Sinh viên đánh giá giảng viên: Liệu có trái với thuần phong mỹ tục Việt?
Trên thế giới, hoạt động đánh giá giảng viên của sinh viên đã trở thành công cụ quen thuộc
trong công tác bồi dưỡng chuyên môn và đánh giá chất lượng giảng dạy. Các trường đại học ở Việt Nam
cũng đã bắt đầu tiến hành hoạt động tương tự trong thập niên vừa qua. Tuy nhiên, công tác này ở Việt Nam
gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là những khó khăn trong quan niệm về văn hóa và suy nghĩ truyền thống: trò
không được nhận xét, đánh giá thầy. Dựa trên kết quả một nghiên cứu định lượng, bài viết này phản ánh sự
thay đổi quan niệm của giảng viên ở một trường đại học đối với hoạt động vẫn được coi là trái với truyền
thống tôn sư trọng đạo này. Kết quả nghiên cứu cho thấy những phản ứng tiêu cực của giảng viên gần như
đã không còn sau khi hoạt động lấy ý kiến phản hồi được ‘làm mới’ dựa trên những nhận xét, đánh giá
và nhu cầu của giảng viên, cũng như dựa trên điều kiện giảng dạy thực tế và đặc điểm văn hóa Nho giáo.
Nghiên cứu chứng tỏ rằng khi những yếu tố này được quan tâm thấu đáo, việc sinh viên nhận xét, đánh giá
hoạt động giảng dạy của giảng viên sẽ không còn bị coi là một hoạt động trái với thuần phong mỹ tục Việt.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sinh viên đánh giá giảng viên: Liệu có trái với thuần phong mỹ tục Việt?
SINH VIÊN ĐÁNH GIÁ GIẢNG VIÊN: LIỆU CÓ TRÁI VỚI THUẦN PHONG MỸ TỤC VIỆT? Trần Thị Tuyết* Đại học RMIT, 124 La Trobe Street, Melbourne VIC 3000 Nhận bài ngày 29 tháng 10 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 26 tháng 11 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 11 năm 2018 Tóm tắt: Trên thế giới, hoạt động đánh giá giảng viên của sinh viên đã trở thành công cụ quen thuộc trong công tác bồi dưỡng chuyên môn và đánh giá chất lượng giảng dạy. Các trường đại học ở Việt Nam cũng đã bắt đầu tiến hành hoạt động tương tự trong thập niên vừa qua. Tuy nhiên, công tác này ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là những khó khăn trong quan niệm về văn hóa và suy nghĩ truyền thống: trò không được nhận xét, đánh giá thầy. Dựa trên kết quả một nghiên cứu định lượng, bài viết này phản ánh sự thay đổi quan niệm của giảng viên ở một trường đại học đối với hoạt động vẫn được coi là trái với truyền thống tôn sư trọng đạo này. Kết quả nghiên cứu cho thấy những phản ứng tiêu cực của giảng viên gần như đã không còn sau khi hoạt động lấy ý kiến phản hồi được ‘làm mới’ dựa trên những nhận xét, đánh giá và nhu cầu của giảng viên, cũng như dựa trên điều kiện giảng dạy thực tế và đặc điểm văn hóa Nho giáo. Nghiên cứu chứng tỏ rằng khi những yếu tố này được quan tâm thấu đáo, việc sinh viên nhận xét, đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên sẽ không còn bị coi là một hoạt động trái với thuần phong mỹ tục Việt. Từ khóa: sinh viên đánh giá giảng viên, thuần phong mỹ tục, Việt Nam, bồi dưỡng chuyên môn, đảm bảo chất lượng. 1. Đặt vấn đề1 Sinh viên đánh giá giảng viên/giáo viên (students’ evaluation of teachers) (SET) đã trở thành một trong những công cụ phổ biến nhất trong công tác tăng cường trách nhiệm giải trình (accountability) của các trường đại học trên toàn cầu (Witte & Rogge, 2011; Zabaleta, 2007). Với loại hình đánh giá này, người học được phép đưa ra ý kiến và đánh giá của mình đối với các hoạt động giảng dạy của người thầy. Đây cũng là loại hình phổ biến nhất được dùng để đánh giá chất lượng và hiệu quả giảng dạy của giảng viên/giáo viên (GV) các trường đại học trên thế giới. Mặc dù đã trở nên phổ biến và được thực hiện rộng rãi, SET vẫn là một chủ đề gây tranh cãi trong giới học thuật. Một mặt, SET được * Email: june.tran@rmit.edu.au coi là một phương tiện hữu hiệu giúp người thầy nhìn nhận lại hoạt động giảng dạy của mình và có những điều chỉnh hợp lý để nâng cao chất lượng giảng dạy cá nhân. Mặt khác, các chỉ số định lượng của SET thường được coi là công cụ của cơ quan quản lý dùng để áp các yêu cầu về đảm bảo chất lượng giảng dạy. Các chỉ số này thường dưới dạng qui ra điểm số và có thể dùng để phân thứ bậc chất lượng giảng dạy của người thầy. Vì vậy, có quá nhiều câu hỏi về các vấn đề như độ tin cậy (reliability) hay tính xác thực (validity) của các bảng hỏi cũng như của các đánh giá từ phía người học. Sự khó ăn nhập của hai mục đích: cung cấp kênh thông tin phản hồi hiệu quả và công cụ áp các chỉ số đảm bảo chất lượng khiến SET luôn là một chủ đề gây tranh cãi ở bất kỳ môi trường giáo dục nào. NGHIÊN CỨU 2 T.T. Tuyết/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 Ở Việt Nam, dưới áp lực của quá trình xã hội hóa giáo dục và yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các trường đại học đối với hoạt động giảng dạy và đào tạo của mình, SET đã trở thành một trong những yêu cầu bắt buộc từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với hoạt động giảng dạy của giảng viên đại học trong 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, ở Việt Nam, SET không chỉ bị chỉ trích là công cụ áp đặt các chỉ số kiểm định của các nhà quản lý đối với hoạt động giảng dạy của giảng viên, nó còn bị coi là hành động trái với thuần phong mỹ tục Việt. Ở một nước có nền văn hóa thứ bậc và truyền thống “tôn sư trọng đạo” (nhất tự vi sư, bán tự vi sư) như ở Việt Nam, việc con cái phải nghe lời cha mẹ, học trò tuân thủ sự sắp đặt và dạy dỗ của người thầy đã trở thành những chuẩn mực văn hóa được ngợi ca. Việc cho phép người trò có những ý kiến trái chiều, nhận xét về hoạt động giảng dạy của người thầy vấp phải nhiều phản ứng là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, việc SET được tiến hành dè dặt và mang nặng tính hình thức ở nhiều trường đại học trong những năm gần đây là điều không khó hiểu. Tuy nhiên, bài viết này hy vọng sẽ mang tới một thông điệp mới. Bài viết dựa vào kết quả một nghiên cứu định lượng nhằm phản ánh ý kiến và nhìn nhận của chính người thầy ở Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHNN) sau sáu năm nhận các phiếu ý kiến phản hồi của sinh viên về hoạt động giảng dạy của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy SET vẫn có thể là một công cụ hữu hiệu trong việc cung cấp thông tin phản hồi cho chính người thầy Việt, và nếu được tiến hành khéo léo, có cân nhắc tới các yếu tố văn hóa, SET sẽ được chấp nhận rộng rãi bởi chính người thầy. Trước khi đề cập tới phương pháp và kết quả nghiên cứu, bài viết sẽ bàn tới các vấn đề về tầm quan trọng của SET trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và các điều kiện để SET được tiến hành hiệu quả. Các điều kiện này cũng là các điều kiện được cân nhắc để điều chỉnh việc tiến hành SET trong điều kiện thực hiện cụ thể ở ĐHNN, giúp nâng cao tính phù hợp, thiết thực, và hiệu quả cũng như làm giảm ác cảm của người thầy đối với hoạt động trái chiều này. 2. Tầm quan trọng của SET trong việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng GV và phương pháp sư phạm của họ là những yếu tố đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng và kết quả học tập của người học (Creemers & Kyriakides, 2008; Hattie, 2009; Papay, 2012; Reynolds et al., 2002; Scheerens et al., 2007). Vì vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong nhà trường phụ thuộc rất lớn vào trình độ và kỹ năng giảng dạy của GV. Nói một cách khác, muốn nâng cao chất lượng giảng dạy, một trong những điều tiên quyết là phải đảm bảo người dạy là người có kỹ năng nghề nghiệp tốt, được hỗ trợ tối đa các điều kiện nghiên cứu và giảng dạy và có động lực nội tại mong muốn được dạy với tất cả kỹ năng và tâm huyết của mình (Hameed et al., 2015). Nâng cao chất lượng giảng dạy được coi như một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng học tập của sinh viên. Trong bài viết này, đánh giá GV (SET) được coi là một trong những công cụ dùng để nâng cao chất lượng đào tạo, bằng việc cung cấp thông tin phản hồi cho cả GV và các nhà quản lý và đưa ra những kỳ vọng từ phía người học. Từ đó, SET góp phần kiến tạo một nền giáo dục lấy người học làm trung tâm. SET có thể dùng để thực hiện nhiều mục đích khác nhau như: đưa ra các quyết định về nhân sự, lương, thưởng, cung cấp thông tin phản hồi cho GV để điều chỉnh hoạt động giảng dạy theo hướng vị sinh viên, phát huy những điểm mạnh, phù hợp và điều chỉnh những điểm còn hạn chế, giúp đưa ra các quyết định điều chỉnh các nguồn lực giúp nâng cao chất lượng đào 3Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 tạo, hay cụ thể hóa các yêu cầu về chất lượng giảng dạy (Hallinger et al., 2014; Harvey 2003; Kember et al., 2002). Bài viết này đề cập tới hai mục đích lớn nhất của SET, đó là: SET cung cấp thông tin phản hồi cho GV, giúp họ điều chỉnh, nâng cao chất lượng giảng dạy: Một trong những mục đích lớn nhất của việc lấy phản hồi từ người học là để giúp nâng cao chất lượng giảng dạy (Marsh et al., 1993; Reid, 2010). GV, thông qua những phản hồi của sinh viên, tự định vị mình trong môi trường giảng dạy của tổ, của khoa, nhận ra những điểm mạnh và điểm hạn chế của mình trong việc đáp ứng nguyện vọng của sinh viên, từ đó, họ có thể định hình và điều chỉnh hoạt động giảng dạy để dần tiệm cận với nhu cầu học tập của trò. Chính vì vậy, SET thường được coi là công cụ giúp GV tự nhìn nhận lại hoạt động giảng dạy của mình (self reflection) (Winchester & Winchester, 2011). Đây là yếu tố có tính quyết định rất lớn liên quan tới tính chủ động và sự tự nguyện mong muốn thay đổi để hoàn thiện hơn của mỗi GV. SET không những được coi là công cụ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy, nó còn hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho GV (teacher professional development), như Ramsden (2003: 209) đã nhấn mạnh: SET giúp chúng ta hiểu được hiệu quả của hoạt động giảng dạy của chúng ta đối với việc học tập của sinh viên. Nó bao hàm những thông tin tổng hợp về công việc, diễn giải thông tin và đưa ra những nhận định về các hành động chúng ta nên tiến hành để nâng cao chất lượng giảng dạy. (Evaluation is a way of understanding the effects of our teaching on students’ learning. It implies collecting information about our work, interpreting the information and making judgements about which actions we should take to improve practice.) SET được sử dụng như một công cụ đánh giá ngoài nhằm đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên: Những năm gần đây SET được sử dụng ngày càng rộng rãi như một công cụ đánh giá ngoài cho trách nhiệm giải trình của các trường đại học trong bối cảnh nhấn mạnh chất lượng đầu ra của sinh viên (Murphy et al., 2013). Phương pháp sư phạm của thầy cũng như những kiến thức thầy truyền tải cho trò được coi là những yếu tố liên quan trực tiếp tới chất lượng đầu ra của sinh viên. Vì vậy, SET được coi như công cụ của nhà quản lý, nhằm đánh giá chất lượng giảng dạy của GV theo những tiêu chuẩn họ đặt ra (Gunter et al., 2016). Ở đó, tiếng nói của GV không lớn và những thông tin về họ được các nhà quản lý thu thập để buộc họ có trách nhiệm hơn với việc dạy của mình. Ở một số nước như Mỹ, Úc và Anh, kết quả của SET còn được sử dụng để khen thưởng những GV được sinh viên đánh giá cao, và sa thải những GV không đạt chuẩn theo những yêu cầu của nhà quản lý đặt ra (Papay, 2012). SET là công cụ giúp GV nâng cao chất lượng giảng dạy nhưng cũng là công cụ kiểm soát họ và lấy đi ít nhiều quyền tự chủ trong giảng dạy của chính họ. Đây là hai mục đích không dễ dung hòa trong một bảng điều tra. Chính vì vậy, để nâng cao tính thiết thực, hiệu quả cũng như dung hòa được các mục đích tưởng như đối lập này, việc xây dựng bảng hỏi điều tra ý kiến phản hồi của sinh viên cần đáp ứng những yêu cầu cụ thể. Các yêu cầu này sẽ được bàn tới ở phần sau. 3. Điều kiện để SET được thực hiện hiệu quả 3.1. SET phải được thiết kế để có thể cung cấp thông tin đa dạng cho GV SET có thể được thu thập theo nhiều cách khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là việc thu thập ý kiến của sinh viên thông qua các bảng hỏi. Các câu hỏi thường đa chiều xoay quanh các vấn đề mà sinh viên đã được trải nghiệm 4 T.T. Tuyết/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 trong việc học với GV của mình như: kiến thức, kỹ năng của GV, việc chuẩn bị bài giảng, nội dung giảng, cách dạy, cách giao tiếp với trò, hay cách sử dụng các phương tiện hỗ trợ Các thông tin này được hỏi nhằm “provide a broad picture of students’ experiences of learning, and therefore inform teachers about the effectiveness and quality of both teaching and learning” (Stein et al., 2012: 2) (Cung cấp một bức tranh bao quát về trải nghiệm trong học tập của sinh viên, và vì vậy giúp GV nhìn nhận được chất lượng và hiệu quả của cả quá trình dạy và học). SET được kỳ vọng giúp GV nhìn nhận lại hoạt động giảng dạy của mình cũng như những tương tác giữa mình và sinh viên, biết được những điểm mạnh, điểm yếu và tìm hướng để khắc phục và hoàn thiện. Để có thể làm được điều đó, SET cần cung cấp thông tin đa dạng cho GV. Ngoài các câu hỏi được lượng hóa theo thang điểm Likert, cần có các câu hỏi mở, tăng tính giao tiếp và tương tác. Chính các câu hỏi mở sẽ giúp GV hiểu kỹ hơn cách nhìn nhận của sinh viên về hoạt động giảng dạy của họ. Càng nhiều thông tin được cung cấp từ các câu hỏi mở, càng nhiều gợi ý từ sinh viên, SET càng giúp GV biết hướng thay đổi và hoàn thiện hơn (Penny, 2004). 3.2. SET cần phản ánh tiếng nói của GV SET thường được thiết kế bởi các nhà quản lý giáo dục. Tuy nhiên, để SET thực sự trở thành công cụ giúp GV nhìn nhận lại hoạt động giảng dạy của mình, thay đổi và hoàn thiện, việc xây dựng bảng hỏi và thu thập dữ liệu SET cần có tiếng nói của GV để có thể đưa vào các nội dung phục vụ nhu cầu hoàn thiện và tự hoàn thiện của GV. Các bảng hỏi SET có đề cập tới nhu cầu của GV trong việc trưng dụng các phản hồi của sinh viên đều tạo động lực giúp thay đổi và nâng cao chất lượng giảng dạy. Thực tế cho thấy những phản hồi đề cập tới những vấn đề dạy – học cụ thể thường dẫn tới những sự thay đổi cụ thể theo hướng tốt đẹp hơn (Marsh & Roche, 1993), và GV đón nhận các ý kiến phản hồi mang tính chất xây dựng từ phía sinh viên dễ dàng hơn cho dù các ý kiến đó có thể đi ngược lại với cách nghĩ trước đây của họ (Burden, 2010). Ngược lại, nếu tiếng nói của GV không được đề cập tới và SET chỉ bao gồm những câu hỏi mang tính quản lý hoặc những câu hỏi mà GV ít quan tâm tới, giá trị hỗ trợ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy của SET sẽ rất hạn chế (Stronge & Tucker, 1999). 3.3. Các phương tiện trợ giúp hỗ trợ GV trong việc sử dụng kết quả của SET để nâng cao chất lượng giảng dạy cần được tăng cường Nhiều nghiên cứu cho thấy rất nhiều GV không sử dụng SET để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của họ dù họ cho rằng các kết quả mà SET đem lại là hữu ích (Beran et al., 2005; Spencer, 1992; Yao & Grandy, 2005). Việc sử dụng kết quả của SET để cải thiện chất lượng giảng dạy của từng giảo viên phụ thuộc vào cả các yếu tố khách quan như yêu cầu, đòi hỏi cũng như sự hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý và các yếu tố chủ quan như trình độ và kinh nghiệm giảng dạy của từng GV, quan niệm của họ về quá trình dạy học và về các ý kiến phản hồi của sinh viên và thái độ nghề nghiệp của họ (Yao & Grandy, 2005). Chính vì có nhiều yếu tố tác động như vậy nên để SET thực sự trở thành công cụ nâng cao chất lượng giảng dạy, các hình thức tư vấn hỗ trợ định hướng thay đổi và các phương tiện hỗ trợ, giám sát sự thay đổi cần phải được xây dựng và thực thi (Cashin, 1995; Nguyen, 2016). 3.4. Cần đảm bảo độ xác thực và tính tin cậy của kết quả bảng hỏi SET Độ xác thực (validity) và tính tin cậy (reliability) là hai thuộc tính quan trọng của bất kỳ một thang đánh giá nào. Độ xác thực của thang đo thể hiện ở chỗ nó đo được những gì cần đo, cụ thể với SET, GV tốt sẽ được 5Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 đánh giá cao và GV không tốt sẽ được sinh viên đánh giá thấp. Tính tin cậy của thang đo SET thể hiện ở tính đồng bộ trong kết quả đo được cho mỗi GV ở các thời điểm khác nhau và các đối tượng sinh viên khác nhau. Nhìn chung, các nghiên cứu thường chỉ ra rằng các ý kiến phản hồi của sinh viên về hoạt động giảng dạy của GV thường có tính tin cậy và độ xác thực cao, ít chứa đựng thành kiến cá nhân (Greenwald & Gillmore, 1997). 3.5. Việc thiết kế nội dung bảng hỏi SET phải phù hợp với đặc điểm văn hóa và điều kiện môi trường, quan niệm của G ... số lượng các câu hỏi được đề cập hợp lý (không quá dài và không quá ngắn) 0 5 23 38 28 3,95 5 3. Những đánh giá của sinh viên về hoạt động giảng dạy của thầy cô là hợp lý 1 3 23 45 22 3,89 8 4. Sinh viên nêu được các điểm mạnh các điểm yếu của thầy cô trong giảng dạy 1 7 29 42 15 3,67 10 5. Các nhận xét về hoạt động giảng dạy của thấy cô có tính khách quan 1 4 28 44 17 3,77 9 6. Tương quan điểm số nhận xét của thầy cô trong phạm vi đơn vị là hợp lý 0 1 18 53 22 4,02 2 7. Các nhận xét của sinh viên giúp thầy cô xác định được các điểm cần khắc phục để nâng cao chất lượng giảng dạy 1 3 22 45 23 3,91 7 8. Sinh viên đã có được những gợi ý về những cách để nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động giảng dạy của thầy cô 2 4 21 39 28 3,93 6 9. Việc nhận các phiếu phản hồi giúp thầy cô chiêm nghiệm lại hoạt động giảng dạy của mình 1 3 24 34 32 3,99 3 10. Thầy cô đã dùng các nhận xét đó để giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy của mình 4 14 28 33 15 3,44 11 11. Phiếu phản hồi ý kiến của sinh viên về hoạt động giảng dạy của GV không gây phản cảm (không đi ngược lại các giá trị văn hóa truyền thống về tôn sư trọng đạo ở Việt Nam) 0 1 10 25 58 4,49 1 10 T.T. Tuyết/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 Đúng như nhận định ban đầu, nhìn chung, số GV có tuổi nghề ít hơn thường có đánh giá rộng rãi hơn GV lâu năm về độ phản cảm (xem Bảng 2). Đa phần GV có kinh nghiệm dạy dưới 2 năm đều cho rằng phiếu đánh giá SET không hề phản cảm (Mean = 4,92), trong khi đó, điểm TBC ở mục này của GV có bề dày kinh nghiệm giảng dạy (từ 6 tới 10 năm và trên 10 năm) thấp hơn khá đáng kể (Mean = 4,31 và 4,41). Bảng 2. Độ phản cảm dưới cái nhìn của GV với thâm niên giảng dạy khác nhau Kinh nghiệm giảng dạy N Mean SD Dưới 2 năm 13 4,92 0,277 Từ 2 tới 5 năm 11 4,62 0,674 Từ 6 tới 10 năm 16 4,31 1,014 Trên 10 năm 54 4,41 0,687 Bảng 3 cho thấy không có sự khác biệt đáng kể trong đánh giá về độ phản cảm của bảng hỏi SET giữa GV các khoa khác nhau. Với những khoa và tổ bộ môn có ít GV tham gia trả lời bảng hỏi (Khoa Đức, Hàn Quốc, Bộ môn Tâm lý - Giáo dục và Bộ môn Ngôn ngữ - Văn hóa Việt Nam), tất cả đều cho rằng việc lấy ý kiến phản hồi của sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên là không hề phản cảm. Ở các khoa còn lại, mặc dù các ý kiến có độ phân tán nhất định nhưng đều có trên 70% GV đồng ý với nhận định là bảng hỏi SET không gây phản cảm và các nội dung câu hỏi không đi ngược lại thuần phong mỹ tục Việt. Phân tích ANOVA cũng không cho thấy sự khác biệt đáng kể về các thông số này (not statistically significant) giữa GV các khoa trong trường. Bảng 3. Độ phản cảm dưới lăng kính của GV các khoa khác nhau GV khoa Hoàn toàn không đồng ý =1 Không đồng ý = 2 Đồng ý 1 phần = 3 Đồng ý = 4 Hoàn toàn đồng ý =5 Tổng Khoa NN & VH CNN tiếng Anh 0 0 2 18,2% 3 27,3% 6 54,5% 11 100% Khoa Sư phạm tiếng Anh 0 1 4,5% 2 9,1% 6 27,3% 13 59,1% 22 100% Khoa NN & VH Trung Quốc 0 0 4 23,5% 3 17,6% 10 58,8% 17 100% Khoa NN & VH Pháp 0 0 1 12,5% 3 37,5% 4 50% 8 100% Khoa NN & VH Nga 0 0 1 5,3% 7 36,8% 11 57,9% 19 100% Khoa NN & VH Đức 0 0 0 0 2 100% 2 100% Khoa NN & VH Nhật Bản 0 0 0 3 27,3% 8 72,7% 11 100% 11Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 Khoa NN & VH Hàn Quốc 0 0 0 0 2 100% 2 100% Bộ môn Tâm lý - Giáo dục 0 0 0 0 1 100% 1 100% Bộ môn NN & VH Việt Nam 0 0 0 0 1 100% 1 100% Tổng 0 1 1,1% 10 25 58 94 Trong phần nhận xét mở từ phía GV về bảng hỏi, chỉ có một ý kiến liên quan đến vấn đề độ phản cảm của bảng hỏi SET, tuy nhiên, đó là ý kiến khá gay gắt: Phiếu phản hồi hiện nay không dùng để tính điểm thi đua, chỉ để phản hồi nên nó cũng ổn vì có phần mở cho sinh viên nhận xét; tuy nhiên, cá nhân tôi rất không ưa hoạt động này ... Tự nhiên đến thời tư bản lên ngôi mới sinh ra cái phiếu phản hồi ẩn danh rồi cho sinh viên đánh mấy con số, tự nó là một hoạt động vô cùng phản cảm (dù có thiết kế ra phiếu kiểu gì mà theo mô hình ẩn danh và đánh số thì vẫn phản cảm) vì nó khuyến khích sự tự cao tự đại và cẩu thả. Giảng viên cũng chưa bao giờ có quyền đánh giá sinh viên chung chung, mà chỉ là đánh giá bài làm cụ thể của sinh viên với các chỉ dẫn, tiêu chí chấm điểm khá rõ ràng, được thông báo trước cho sinh viên. Việc giảng dạy của giảng viên phức tạp hơn rất nhiều lần, sự đánh giá một cách dễ dàng rất vô đạo đức. Đây không phải là vấn đề sinh viên không có quyền đánh giá giảng viên, mà là đánh giá thì họ vẫn luôn luôn đánh giá, nhưng thể hiện bằng cái công cụ là cái phiếu đánh giá thì nó rất vớ vẩn, mất công bao nhiêu người Nên bỏ hẳn loại hình này chứ không phải là nâng cao hiệu quả. Việc sử dụng những cụm từ khá nặng nề như ‘vô cùng phản cảm’ hay ‘rất vô đạo đức’ cho thấy định kiến về hoạt động này trong GV đâu đó vẫn còn và việc nói không với SET, dù nó được thiết kế cầu toàn tới mức nào, vẫn tồn tại trong một bộ phận GV ở nền văn hóa Việt. Sự nhìn nhận của GV về tính hữu ích của các thông tin họ được nhận phản hồi cũng có đưa đến một kết quả khá thú vị. Trong khi tất cả các kết quả định lượng chỉ mang lại cảm giác hữu ích cho từ 22,34% (điểm TBC môn của trường) tới 41,49% (điểm TBC môn của cá nhân) GV, thì các nhận xét mở của sinh viên được 82,89% GV cho rằng hữu ích đối với họ. Bảng 4. Phần nội dung nào của bảng hỏi thầy cô thấy hữu ích N Xếp hạng đánh giá Điểm Trung bình chung môn học của cá nhân 39 41,49% 2 Điểm Trung bình chung môn học của tổ/khoa 29 30,85% 3 Điểm Trung bình chung môn học của trường 21 22,34% 4 Phần các nhận xét mở của sinh viên 78 82,98% 1 12 T.T. Tuyết/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 7. Kết luận, kiến nghị và đề xuất Kết quả của nghiên cứu này cho thấy nếu được thiết kế cẩn thận, có tính đến các yếu tố nội dung, kỹ thuật và văn hóa, bảng hỏi SET sẽ được GV đón nhận. Cụ thể trong nghiên cứu này, các kết quả khá tích cực từ chính GV, đối tượng ‘bị đánh giá’ đã minh chứng cho điều đó. 80% GV cho rằng tương quan điểm số nhận xét về họ trong phạm vi đơn vị là hợp lý, các chỉ số Mean về độ phù hợp của nội dung đề cập trong bảng hỏi SET, tính hữu ích và tính khách quan của SET đều cao. Điều này khẳng định tính chính xác và độ tin cậy của nội dung bảng hỏi được dùng trong trường. Tuy nhiên, giống như khuyến cáo của Beran et al. (2005), Spencer (1992) và Yao và Grandy (2005), việc dùng kết quả từ SET để nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy của GV còn là một dấu hỏi lớn khi chỉ số Mean của mục này chỉ dừng ở mức trên trung bình (Mean =3,44). Cần tiến hành thêm các nghiên cứu chuyên sâu để tìm hiểu nguyên nhân cho sự tồn tại này. Nhà trường cũng nên cung cấp các điều kiện và phương tiện hỗ trợ GV sử dụng hiệu quả hơn kết quả của SET để nâng cao chất lượng giảng dạy. Nghiên cứu này đưa ra một kết quả khá tích cực về cái nhìn của GV đối với hoạt động SET trong trường đại học. Đại đa số GV không quan niệm đây là hoạt động đi ngược lại thuần phong mỹ tục Việt. Đây là kết quả nghiên cứu không gây ngạc nhiên trong tổng thể nghiên cứu của đề tài này. Khi GV nhận thấy những lợi ích mà SET mang lại cho họ trong việc nhìn nhận và chiêm nghiệm lại hoạt động giảng dạy của mình, khi việc tiến hành khảo sát được thực hiện một cách khách quan, nghiêm túc, khi những phản hồi giữ được tính bảo mật cần thiết, ác cảm của GV với hoạt động này, dù ở môi trường văn hóa vẫn chịu ảnh hưởng của Nho giáo, cũng dần suy giảm và được thay thế bởi các cảm nhận tích cực hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý thêm rằng, đề tài này được thực hiện ở một trường chuyên dạy ngoại ngữ - nơi GV ít nhiều có những tư tưởng phóng khoáng hơn do được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Để có một kết luận bao quát hơn cho hoạt động SET trong cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, cần thêm những nghiên cứu ở các môi trường giảng dạy khác. Hơn nữa, ngay cả ở ĐHNN, ý kiến trái chiều, dù ít, cũng không phải là không có. Vì vậy, việc tiến hành SET luôn cần được thực hiện một cách cẩn thận, có tính đến các yếu tố văn hóa và đặc thù giảng dạy ở từng cơ sở. Nếu làm được như vậy, việc đón nhận hoạt động này của GV sẽ dần cải thiện. Tài liệu tham khảo Beran, T., Violato, C., Kline, D., & Frideres, J. (2005). The utility of student ratings of instruction for students, faculty, and administrators: A “consequential validity” study. The Canadian Journal of Higher Education, 35(2), 49-70. Brown, M. J. (2008). Student perceptions of teaching evaluations. Journal of Instructional Psychology, 35(2), 177-181. Burden, P. (2010). Creating confusion or creative evaluation? The use of student evaluation of teaching surveys in Japanese tertiary education. Educational Assessment, Evaluation and Accountability, 22(2), 97-117. Cashin, W. E. (1995). Student Ratings of Teaching: The Research Revisited. IDEA Paper No. 32. Creemers, B., & Kyriakides, L. (2008). The dynamics of educational effectiveness: a contribution to policy, practice and theory in contemporary schools. New York: Routledge. Dung, N. K., & Mcinnis, C. (2002). The possibility of using student evaluations in Vietnamese higher education. Quality in Higher Education, 8(2), 151- 158. Greenwald, A. G., & Gillmore, G. M. (1997). Grading leniency is a removable contaminant of student ratings. American Psychologist, 52(11), 1209-1217. Gunter, H. M., Grimaldi, E., Hall, D., & Serpieri, R.(2016). NPM and educational reform in Europe. In H. M. Gunter, E. Grimaldi, D. Hall, & R. Serpieri (Eds.), New public management and the reform of education. European lessons for policy and practice. London: Routledge. Hallinger, P., Heck, R., & Murphy, J. (2014). Teacher 13Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 evaluation and school improvement: an analysis of the evidence. Journal of Educational Assessment, Evaluation and Accountability, 26(1), 5–28. Hameed, F., Ali, A., Hameed, A., Saleem, Z., & Javed, Y. (2015). Teacher evaluation: the role of gender. Quality & Quantity, 49(5), 1779-1789. Harvey, L. (2003). Student feedback. Quality in Higher Education, 9(1), 3-20. Hattie, J. A. C. (2009).Visible learning: a synthesis of over 800 meta-analyses relating to achievement. London: Routledge. Kember, D., Leung, D. Y. P., & Kwan, K. P. (2002). Does the use of student feedback questionnaires improve the overall quality of teaching? Assessment & Evaluation in Higher Education, 27(5), 411-426. Marsh, H. W., & Roche, L. A. (1993). The use of students’ evaluations and an individually structured intervention to enhance university teaching effectiveness. American Educational Research Journal, 30(1), 217-251. Murphy, J., Hallinger, P., & Heck, R. H. (2013). Leading via teacher evaluation: the case of the missing clothes? Educational Researcher, 42(6), 349–354. Nguyen, P. (2016). Case Examination of Teacher- Tailored Student Evaluation of Teaching Augmented with Peer Observation of Teaching in a Vietnamese University. Doctor of Philosophy in Education Thesis. Victoria University of Wellington. Papay, J. P. (2012). Refocusing the debate: assessing the purposes and tools of teacher evaluation. Harvard Educational Review, 82(1), 123–141. Penny, A. R. (2004). Responding to students’ views about university teaching: the experience of teachers in Jamaica. International Journal of Educational Development, 24(6), 667-676. Ramsden, P. (2003). Learning to teach in higher education (2nd ed.). London: Routledge Falmer. Reid, K. (2010). An evaluation of an internal audit on student feedback within a British university: A quality enhancement process. Quality Assurance in Education, 18(1), 47-63. Reynolds, D., Creemers, B., Stringfield, S., Teddlie, C., & Schaffer, G. (2002). World class schools: international perspectives on school effectiveness. London: Routlege Falmer. Scheerens, J., Luyten, H., Steen, R., & Luyten-de Thouars, Y. (2007). Review and meta-analyses of school and teaching effectiveness. Enschede: Department of Educational Organisation and Management, University of Twente. Spencer, P. A., & Flyr, M. L. (1992). The formal evaluation as an impetus to classroom change: Myth or reality? (ERIC Document Reproduction Service No. ED 349 053). Retrieved from ed.gov/?id=ED349053 Stein, S., Spiller, D., Terry, S., Harris, T., Deaker, L., & Kennedy, J. (2012). Unlocking the impact of tertiary teachers’ perceptions of student evaluations of teaching. Wellington. Stronge, J. H., & Tucker, P. D. (1999). The politics of teacher evaluation: A case study of new system design and implementation. Journal of Personnel Evaluation in Education, 13(4), 339-359. Winchester, T. M., & Winchester, M. (2011). Exploring the impact of faculty reflection on weekly student evaluations of teaching. International Journal for Academic Development, 16(2), 119-131. Witte, K., & Rogge, N. (2011). Accounting for exogenous influences in performance evaluations of teachers. Economics of Education Review, 30(4), 641-653. Yao, Y., & Grady, M. L. (2005). How do faculty make formative use of student evaluation feedback? A multiple case study. Journal of Personnel Evaluation in Education, 18(2), 107-126. Zabaleta, F. (2007). The use and misuse of student evaluations of teaching. Teaching in Higher Education, 12, 55-76. 14 T.T. Tuyết/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 1-14 STUDENTS’ EVALUATION OF TEACHERS: IS IT AGAINST THE VIETNAMESE CULTURAL NORM? Tran Thi Tuyet RMIT University, 124 La Trobe Street, Melbourne VIC 3000 Abstract: Students’ evaluation of teachers has become a popular activity in professional development and teaching evaluation in the higher education systems worldwide. In Vietnam, this activity has been carried out in universities in the last 10 years, however, the implementation of this activity faces many difficulties as it is considered against the cultural norm in a Confucian Heritage Culture where students are not often allowed to comment on their teachers’ teaching. This article, based on the findings of a quantitative research study, reports the change in attitude of teachers in a university towards this against-the-cultural-norm-movement. The findings indicate that the negative attitude toward this activity has virtually disappeared when this activity was redesigned taking into account teachers’ comments and needs, local university characteristics and cultural thinking. It is clear from the findings that if the above factors are taken into account, student’s evaluation of teachers is not considered to be against the cultural norm of respecting teachers in Vietnam. Keywords: students’ evaluation of teachers, Vietnam, cultural norms, quality assurance, professional development PHỤ LỤC MẪU PHIẾU KẾT QUẢ SET GỬI CHO GV Giảng viên: Môn: Số lượng sinh viên tham gia đưa ý kiến: Các ý kiến khác:
File đính kèm:
- sinh_vien_danh_gia_giang_vien_lieu_co_trai_voi_thuan_phong_m.pdf