác, HS lần lượt tìm kiếm câu trả lời để hoàn thành những câu hỏi gợi ý của GV. Bước 3: Đề xuất và lựa chọn biện pháp để giải quyết vấn đề Sau khi xác định những nguyên nhân dẫn đến vấn đề, GV cho HS giải quyết từng vấn đề qua hình thức học tập thảo luận nhóm (hình 6). Tiếp đến, từng nhóm làm việc độc lập với nhau. Các thành viên trong nhóm tiến hành giao nhiệm vụ cho từng thành viên và đóng góp ý kiến để giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm. Sơ đồ được sử dụng để giao nhiệm vụ cho từng thành viên và ghi lại những ý kiến đóng góp của các thành viên trong quá trình giải quyết vấn đề (xem hình 7 trang bên). Việc sử dụng sơ đồ để phân nhóm, giao nhiệm vụ học tập, tập hợp ý kiến, đề xuất, lựa chọn các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề sẽ huy động được nhiều ý kiến nối tiếp nhau và cơ hội để đưa ra ý kiến của mỗi thành viên là ngang nhau. Đồng thời, qua sơ đồ, HS nhanh chóng xác định được những ý kiến trùng nhau hoặc ý kiến chưa đúng hoặc chưa chính xác cần loại bỏ để cùng thống nhất và lựa chọn được ý kiến đúng nhất cho việc giải quyết vấn đề. Quan trọng hơn việc sử dụng sơ đồ để ghi lại các ý kiến của các thành viên còn cho thấy mức độ tích cực trong việc đóng góp ý tưởng của mỗi thành viên. Bước 4: Thực hiện đánh giá, báo cáo kết quả quá trình giải quyết vấn đề Ở bước này, các thành viên trong nhóm tự đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ học tập để thống nhất ý kiến nhằm đưa ra kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết vấn đề. Sau đó, các nhóm sử dụng sơ đồ tư duy để sắp xếp nội dung cần báo cáo theo hệ thống. Ví dụ, nhóm 2 sử dụng sơ đồ tư duy để báo cáo nội dung “Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn đề giương cao ngọn cờ dân tộc” được cụ thể như ở hình 8 (trang bên). Như vậy, việc sử dụng sơ đồ để tổ chức HS giải quyết vấn đề giúp GV có thể giám sát toàn bộ quá trình giải quyết vấn đề của từng HS cũng như kiểm tra, đánh giá được kết quả, mức độ đạt được của mỗi em trong quá trình giải quyết vấn đề theo yêu cầu và mục tiêu đưa ra. Phong trào cách mạng Phong trào dân chủ Phong trào giải phóng dân tộc, Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng 8 Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời 1930-1935 1936-1939 1939-1945 02/09/1945 VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 25-30 30 3. Kết luận Như vậy, việc sử dụng sơ đồ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện kĩ năng TH nói chung và ở môn LS nói riêng cho HS nhằm góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo hướng tiếp cận năng lực HS. Tuy nhiên, để phát triển kĩ năng TH, GV cần hình thành cho HS có kĩ năng thiết kế và sử dụng thành thạo các loại sơ đồ trong học tập và nên thường xuyên sử dụng phương pháp này trong dạy học. Mặt khác, để phát huy tối ưu hiệu quả của phương pháp, đòi hỏi GV phải nắm rõ quy trình, biện pháp sử dụng sơ đồ sao cho phù hợp với các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình dạy học LS ở trường THPT. Tài liệu tham khảo [1] Phạm Xuân Vũ (2015). Một số biện pháp phát huy năng lực tự học của sinh viên ngành Sư phạm Lịch sử. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Đồng Tháp, số 14, tr 8-11. [2] Nguyễn Thế Bình (2012). Phát triển kĩ năng tự học với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số 292, tr 34-37. [3] Nguyễn Cảnh Toàn - Lê Hải Yến (2011). Xã hội học tập, học tập suốt đời và các kĩ năng tự học. NXB Dân trí. [4] Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên, 1997) - Nguyễn Kỳ - Vũ Văn Tảo - Bùi Tường. Quá trình Dạy - Tự học. NXB Giáo dục. [5] Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học (1998). Tự học, tự đào tạo - Tư tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam. NXB Giáo dục. [6] Nguyễn Thị Côi (chủ biên, 2009). Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử. NXB Đại học Sư phạm. [7] Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên, 2012). Lịch sử 12. NXB Giáo dục Việt Nam. Nhóm trưởng Bạn A .................... .................... .................... .................... Bạn B .................... .................... .................... .................... Bạn C .................... .................... .................... .................... Bạn D .................... .................... ...................... ...................... Thư kí
File đính kèm:
- su_dung_so_do_de_phat_trien_ki_nang_tu_hoc_cho_hoc_sinh_tron.pdf